Trang - Chương 11 - Phần 2
Vùng này khá đẹp.
Dọc bờ sông lúa non mới mọc xanh rờn và xung quanh các làng mạc đào đang độ trổ
bông, ban ngày màu hồng, xế chiều lóng lánh như xà cừ. Xa xa là đồi núi và dòng
sông lượn khúc như con rắn vàng dưới ánh trăng. Thật là một nơi đất tốt dân
lành!
Thật ra cũng có
bọn đầu trộm đuôi cướp, nhưng chúng bóc lột mọi người không phân biệt màu da
hay bề ngoài các nạn nhân của chúng. Gia đình Đavít khỏi sợ nguy hiểm vì có
lính nhà nước bảo vệ, và quan Tổng đốc còn cho cắm trên thuyền cây cờ hiệu để
mọi người biết thuyền chở lễ vật ngư tiến mà không một ai dám đánh cắp.
Khi mọi nơi
trong thuyền đều yên tĩnh, Trang vào phòng khách vắng vẻ và lấy mền gối ra để
ngủ. Gió hiu hiu thổi, nàng ngủ một giấc ngon lành.
Cứ như thế, hết
tỉnh này đến tỉnh khác, thuyền đã gần đến giao điểm sông Hoàng Hà và sông Đào.
Gia đình Đavít không có ý định tiếp tục đi đường thủy đến tận Bắc Kinh nên đã
cập vào một bến đã định trước, mọi người rời thuyền lên bộ, ở đó các xe lừa của
ông Khương Sơn đã đợi sẵn.
Lắm lúc Trang
luyến tiếc đường thủy, vì từ khi theo đường bộ, cả ngày phải ngồi trong xe trên
những con đường gập ghềnh. Đến bữa, xe mới dừng lại để gia đình ăn vội ăn vàng
rồi lại lên đường ngay. Đêm đến, gia đình vào quán bên đường để nghỉ ngơi.
Trang bực mình vì không tìm đâu ra một quán trọ tươm tất. Ở đâu cũng vậy, khi
thấy đoàn người đông đảo xuống xe, chủ quán vội vã tiến ra mời mọc, khúm núm,
nịnh bợ và hứa sẽ cung phụng đầy đủ tiện nghi: nào cao lương mỹ vị để khách
dùng, nào phòng rộng rãi sạch sẽ để khách nghỉ. Nhưng khi vào phòng, Trang thấy
chán ngán. Nàng buộc dội nước sôi vào các giường gỗ trước khi cho trải mền
chiếu ra. Vì sự bất lực của mợ chủ, mọi việc đều do Trang chủ động. Còn Đavít
với tánh hiếu kỳ, đến một nơi nào chàng liền bỏ mặc gia đình để đi xem những
điều mới lạ nơi đó.
Đoàn xe lừa sau
bao ngày vất vả rồi cũng đến Bắc Kinh; lũ trẻ ngẩn ngơ vì cảnh vật, im lặng
ngắm xem những bức tường thành cao màu xám mờ dần tận cánh đồng ven đô. Mọi
người đều đã nghe nói đến cảnh tráng lệ của đế đô, nhưng chính Đavít cũng không
ngờ Bắc Kinh đồ sộ đến thế. Họ vào thành; tường thành dày đến độ giữa ban ngày,
từ khi vào đến khi ra khỏi cửa thành họ phải băng qua một vùng thiếu ánh sáng.
Ông Khương Sơn đã viết thư trước cho chi nhánh của ông ở Bắc Kinh nhờ thuê sẵn
nhà để đón gia đình Đavít. Họ đến đấy theo các đường rộng thênh thang mà Trang
thán phục vẻ đẹp đến nỗi không thốt nên lời.
Ngôi vườn nhà
này có tường chung quanh và bước vào cổng họ đã gặp ngay người nhà ông Khương
Sơn túc trực để tiếp đón họ. Đavít và người nhà ông Khương Sơn trò chuyện tại
phòng khách, trong lúc đó Trang đưa gia đình vào sân trong. Tôi tớ bắt tay vào
việc ngay và không mấy chốc đâu đã vào đấy.
