Trang - Chương 08 - Phần 1
8
Đavít thức giấc.
Chàng đang nằm trên giường, trong phòng tối om, ngoại trừ cái ánh sáng yếu ớt
của ngọn đèn dầu lạc leo lét chiếu qua bức màn mỏng. Đêm tối? Nhưng sao lại có
mặt trời…
- Lịch! - Chàng thều thào.
Trang nghe thấy
tiếng thều thào của chàng. Nàng ngồi trên một cái ghế đẩu ba chân, để khỏi phải
ngủ gật và để canh chừng hơi thở thoi thóp của chàng. Nàng rón rén bước đến bên
giường, vén màn nhìn chàng. Chàng ngước mắt nhìn nàng.
- Lịch… - chàng khẽ gọi lần
nữa.
- Lịch ngủ rồi. - Trang đáp.
Trang dùng chiếc
khăn tay bằng lụa mỏng của nàng để lau má lau môi cho Đavít.
- Tôi thấy… trong người yếu
lắm.
- Cậu cần ăn một chút ít mới
được, nằm yên, đừng động đậy nha!
Nàng buông màn
xuống, tiến đến cái lò than đặt ở góc phòng, mở vung một chiếc nồi đất, thò
thìa múc một chén cháo gạo nấu với đường đỏ. Nàng làm rất nhẹ nhàng, bình tĩnh,
không một tiếng động. Nàng trở lại bên giường âu yếm nói:
- Đavít để Trang đút cháo cho.
Trang sợ Đavít
sẽ hỏi chuyện lôi thôi, chàng muốn biết tại sao lại ra cớ sự này. Nhưng Đavít
không hỏi gì cả. Chàng nuốt chầm chậm, từng ngụm nhỏ, những muỗng cháo gạo nấu
với đường. Đường đỏ có tác dụng bồi bổ cho máu huyết những người bị thương. Vì
mất nhiều máu nên chàng cảm thấy yếu ớt. Đầu chàng nhức như búa bổ. Chàng nhớ
rõ tại sao Lịch lại vung gươm chém chàng. Chàng sẽ nhớ mãi suốt đời. Dẫu cô ta
có nói gì làm gì đi nữa cũng không có thể xóa bỏ được điều ấy trong tâm trí
chàng. Vậy mà cô ta vẫn ngủ yên!
- Nhức đầu quá! - Đavít nói.
- Trang sẽ cho cậu hút một hơi
a phiến.
Nàng đến bên
bàn, lấy cái tẩu, hơ thuốc phiện cho đặc rồi quay trở lại kề tẩu vào môi chàng.
- Hút đi cậu.
Đavít hút nhiều
hơi. Khói thuốc thâm nhập vào tận óc, cơn đau dịu dần. Khi đã tỉnh táo, chàng
nhìn thấy khuôn mặt của Trang như có một vầng ánh sáng bao quanh.
- Tốt quá!... tốt quá!... tốt
quá! - Đavít lẩm bẩm mãi không thôi.
Trang đặt tay
lên miệng chàng để chàng đừng nói nữa. Nàng nói rõ từng tiếng một.
- Trang yêu cậu. Trang không
thể nào hại cậu được. Trang yêu cậu, cậu có nghe Trang nói gì không?
Mơ màng, thích
thú, chàng mỉm cười mà không thể trả lời. Chàng đắm chìm trong sự dịu dàng êm
ái, phổi hít đầy hương thơm, tai nghe lời Trang thánh thót như một nhạc điệu,
chập chờn nhìn thấy khuôn mặt kiều diễm của nàng với bao âu yếm, yêu đương; rồi
hai mắt chàng ríu ríu dần và nhắm lại.
Khi biết chắc
Đavít đã ngủ, Trang bắt mạch ở cổ tay chàng. Mạch nhảy mạnh hơn. Trang có thể
để chàng nằm một mình mà không sợ. Nàng cần vắng mặt trong chốc lát để tin cho
bà Era biết Đavít đã tỉnh dậy, đã ăn được một chút cháo và đã ngủ trở lại. Nàng
đi ngang qua căn phòng kế cận, nơi đây, lão Hoàng ngồi bên một cái bàn, đầu gối
lên hai tay, ngủ ngon lành. Ông Era đã bảo lão Hoàng tỉnh thức ở đây để phòng
khi Trang cần gọi, nhưng vì nhân hậu, nàng để yên cho lão ta ngủ.
Ban đêm, ngôi
nhà có vẻ huyền ảo, im lặng chập chờn trong bóng tối dịu dàng. Trang tiếp tục
đi từ sân này qua sân khác, lẻ loi một mình. Trên mỗi cửa chính đều có treo
tòng teng một cây đèn lồng để soi đường. Trang đi trong cái ánh sáng yếu ớt ấy.
