Trang - Chương 06 - Phần 3

Sáng hôm
ấy, khi rời khỏi đền thờ để ra về, Đavít đã nức nở khóc. Chàng nhìn quanh.
Không ai có thể thấy được hai dòng nước mắt của chàng. Tuy đã nguôi nhưng chàng
còn cảm thấy buồn. Chàng không còn quan tâm gì nữa. Thiên Chúa đã không kêu gọi
chàng, chàng không thấy gì thay đổi hết. Chàng vẫn là chàng. Đavít cho thế là
tốt. Chàng không còn muốn gặp ông Khương Sơn cũng như vị giáo trưởng, chàng chỉ
muốn ở yên một mình. Chàng gấp mũ nồi lại, đút vào túi và rảo bước trên đường
phố, mắt nhìn quanh, không quan tâm gì hết, nhưng tâm thần đã dần dần định
tỉnh. Chàng bước vào đền thờ đức Khổng Tử. Tại đây người ta có thể xem nhiều
trò lạ mắt và nghe những tiếng lạ tai: các trò ảo thuật, múa rối, nhào lộn, gấu
khiêu vũ, két nói tiếng người v.v… Nhưng những trò này không làm cho chàng vui
thích như trước nữa. Đavít dửng dưng không buồn nhếch mép cười. Đavít nhìn thấy
một gánh hàng rong với những đĩa thức ăn ngon lành nóng sốt, chàng mua một đĩa,
nếm thử, nhưng hôm nay không ăn gì thấy ngon cả, bèn mang cho lũ ăn mày.

Mặc dầu cô
đơn, nhưng chàng không muốn gặp bạn bè, mà chỉ muốn đắm mình trong nỗi buồn êm
ái ấy. Đột nhiên chàng nghĩ đến Cao Liên và muốn nói chuyện với ông ta. Cao
Liên hiện đang có mặt tại thương điếm của ông Era. Ông ta có thói quen dậy trưa
và đến cửa hàng trễ, nhưng mãi mà đến khuya mới về nhà. Còn ông Era thì đến sớm
và về sớm. Đavít bèn đến kiếm ông ta.

Thương điếm
của ông Era hết sức lớn, tọa lạc tại một đường phố đông đúc, trên cửa treo
nhiều băng lụa màu bay phấp phới, kê nhiều hàng ngoại hóa, bán sỉ và bán lẻ.
Sau khi hợp đồng được ký kết với ông Khương Sơn thì tên hai nhà sẽ được viết
lên trên các băng lụa; bây giờ chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Era và con trai.”

Đavít bước
vào thương điếm, bọn làm công cúi chào, và khi nghe chàng hỏi Cao Liên, một
người trong đám ấy dẫn chàng đi vào phòng giấy riêng của ông ta. Trong căn
phòng mát mẻ, Cao Liên đang ngồi viết những hàng chữ Tàu ở một cuốn sổ lớn. Thấy
Đavít bước vào, Cao Liên đứng dậy. Ít khi Đavít đến một mình vì vậy ông Cao
Liên tỏ vẻ ngạc nhiên và lo lắng. Ông hỏi:

- Ba cậu ốm
à? Tôi vừa thấy ông đây mà!

- Hôm nay
tôi không gặp ba tôi đâu cả. Tôi muốn nói chuyện cùng chú, nếu chú cho phép.

Họ ngồi
xuống và Cao Liên nhìn Đavít không nói một tiếng. Qua nét nhìn hòa ái của ông
Cao Liên, Đavít không còn đắn đo nữa, chàng nói một mạch:

- Từ khi
chú kể chuyện dân tộc của chúng ta bị tàn sát đến nay, tôi rất khổ sở. Tôi cảm
thấy cần phải làm một cái gì thay đổi lối sống của tôi hiện nay, tôi nghĩ rằng
tôi không có quyền sung sướng tại đây, vui chơi thỏa thích và thụ hưởng cuộc
đời.

Một nụ cười
chua chát nở trên môi Cao Liên. Ông hỏi:

- Vậy, cậu
cảm thấy cậu cần phải khổ sở sao?

Đavít thành
thật:

- Tôi biết
là vô ích. Nhưng tôi nhận thấy trong lúc dân ta đang bị khốn đốn khắp nơi thì
tại đây, tôi sống như thế này là điều không phải.

- Vị giáo
trưởng đã khuyên dạy cậu, còn mẹ cậu thì bảo cậu cưới cô Lịch.

- Rồi chú
trở về và mang lại những tin tức ấy cho nên tôi nghĩ rằng phải vâng lời giáo
trưởng và mẹ tôi.

- Vậy trong
trường hợp vâng lời họ, cậu có ngăn được cái chết của dân tộc chúng ta không?

- Không,
không… Nhưng điều đó có thể làm nhẹ lòng tôi.

- Để được
toại ý mà cậu phải nghe theo lời vị giáo trưởng và vâng lời mẹ cậu cưới cô
Lịch. Vậy sao cậu không làm đi?

- Bởi vì
tôi hoang mang không biết chắc. - Đavít kêu lên. - Tôi muốn được như cũ, như
khi chưa biết gì về sự khốn khổ của dân tộc ta.

Đavít ngồi
trên một ghế đẩu, thấp hơn ghế của ông Cao Liên. Ông này nhìn xuống, chàng bối
rối.