Lũ trẻ vui thích
vì thấy lạ. Quí Lan dạo bước xem vườn và reo lên khi thấy những hòn non bộ với
những cây mai lùn tịt. Cuộc nhàn du ở đất đế đô bắt đầu. Trang lo ngại nhất là
về phần Đavít. Chàng sẽ thỏa nguyện với cuộc nhàn du này để khuây khỏa nỗi lòng
chăng? Cho đến lúc Đavít tiễn đưa khách ra về xong trở lại với vợ con, nét mặt
vui tươi rạng rỡ, nàng mới yên tâm.
Đavít nói với
vợ:
- Mẹ chúng nó ạ,
chúng ta hãy lưu lại đây một thời gian.
Quí Lan cũng vui
lây nhìn chồng mỉm cười.
Bỗng nhiên Đavít
tỏ vẻ âu yếm, tiếp:
- Cưng, anh
trông em giống như hồi anh mới thấy em lần đầu.
Nghe Đavít nói
vậy, Trang lẳng lặng lui ra, sợ có mặt nàng, sự bồng bột của tình yêu đang tái
phát có thể bị giảm bớt. Nỗi buồn cố cựu và sâu sắc của cuộc đời tiềm ẩn tận
đáy lòng, nàng vẫn còn cảm thấy, nhưng cố quên đi.
Từ đáy hồ sâu
tối tăm và hôi hám, những đóa hoa sen trồi lên mặt nước. Nàng sẽ hái hoa.
oOo
Mùa xuân năm ấy,
thành phố Bắc Kinh trở lại phồn thịnh như xưa. Dân chúng đã thoát khỏi sự sợ
hãi và những thử thách của chiến tranh, vui mừng chào đón Hoàng triều hồi kinh.
Hoàng đế còn quá
nhỏ nên lưỡng Hoàng Thái Hậu lãnh quyền nhiếp chính. Đông Cung Thái Hậu lớn
tuổi hơn Tây Cung Thái Hậu. Nhị vị Thái Hậu xinh đẹp lộng lẫy. Đông Cung Thái
Hậu rất yêu đời và đầy quyền thế. Người ta tiên đoán dưới triều đại của hai
ngài quốc gia sẽ phồn thịnh, mỹ nghệ và thương mại sẽ được phát triển mạnh mẽ.
Đavít rất ưa
thích thành phố Bắc Kinh. Nỗi buồn cố cựu đã tan biến, niềm vui thấp thoáng
trong ánh mắt. Áng mây sầu không còn vương trên nét mặt nữa, sức sống mãnh liệt
ngày xưa dồn ép trong người chàng nay đã hóa giải trở thành một nghị lực bền
bỉ.
Một hôm, chàng
nói với Trang:
- Tôi thích
thành phố này. Trang xem kìa, đàn ông thật là cao lớn, đàn bà thật là xinh đẹp!
Đối với họ, cô có vẻ như là con nít, Trang ạ.
Trang không cùng
một nhận xét như thế. Nhưng thật sự thì người đàn bà ở đây cao lớn dềnh dàng
hơn Trang, hai gò má cũng cao hơn.
Trang bĩu môi
làm Đavít bật cười. Chàng nói:
- Thôi, nói
chuyện khác vậy. Trang xem, đường sá ở đây rộng rãi biết bao… tôi thích thành
phố rộng rãi, khoảng khoát như thế này.
Trang đồng ý
nhận xét ấy. Ở đây đâu đâu cũng rộng rãi khoảng khoát. Đường phố đủ chỗ cho một
hàng mười chiếc xe bò cùng kéo đi. Hai bên đường san sát các hiệu buôn, bán đầy
những hàng hóa đẹp mắt và lạ kỳ. Dân chúng ai nấy đều lịch sự, xinh đẹp, tốt
bụng và quân tử. Không có một chút gì là nhỏ nhen ti tiện cả. Tất cả sự vĩ đại
của miền Bắc Trung Hoa đều được tóm thu lại trong thành phố này, nơi đây người
ta sống bằng bánh mì thay gạo.