Khi đến sân nhà của chính nàng, con chó vểnh tai nghe, hít hít để đánh hơi, há
miệng ngáp, rồi lúp xúp chạy theo.
Trang tới căn
nhà của bà Era. Trong phòng ngủ còn ánh đèn. Trang bước vào thấy bà Era ngồi
trên giường, đầu tựa vào gối. Bà muốn tỉnh thức nhưng sự mệt nhọc đã làm cho bà
chợp mắt lúc nào không hay. Đầu bà nghẻo về một bên, miệng hé mở, ngáy khò khò.
Trang đứng bên
khe hở của bức màn, không dám động mạnh, sợ bà giật mình.
- Bà chủ… Bà chủ!
Thoạt tiên, nàng
khẽ gọi nho nhỏ, rồi sau đó gọi to dần để từ từ đưa hồn phiêu lưu và lo sợ của
bà về nhập với thể xác.
Bà Era mở mắt
ra. Bà giật mình đánh thót, kêu lên một tiếng sợ hãi, ngồi thẳng dậy, mắt ngó
Trang trừng trừng. Bà chưa hoàn hồn; Trang cầm lấy lấy bà khẽ vỗ vỗ.
- Con mang tin mừng đến cho bà,
nàng khẽ nói. Thiếu chủ con đã tỉnh; con đã đút cháo cho cậu và cậu đã ngủ trở
lại.
Bây giờ bà Era
mới hoàn hồn.
- Cậu có hỏi gì bà không con?
Để tránh khỏi
phải trả lời rằng Đavít không có hỏi han gì đến bà. Trang chỉ đáp:
- Đầu cậu nhức nhối nên tư
tưởng lộn xộn. Đút cháo cho cậu xong, con cho cậu hút vài hơi thuốc phiện để
cậu bớt đau. Sau đó cậu mới ngủ yên.
- Cậu không nói gì cả sao? - Bà
Era hỏi.
Bà rút tay ra
khỏi tay Trang.
- Cậu con hỏi cô Lịch.
- Con trả lời sao?
- Con nói rằng cô Lịch ngủ rồi.
Bà Era tựa lưng
vào đống gối, thở dài.
- Con phải trở lại cùng thiếu
chủ. - Trang nói.
- Khi cậu tỉnh dậy, đừng có cho
cậu biết cô Lịch đã chết, nghe con!
- Vâng, đó là điều dĩ nhiên!
Trang quay trở
về phòng Đavít. Khi đi ngang qua phòng nàng, Trang dừng lại để nhốt con chó nhỏ,
sợ nó đi theo làm rộn không cho Đavít ngủ.
Đavít vẫn ngủ
khi Trang trở lại bên chàng. Nàng cảm thấy mệt lả người. Khi chàng ăn được chút
cháo, nàng ít lo cho tính mệnh của chàng hơn. Nàng khẽ đặt mình nằm xuống chân
giường, quấn chăn lại, nghĩ cách làm sao để giấu Đavít, đừng cho chàng biết số
phận của Lịch ít nhất trong một vài ngày. Lương tâm chàng hết sức tinh tế, có
thể chàng sẽ hối hận vì những việc đã xảy ra. Tuy nhiên người ta không thể
trách cứ ai khác ngoài cô Lịch và linh hồn yêu chúa cuồng nhiệt của cô.
“Nhưng làm thế
nào để chàng chấp nhận điều đó?” Nàng lo âu tự hỏi. Dù sao cũng phải cố gắng
thuyết phục chàng cho được, nếu không cái chết của Lịch sẽ còn đeo đẳng ám ảnh
Đavít mãi suốt đời. Cũng như mọi người Do Thái khác, chàng sẽ bám lấy sự đau
khổ của chính mình suốt đời.
“Phải tìm cách
cho chàng giải trí, vui đùa, để chàng được khuẩy khỏa, sung sướng” Trang thầm
nghĩ. Và trong ý nghĩ đó, nàng đã ngủ thiếp đi.
Nhưng làm sao để
giấu Đavít cái chết của Lịch? Buổi sáng thức dậy, chàng không hỏi gì, có vẻ mơ
mộng. Trang thấy Đavít cựa mình khó khăn, bèn đến bên săn sóc giúp đỡ chàng.
Ông Era đến thăm
Đavít vào lúc rạng đông, mặt chưa rửa, râu chưa cạo, áo quần xốc xếch. Bà Era
đã đến liền sau đó. Bà bận một cái áo kép lông, dài và rộng. Rồi đến lượt lão
Hoàng và vợ của lão. Lũ gia nô thì lấp ló ngoài cửa để ngóng tin về sức khỏe
của thiếu chủ để thông báo ra ngoài.