Thành phố thu
hút khách bốn phương trời. Đavít thích chén tạc chén thù cùng bạn hữu của ông
Khương Sơn trong các đại tửu điếm đẹp đẽ và sang trọng. Chàng đã ăn thịt quay
trong một tửu điếm của người Hồi giáo; vui chơi giải trí mãi tới nửa đêm rồi ăn
vịt quay tại một tiệm ăn khác và tuyên bố rằng cả hai món đều ngon cả, điều này
chẳng lấy gì làm lạ. Thịt cừu non thật mềm, thái mỏng, ướp gia vị, xiên vào
xiên tre và nướng trên lò than hồng, ăn thật nóng cùng bánh ướt và rau mùi, quả
là một món ăn tuyệt diệu.
Tuy nhiên, vịt
Bắc Kinh làm được nhiều món ăn khoái khẩu hơn. Hết đêm này đến đêm khác, khắp
nơi trong các tửu điếm sang trọng ở Bắc Kinh, Đavít gặp những khách nhàn du vô
tư lự, cười nói vui vẻ, nếu không biết, chàng có thể cho rằng đó là những kẻ vô
công rồi nghề, nhưng thật ra ban ngày họ là những phú thương khôn ngoan sành
sỏi.
Họ ngồi chung
quanh một bàn tròn, nhấm nháp mấy món khai vị, cho đến khi người chủ tiệm mang
đến cho họ xem những con vịt đã cắt cổ nhổ lông, nhưng chưa nấu nướng gì. Họ
chọn một cặp thật béo, da thật vàng. Sau đó, người ta đem cặp vịt ấy quay trên
lửa than, cho đến khi da nó vàng cháy, dòn tan và bóng mỡ. Thế rồi người ta dọn
ra một dĩa da vịt, từng miếng cuốn tròn, dòn tan và béo ngậy ấy, kèm theo một
dĩa bánh tráng mềm và một dĩa đông sương nấu với hoa sơn trà. Các thực khách
múc một thìa đông sương đổ vào giữa miếng da vịt, bọc bánh bên ngoài để ăn. Món
ăn này phải ăn thật nóng thật ngọt và nhắm với rượu đã hâm. Rồi những dĩa khác
kế tiếp: thịt vịt quay trộn với cải bắp thật non, rồi thịt vịt nấu với nấm, với
măng hoặc hầm với hạt dẻ; mỗi thức hương vị một khác và món nào cũng ngon cũng
bổ. Món cuối cùng là món đầu vịt, người ta chẻ đầu vịt làm đôi, dọn ra dĩa để
khách có thể thò đũa móc lấy bộ não để thưởng thức cái hương vị tuyệt hảo của
nó.
Ăn uống như thế
làm sao mà chán được? Tuy nhiên tại đây cũng có nhiều tiệm cơm chay để phục vụ
các Phật tử, vì họ kiêng ăn thịt cá để cứu rỗi linh hồn. Người ta dọn cho họ ăn
các thức ăn nấu toàn bằng rau đậu, và trình bày khéo đến nỗi người ta khó tin
rằng trong các dĩa thức ăn này thiếu thịt cá. Mắt và lưỡi của các người mộ đạo
ấy được thỏa mãn, họ vừa cứu rỗi được linh hồn vừa thưởng thức được mùi vị thịt
cá mà họ kiêng cữ.
Khi khám phá ra
điều ấy, Đavít tươi cười nói:
- Họ thông minh
thật!
So với các thú
vui hết sức mới lạ, hết sức tân kỳ mà Đavít đã thưởng thức tại Bắc Kinh thì
những gì chàng đã được thụ hưởng từ thuở bé đến giờ quá đỗi nhỏ nhoi, ít ỏi. Ở
đây người ta có thể vào xem tại các đại hý viện những gánh hát hay nhất, những
phường xiếc, phường ảo thuật tài tình nhất, những ca sĩ nhạc sĩ lừng danh nhất,
hoặc có thể gặp gỡ ở đây nhiều văn nhân, thi sĩ, các nhà bác học uyên thâm.