Ông lang già trở
lại. Ông gỡ cái băng lụa quấn quanh đầu Đavít. Ông cúi nhìn thật kĩ đường cao
đen quanh bờ vết thương. Ông cho biết không có gì lo ngại nữa, và truyền làm
cháo thập cẩm cho Đavít ăn để bổ huyết. Ông nói:
- Cho ăn huyết heo là tốt hơn
cả.
Ông Era liếc
nhìn vợ:
- Thưa lão huynh, chúng tôi
không ăn thịt heo. - Ông dịu dàng nói. Nhưng vì tính mạng của con tôi thì…
- Cậu ấy còn trẻ và khỏe mạnh,
thôi thì dùng huyết gà cũng được - lão thầy Tầu nói. Nếu là người già cả thì
tôi khuyên nên uống sữa đàn bà kia đấy.
Người ta đã cắt
tiết gà, nấu với gan, gạo đỏ, rễ rau ba lăng luộc chín và trứng gà. Món cháo
thập cẩm này giúp Đavít thu hồi số máu đã mất. Mẹ chàng, ngày ngày đến ngồi bên
giường bệnh của chàng. Cha chàng thì lo lắng, hết đi ra lại đi vào. Nhưng Đavít
không hỏi han gì đến Lịch cả.
Ngày hôm sau, và
hôm sau nữa, trong khi Đavít đang phục hồi dần dần sức khỏe thì những tiếng
động trong nhà vẳng đến tai chàng. Những bước chân nhẹ nhàng qua lại không xa,
tiếng khóc thét lên của vị giáo trưởng, và vào lúc chiều tối có tiếng búa đóng
đinh vang dội.
Trang đang lom
khom nấu nước trên lò than hồng. Ông bà Era đang ngồi bên giường bệnh của
Đavít. Chàng nói:
- Mẹ!
Bà Era đứng dậy,
rời khỏi cái ghế dựa bước tới bên con:
- Gì thế con?
Giọng bà buồn
buồn và có vẻ từ tốn, đến nỗi trông bà khác hẳn trước kia.
- Lịch đâu rồi mẹ? - Chàng hỏi
chậm rãi và rõ ràng.
Bà Era liếc nhìn
chồng đang ngồi bên bàn sau lưng bà. Ông nói:
- Nên nói cho con rõ thì hơn,
Naomy à!
- Mẹ đã trách phạt nàng sao?
Đừng làm thế mẹ ạ!
- Chính Thiên Chúa đã phạt nó
con ạ! - Bà Era nói.
Và, đột ngột bà
bật khóc. Người đàn bà cao lớn khỏe mạnh này với một lòng nhiệt thành, suốt đời
chỉ biết hành động theo ý mình, đang tuôn trào những dòng nước mắt tuyệt vọng.
Bà nghẹn ngào không nói được tiếng nào, hấp tấp chạy ra khỏi phòng.
Ông Era chạy
theo vợ. Chỉ còn lại một mình Trang, nàng bình tĩnh, và vắn tắt kể cho Đavít
nghe sự thật. Nàng ngồi bên chàng, nói:
- Trong lúc Trang đang dùng
thắt lưng lụa của Trang để băng đầu cho cậu thì cô Lịch chạy snag phòng bên kia
một mình. Cô ta lượm cây gươm, cứa vào cổ…Cô đã chết.
Đavít nhắm mắt
lại. Chính cái thanh gươm mà chàng đã dùng để cắt lớp vải dày bên ngoài các
kiện hàng của đoàn thương hồ, bây giờ chàng như đang thấy nó xuyên sâu vào
người Lịch. Đột nhiên chàng buồn nôn - Trang la lên kinh hoảng. Nàng vội quơ
lấy tấm chăn hứng dưới miệng Đavít.
- Trời ơi! Cô ta đã chết rồi mà
vẫn còn hại cậu!
Đavít để rơi đầu
xuống gối.
I- m đi! - Chàng hổn hển… -
Ngươi sẽ không bao giờ hiểu được.
Câu nói này
chẳng khác nào những mũi nhọn đâm vào con tim tế nhị của Trang. Nàng không nói
gì; nàng không thể nói được. Nàng lẳng lặng cầm tấm chăn mang đi ra ngoài cho
lũ nô tì giặt giũ. Khi quay trở lại, nàng dừng bước sau cánh cửa, thấm nước mắt
bằng cánh tay áo phồng.