Trong khi chờ
đợi vào triều yết nhị vị Hoàng Thái Hậu, tâm trí của Đavít được thảnh thơi,
chàng thụ hưởng tất cả mọi thứ vui trong thành phố, nhưng không ích kỷ thụ
hưởng một mình.
Buổi sáng, chàng
bận chăm lo công việc thương mại mà cha chàng và ông Khương Sơn đã phó thác.
Chàng đến tiếp xúc cùng các phú thương trong thành phố, ký kết các hợp đồng
giao hàng và nhận phiếu đặt hàng của họ đặt mua các sản phẩm của Âu Châu và Ấn
Độ.
Các nhà doanh
thương ở Bắc Kinh đã từng nghe nói đến các máy móc, các thứ hàng len, hàng nỉ,
đèn dầu và đồ chơi Tây phương mà họ không làm sao có được để bán, để dùng. Đặc
biệt là các đồng hồ treo tường, ai ai cũng thích cả. Sau cái đồng hồ mạ vàng
lớn mà Cao Liên đã mua để dâng lên Thái Hậu dạo nọ, nhiều chiếc cùng loại cũng
đã được tiến cung, và Đavít nghe nói đến nay trong cung cả thảy trên một trăm
chiếc như thế. Ngày xưa, đồng hồ được coi như vật ngự tiến, nay đã trở thành
một sản phẩm mà người dân nào cũng có thể ao ước.
Đavít đã viết
cho cha chàng như sau:
“Người ta có thể
bán tại đây hàng ngàn chiếc đồng hồ, miễn là đừng quá đắt, phải có hình trạm
trổ và mạ vàng bên ngoài. Tất cả hàng hóa ngoại quốc đều được dân chúng ưa
thích. Họ có tất cả những gì tốt đẹp và sang trọng như gấm vóc, lụa là, hàng
thêu, nữ trang và đồ gỗ tuyệt đẹp. Tuy vậy, họ vẫn ham chuộng các thứ gì tân
kỳ. Họ dám bỏ tiền mua bất cứ vật gì hào nhoáng bề ngoài xuất xứ từ ngoại
quốc”.
Công việc buổi
sáng hoàn tất, buổi chiều Đavít dành cho vợ con. Đavít thường dắt vợ con đi chơi
đó đây. Ngoại trừ các ngày trời mưa hoặc gió lớn mang những lớp mây bụi từ các
miền sa mạc xa xôi về. Hai tay chàng dắt hai đứa con, đi dạo dưới bóng các hàng
cây cổ thụ trong các đền chùa, đi xem hát, đến các cửa hàng bách hóa, hoặc xem
các đạo sĩ biểu diễn pháp thuật. Vợ chàng thường cùng đi với chàng, bỡ ngỡ hết
nhìn vật này đến vật khác một cách vui thích và tò mò. Cũng có đôi khi nàng bực
bội vì hai chân nhức nhối, không đi bộ được nhiều.
Trang luôn luôn
đi theo Đavít để săn sóc hai đứa trẻ. Đây là những ngày sung sướng nhất của đời
nàng. Nàng cười nói luôn miệng và không ngớt nhìn khen vật này vật khác. Không
bao giờ Trang tỏ vẻ mệt mỏi, trái lại luôn luôn khả ái; nàng đi chơi với Đavít
đến mấy tuần liền, trong khi Quí Lan ở nhà vì đau chân.
Quí Lan đã làm
quen với vợ của các phú thương và tham gia các cuộc đỏ đen cùng họ. Các bà hôm
thì họp ở nhà này, hôm thì họp ở nhà khác để chơi bài mạt chược. Họ dùng kiệu
có buông màn gấm để đi đó đi đây. Họ say mê bài bạc suốt ngày suốt buổi.