Trang đi sang
phòng bên cạnh, nơi đây những người thợ mộc đã đóng xong một cái quan tài. Quan
tài rất chắc chắn, bằng gỗ long não, tấm ván thiên đang dựng bên tường. Mấy con
ở gái đã liệm xác Lịch vào quan tài. Trang cũng như thím hoàng không mó tay vào
việc gì hết. Bọn tớ gái làm tất cả. Một đứa đang đứng sửa lại nếp áo của Lịch,
rồi đặt vào tay xác chết một cây nến để soi đường về cõi âm.
- Em che cổ cho cô ta. Một con
ở khẽ nói.
Nó lấy một cái
khăn lụa phủ lên vết thương ở cổ của Lịch.
Trang bước đến
nhìn khuôn mặt của Lịch bây giờ đã hóa ra nhợt nhạt. Khuôn mặt ấy dường như
thanh mảnh và hư ảo, có vẻ như được tạo nên bằng một chất liệu trắng và sáng.
Đôi mắt sâu, hai hàng mi đen dày in bóng lên má. Làn tóc nâu tuyệt đẹp phủ
xuống vầng trán nhợt nhạt, đôi môi bất động và cứng đờ.
Có tiếng chân
vấp vào ngưỡng cửa, Trang quay lại và thấy vị giáo trưởng tay cầm gậy, tay quờ
quạng về phía trước để tìm lối vào.
- Có ai giúp lão đến bên con
lão không?- Cụ hỏi, giọng trầm trầm.
(Trang tiến đến cầm lấy tay cụ và đưa cụ tới bên quan tài. Nàng chờ đợi trong
lúc giáo trưởng có vẻ như đang ngắm nhìn mặt Lịch). - Tôi nhìn thấy con tôi, cụ
nói tiếp. Tôi thấy nó với mẹ nó. Mẹ nó đã kéo nó ra khỏi địa ngục. Bà dẫn nó
đến trước đấng Dêhôva và khẩn cầu van xin cho đến khi người nhận lời.
Vị giáo trưởng
già tiếp tục lẩm bẩm:
- Mẹ nó khóc sướt mướt, bà đám
ngực cầu xin và đấng Dêhôva sẽ nhận lời. Lịch, con ơi! Chúa thử thách lòng
người, người hiểu tất cả mọi sai lầm của tư tưởng. Nếu con cầu đến người, người
sẽ không bỏ con.
Lời của cụ già
mù lòa này hết sức thành khẩn, thống thiết, đến nỗi con ở gái sợ hãi chuồn mất.
Còn lại một mình Trang. Chính nàng, nàng cũng phát sợ, nhưng nán đứng lại vì
xót thương cho người cha đau khổ. Nàng ngọt ngào nói:
- Xin mời lão sư đi nghỉ!
Nàng cầm lấy ống
tay áo của giáo trưởng và khẽ kéo về phía mình.
Nghe tiếng nói
của Trang, ông cụ quay phắt lại. Đôi mắt mù lòa mở lớn, chòm râu bạc và dài run
rẩy:
- Đàn bà kia, người là ai? -
Ông thét lớn.
Trang sợ đến
chết cứng. Ông cụ già này đã chế ngự nàng, làm nàng kinh khiếp.
Lời nói của ông
lão lại vang lên trùm lấy nàng:
- Thượng Đế đã tước đoạt lý trí
của người đàn bà này. Người không cho nó sự hiểu biết rộng rãi. Nó đã đuổi mồi
bắt bóng. Nó ở nơi những kẻ chết.
Giáo trưởng đưa
hay tay ra như vồ lấy nàng. Trang nhìn thấy đôi tay gầy gò ấy có một sức mạnh
kinh khủng đang tiến dần về phía nàng, nàng hoảng hồn vụt chạy như bị ma đuổi.
Giáo trưởng nghe
tiếng chân chạy mau, xa dần. Cụ mỉm cười ranh mãnh.
- Hãy dang ra xa khỏi ta, những
kẻ bất công. - Cụ lẩm bẩm một mình.
Rồi cụ ngẩng đầu
nhìn quanh một cách đắc thắng. Cụ thở dài, mò mẫm lối đi một cách khó khăn. Cụ
đưa tay mò quanh, không ngờ đúng vào cái hòm. Cụ sờ soạng từ đầu đến cuối rồi
thò tay vào phía trong áo quan. Cụ rờ rẫm xác con cụ, từ hai chân lên đến gối
và hai bàn tay giá lạnh. Cụ sờ nhầm cây nến, liền gỡ ra vứt xuống đất.