Lũ nô tì ưa
thích các bà đến chơi bài, vì khi ra về để tỏ là người lịch sự, mỗi bà bỏ một
ít tiền vào một cái bát để giữa bàn. Chúng nó chia nhau số tiền ấy. Trang không
dự phần, vì nàng không phải hạng người ti tiện như chúng, nhưng bản tính không
muốn làm mếch lòng ai, nàng khôn khéo nói:
- Vì tôi bận đi
theo cậu chủ để săn sóc các em bé, tôi không thể cùng chị em phục vụ mợ chủ,
nên tôi nghĩ nếu tôi chia phần vào đấy thì là một điều bất công.
oOo
Ngày trở về còn
xa diệu vợi. Cái lý do chính là vì phải chờ nhị vị Thái Hậu chấp thuận cho vào
triều yết để dâng lễ vật. Sự chờ đợi này có thể kéo dài hàng tháng, vì hai bà
còn đang bận cho sửa sang cung điện. Trong thời gian triều đình lưu vong, cung
điện đền đài bị hư hỏng rất nhiều, phải sửa chữa lại. Tây Thái Hậu đang còn ôm ấp
trong lòng một chương trình thiết kế rộng lớn. Ngài muốn xây cất một hoàng cung
mới, nhiều hoa viên, nhiều hồ cá, nhiều cầu đá và nhiều ngọn giả sơn tuyệt mỹ.
Ngân khố quốc gia kiệt quệ vì chiến tranh chống người da trắng và vì cuộc nổi
loạn của người dị giáo ở miền Nam.
Tây Thái Hậu đã
ban hành thêm nhiều sắc thuế mới để lấy tiền xây cất cung điện mùa hè và chỉnh
trang một cái hồ thật lớn để thưởng ngoạn. Ngài dự trù xây cất một nhà thủy tạ
bằng cẩm thạch giữa hồ, có đủ chỗ cho tất cả các cung phi mỹ nữ yến ẩm và tham
dự cuộc trình diễn của một đoàn hát có hàng trăm diễn viên. Các quan triều thần
mất ăn mất ngủ khi nghĩ đến số tiền chi phí lớn lao đó. Dư luận trong dân chúng
rất xôn xao về cái cuồng vọng ấy của Thái Hậu. Triều thần tâu trình cần phải canh
tân quân lực Hoàng gia vì không thể lấy gươm giáo để địch lại với súng đạn.
Thái Hậu ngạo
nghễ trả lời:
- Hễ hoàng triều
được vinh quang rạng rỡ thì trăm họ cũng được nở nang mày mặt.
Câu nói ấy đã
được loan truyền khắp nơi. Dân chúng chỉ cười khi nghe nói lòng kiêu ngạo và
chí cương quyết của Thái Hậu. Họ xem đó là một dấu hiệu lạc quan. Người ta sợ
sự mềm yếu và nhu nhược nơi người cầm đầu của quốc gia. Nhưng họ không sợ điều
đó ở nơi Thái Hậu. Người ta bắt đầu đặt những bài ca, bài vè hoặc kể những chuyện
khôi hài về những sự kèn cựa giữa hai bà Thái Hậu. Tính ngoan cố và gan dạ của
bà loan truyền khắp mọi nơi.
oOo
Vào đầu mùa hạ,
Đavít nhận được lệnh cho vào triều yết. Chàng đã dậy sửa soạn từ sáng tinh mơ,
vì sau khi tiếp kiến các quan đại thần, nhị vị Thái Hậu sẽ sẵn sàng tiếp nhận
các lễ vật dâng tiến.
Trang dậy thật
sớm, nàng giúp Đavít mặc áo, ăn điểm tâm và xem xét lại tất cả những gì cần
thiết để chàng mang theo vào triều. Nàng tiễn chàng ra tận cổng; các gia nhân
đi theo sau, họ xúc động nghĩ đến thiếu chủ của họ sắp được triều yết lưỡng
Hoàng Thái Hậu. Đavít bận áo dài bằng gấm xanh, khoác áo cộc bằng nhung đen,
đầu đội mũ có tua, tay mang nhẫn ngọc. Mọi người đều tấm tắc khen thầm khi nhìn
chàng bước lên ngôi trên chiếc kiệu.