Đoạn, rất chậm
rãi, với một vẻ run sợ hãi hùng, cụ đau đớn sờ vào vết thương quanh cổ Lịch và
mò mẫm khuôn mặt thanh mảnh nhợt nhạt của xác chết. Người ta đã nói rằng Lịch
đã dùng gươm tự sát. Chính ông Era đã nói với cụ như thế, nhưng cụ không thể
nào tin được. Bây giờ, cụ đã tin và không chịu đựng được nỗi khổ đau, cụ ngã
sấp xuống nền nhà bất tỉnh.
Một lát sau, khi
người ta mang vôi đến để đổ đầy vào hòm và những người thợ mộc đến đóng nắp áo
quan, thì họ nhìn thấy cụ đang nằm bất tỉnh bên quan tài. Họ đỡ cụ dậy, đặt nằm
trên giường, rồi đi thông báo cho bà Era.
- Phải cho gọi thằng Arông đến
gấp. - Bà bảo.
Nhưng không ai
tìm thấy Arông đâu hết. Mụ Rasen không thấy gã trở về từ đêm hôm trước. Vậy,
chỉ có một việc là săn sóc giáo trưởng, cứu cụ tỉnh lại. Bà Era ra lệnh mang cụ
đến căn phòng mà trước đây cụ đã ở.
Chính bà Era đã
nhìn thấy điều khốn khổ này trước tiên. Cụ giáo trưởng đã tỉnh lại, cụ thở dài
và một tiếng kêu ảo não phát ra từ đôi môi già cả. Cụ vật mình vật mẩy như đang
chiến đấu với một sức mạnh vô hình.
Nhìn thấy vậy,
thím Hoàng vội vã chạy đi tìm bà Era. Khi bà bước vào phòng, giáo trưởng giương
đôi mắt mờ đục, trừng từng nhìn bà. Bà dịu dàng nói:
- Thưa cha!
Nhưng đôi mắt cụ
vẫn bất động.
Thím Hoàng hốt
hỏang:
- Ôi! Thưa bà, cụ ấy đã mất trí
rồi.
Đúng như vây.
Trong nhiều ngày, giáo trưởng không nói một tiếng. Cụ nằm dài trên giường, im
lặng, dẫu khi ăn uống hay cầu nguyện cũng vậy.
Rồi một hôm,
bỗng nhiên cụ mở miệng nói, và nói không ngừng. Cụ đã mất trí thật. Cụ không
còn biết ai, không còn nhớ ai, mà chỉ nhớ đến Lịch hồi còn bé đang sống bên mẹ.
Như thế, giáo
trưởng đã về trời trước khi cụ chết.
Với lòng quảng
đại tự nhiên, ông Era đã bảo lũ nô bộc:
- Hãy dọn một căn phòng trong
nhà cho giáo trưởng. Ta sẽ săn sóc cụ cho đến ngày cụ chầu trời.
Ông Era vì tốt
bụng mà nói như vậy, nhưng điều này đã làm cho vợ ông vô cùng cảm động. Khi chỉ
còn có hai người, bà quay trở lại với chồng, và bà tỏ ra rất khiêm nhượng dịu
dàng đối với ông như chưa từng có.
- Mình quá tốt! Bà vừa nói vừa
khóc. (một tay bà đưa ra nắm lấy tay chồng, một tay che hai mắt). Em muốn cư xử
với mình tốt hơn nữa, Era ạ!
- Nhưng xưa nay, mình vẫn cư xử
rất tốt kia mà! Ông nói với một chút vui vui trong lòng.
Ông cầm lấy tay
vợ, siết chặt.
- Không, bởi vì tôi thường hay
giận dữ…
- Kìa, Naomy! Chính anh cũng có
đôi khi làm phật lòng mình kia mà!
- Từ rày em xin sẽ khá hơn xưa.
- Ấy, mình đừng có quá hiền
nhé! - Ông Era nói pha trò để an ủi vợ. - Nếu không, làm sao anh theo cho kịp
em được! Thỉnh thoảng nổi sung một chút cũng vui.
- Mình thật tốt…thật tốt.
Bà nói mãi; ông
biết bà rất bồng bột, ông không nói gì. Ông cặp tay vợ kéo bà đi ra ngoài, vừa
đi vừa an ủi vỗ về bà.
- Bây giờ, Naomy ạ, chúng ta
hãy nghĩ đến con trai của chúng ta. Chúng ta có bổn phận làm lại cuộc đời cho
nó, làm cho nó được hạnh phúc. Đàn cháu nội phải được sinh ra tại nơi đây và
chúng ta hãy quên đi quá khứ.
Ông tìm cách dẫn
bà hướng về tương lai và bà đã tỏ ra ùng phục chồng.