Trang đứng dõi
mắt trông theo mãi cho đến khi chiếc kiệu khuất dạng trên đường phố. Rồi nàng
trở về phòng riêng nằm lại nhưng không thể nào ngủ được. Khoảng một hai giờ sau
Trang phải trỗi dậy để trông nom cho lũ trẻ ăn uống, chuẩn bị bữa tiệc chiều,
vì hôm ấy các bà sẽ đến chơi mạt chược cùng Quí Lan.
Trang không biết
Đavít sẽ về giờ nào, nhưng trong nhà phải chuẩn bị sẵn sàng để đón chàng. Quí
Lan cũng ăn bận và trang điểm sẵn sàng để nghe chồng kể lại cuộc triều yết.
Trang luôn luôn chăm sóc Quí Lan từng cái ăn cái mặc. Nàng không chịu để Quí
Lan tóc tai bù xù, áo quấn nhăn nhíu trước mặt Đavít.
Quí Lan thường
càu nhàu:
- Tôi đã già
rồi, tôi chỉ muốn được yên thân. Ban đầu, tôi phải tháo băng chân để làm vừa
lòng cô, rồi tôi lại phải chải tai, kẻ lông mày, chuốt móng tay, cô còn bắt tôi
phải tẩm nước hoa vào người chẳng khác nào một con kỹ nữ. Biết khi nào tôi mới
được yên thân đây?
Trang chỉ mỉm
cười.
- Nhưng thưa mợ,
phải chăng những điều đó đã làm cho cậu vui lòng?
Một hôm nọ Trang
đã trả lời như vậy khiến Quí Lan nhìn nàng với một đôi mắt xoi mói:
- À, thì ra cô
bắt tôi làm những việc ấy để chỉ làm đẹp lòng cậu ấy. Vậy thì cô không đếm xỉa
gì đến tôi cả sao?
Trang cảm nghe
tim mình ngừng đập. Nhưng nàng chỉ nói:
- Tôi chỉ nghĩ
rằng niềm vui lớn lao nhất của mợ là được làm đẹp lòng chồng. Nhưng nếu tôi đã
nghĩ lầm thì xin mợ chỉ bảo cho.
Quí Lan cảm thấy
bối rồi, làm sao nàng dám nói nàng không cần phải làm đẹp lòng chồng? Nàng đành
nín thinh, nhưng từ đó về sau Trang tránh không nói đến Đavít cùng Quí Lan nữa.
Nàng đã biết thận trọng, tâm hồn nàng cũng trở nên sâu sắc như chính cuộc đời
của nàng vậy.
Đavít trở về nhà
vào khoảng xế trưa hôm ấy. Chàng có vẻ mệt mỏi nhưng ra dáng tự đắc lắm. Cả nhà
đều sẵn sàng chờ đón chàng, vợ chàng xinh đẹp, áo quần chỉnh tề, các con chàng
sạch sẽ và ngoan ngoãn, lũ gia nhân kính cẩn nhưng tò mò.
Trang ra tận
cổng đến đón Đavít.
- Như thế này
quả thật là đã đòi hỏi ở cậu quá nhiều! Chúng tôi nóng lòng được nghe cậu kể
lại những gì đã xảy ra. Cậu chỉ cần kể lại một lượt là mọi người đều được nghe
tất cả.
Đavít nói:
- Trước hết hãy
để tôi ăn uống xong xuôi đã. Đói và khát quá rồi. Chúng tôi có ai được ngồi
đâu. Tôi phải quì phủ phục xuống đất, đến ê ẩm cả hai đầu gối.
Trang bước theo
chàng vào nhà. Nàng đã giúp chàng cất cái mão nặng nề, cởi cái áo gấm dày và
lột đôi hia bằng nhung đen. Trang trao cho chàng cái áo lụa mỏng, nhẹ nhàng, và
đôi giày cổ thấp bằng satanh. Chàng ăn và uống những gì Trang mang đến cho
chàng. Chàng đi nằm một giờ sau mới trỗi dậy và cảm thấy khỏe khoắn trong
người.
Trang triệu tập
mọi người trong nhà lại ở gian phòng chính. Đavít ngồi ở chỗ cao trọng nhất và
hãnh diện nhìn quanh một vòng vợ con cùng kẻ ăn người ở trong nhà.
Hôm ấy trời
trong đẹp, ánh nắng chan hòa khắp nơi và chiếu vào những cánh cửa lớn mở rộng.
Lúc bấy giờ chàng nghĩ đến những gì có thể làm cho một người đàn ông hãnh diện.
Vợ chàng ngồi đối diện ở phía bên kia bàn. Nàng bận áo satanh mỏng màu xanh lá
cây, tai mang hoa bằng ngọc bích, đầu cái trâm bằng ngọc bích và tay mang nhẫn
vàng cũng nạm ngọc bích. Bây giờ nàng vẫn còn đẹp như lúc chàng nhìn thấy nàng
lần đầu tiên trong gian phòng chính của nhà họ Khương vậy. Hai con trai của
chàng đứng hai bên. Chúng cũng được mặc áo quần chỉnh tề; áo dài bằng lụa, tóc
quấn đuôi sam buộc giải lụa màu đỏ. Bé Ba đã bắt đầu biết đi, người nhũ mẫu cầm
đầu một giải thắt lưng lụa, và để cho nó chập chững bước đi khắp nơi trong
phòng.
Trang ngồi gần
cửa lớn. Đavít biết rất rõ cái khuôn mặt xinh đẹp và trầm tĩnh ấy.
Lũ gia nhân cũng
áo quần tươm tất tụ họp đông đủ để nghe cậu chủ kể chuyện.
Đavít nâng chén
trà Tàu nhấp giọng rồi bắt đầu kể:
- Chắc mọi người
ai nấy đều biết, không dễ gì mà được triều yết Thái Hậu. Tôi phải chờ đợi hơn
hai tiếng đồng hồ liền trong một căn phòng nhỏ không có ghế ngồi cũng không có
trà nước gì cả. Ngoài tôi ra còn có các người khác đã được phép vào triều yết
Thái Hậu sáng hôm nay. Một vị hoạn quan đã dẫn chúng tôi vào và bảo chúng tôi
đợi ở đấy. Chính quan Tổng Thái giám sẽ gọi tên chúng tôi. Khi ông này đến,
trước hết ông chỉ bảo cho chúng tôi cách triều yết như thế nào, quỳ lạy tung hô
vạn tuế ra sao. Hôm ấy đức Đông Cung Thái Hậu se mình nên chúng tôi chỉ được
hân hạnh triều yết đức Tây Cung Thái Hậu. Người ta dặn chúng tôi không được nhìn
thẳng vào tấm bình phong hoàng gia mà chúng tôi đứng ở phía sau.
Thằng con lớn
của Đavít nói:
- Ba, ba có thấy
Thái Hậu không ba?
Đavít lắc đầu:
- Không ai có
thể nhìn thấy Thái Hậu con ạ. Ngài là Hoàng Thái Hậu, nhưng ngài cũng là một
người đàn bà. Một bà rất đẹp và là góa phụ, Ngài có những cử chỉ hết sức là
trang nghiêm.
Cuối cùng, chúng
tôi được mời vào tất cả một lượt. Tôi được xếp vào hàng thứ ba.
Thằng con lớn
lại hỏi:
- Tại sao lại
thứ ba hở ba?
Đavít tỏ vẻ bực
mình vì thằng bé. Trang từ từ đứng dậy kéo đứa trẻ đến bên nàng và quàng lấy nó
trong vòng tay mình.
Đavít tiếp tục:
- Tôi được xếp
vào hàng thứ ba là vì tôi không có phẩm trật gì chính thức như hai người quì
trước mặt tôi. Tuy vậy, trong số người không có phẩm trật, tôi là kẻ đứng đầu
vì ông Khương Sơn là một người tiếng tăm trong thành phố của chúng ta và vì
quan Tổng đốc tỉnh mình thường nhắc nhở đến tên ông Khương Sơn ở triều đình.