- Nhưng cậu
đã biết và phải biết về điều đó. Nào ai trong chúng ta có thể chối bỏ sự thật?

- Sự thật
nào?

Ông Cao
Liên biết rất rõ gia đình Đavít. Cha chàng là một người tính tình nồng nhiệt,
khao khát hạnh phúc, và trong người mang hai dòng máu Do Thái và Trung Hoa,
giống như ông. Còn bà mẹ thì lại là một người đã kiêu hãnh vì sự tinh tuyền
huyết thống muốn bảo tồn tất cả những tập tục xưa cũ của một dân tộc trước đây
tự do và hùng mạnh, bây giờ sống như nô lệ, không đất đai, không tổ quốc, bị
tản mát khắp thế gian. Bà Era muốn truyền cho Đavít tất cả niềm kiêu hãnh của
bà. Bà ghen tức, chỉ muốn giữ lấy linh hồn Đavít cho riêng mình.

- Đấy là sự
thật. - ông Cao Liên nói. - Cậu hãy nhận biết cậu là ai và quyết định cậu phải
làm gì. Mẹ cậu nhận định cuộc đời theo quan điểm riêng của bà.

- Nhưng mẹ
tôi chỉ muốn tôi học sách Tôrát với giáo trưởng.

- Vậy thì
cậu sẽ nhìn thấy thế giới và nhân loại qua khung cửa hẹp của mẹ cậu.

Đavít xúc
động:

- Cả chú
nữa chú Cao Liên ạ. Chú cũng là người Do Thái kia mà!

- Phải, tôi
là người Do Thái lai Tàu (một vẻ trào lộng thoáng xuất hiện trên khuôn mặt dài
của ông Cao Liên rồi vụt biến mất). Sự thật tôi đã lạnh xương sống khi thấy các
thấy ma trên khắp các thành phố phía Tây, nhưng bởi vì đó là những thây ma song
sượt chứ không riêng gì họ là Do Thái. Tôi tự hỏi: Tại sao những người này,
những người kia bị giết như vậy? Tại sao lại ghét bỏ họ?

- Phải, tại
sao vậy? - Đavít nói. - Đó là điều mà tôi không ngớt suy nghĩ. Tôi nghĩ rằng
nếu tôi biết được điều đó thì tôi sẽ hiểu được tất cả.

Đôi mắt của
ông Cao Liên trở nên sắc bén hơn.

- Tôi có
thể nói cho cậu biết điều mà tôi chưa từng dám hở môi: Họ bị thù ghét chỉ vì họ
tách rời khỏi nhân loại. Họ cho rằng họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển
chọn. Tôi biết rõ điều đó như thế nào. Tôi sinh trong một gia đình đông con,
một đứa trong chúng tôi cả gan rêu rao rằng nó là người được cha mẹ tôi yêu quý
nhất, nên chúng tôi thù ghét nó (miệng ông Cao Liên mím lại). Đến giờ tôi vẫn
còn ghét nó. Tôi sẽ vui mừng nếu nó chết đi. Là một người văn minh, tôi không
giết nó. Nhưng nếu nó chết, tôi sẽ không rỏ một giọt nước mắt nào.

Trong cái
tranh tối tranh sáng của gian phòng đã im lặng, rộng rãi, Đavít hoảng hốt nhìn
ông Cao Liên lẩm bẩm:

- Chúng ta
không phải là những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn sao?

- Ai nói
điều ấy, phải chăng chính chúng ta?

Đavít bối
rối:

- Nhưng còn
kinh Tôrát thì sao?

- Sách
Tôrát do người Do Thái viết ra trong sự thất trận chua cay. Đó là sự thật.
Chúng ta là một dân tộc kiêu hãnh. Chúng ta đã mất nước. Hy vọng độc nhất của
chúng ta để phục hồi Tổ quốc là giữ cho được sự đoàn kết dân tộc. Muốn được
vậy, chúng ta phải giữ trọn một tín ngưỡng chung, tin vào một Thiên Chúa độc
nhất, Thượng Đế của chúng ta. Thượng Đế ấy biểu hiện cho Tổ quốc xứ sở chúng ta
và sự đoàn kết đã được thêu dệt bằng âu sầu, ảo não, thở than và bằng tất cả
những gì mà chúng ta đã mất. Đó là điều mà các giáo trưởng đã dạy cho chúng ta
từ bao thế hệ!

- Ngoài
những điều đó… không còn gì nữa sao? - Đavít hỏi.

Giọng của
chàng khàn khàn, kỳ lạ.

- Vì những
điều đó mà có nhiều người sẵn sàng hy sinh đấy. - Cao Liên dằn từng tiếng một.

- Chú cũng
thế chứ?

- Không.

Đavít không
nói gì. Những kỷ niệm của buổi thiếu thời đã sụp đổ. Trong chàng đồng vọng bao
kỷ niệm, những ngày thánh lễ, mẹ chàng đã đốt hàng bạch lạp đón lễ Sa Ba, ngày
lễ ánh sáng Haunkar tuyệt diệu; ngày lễ Memorah với 8 cây nến nơi cửa sổ để
tưởng nhớ tới ngày mà dân tộc Do Thái bại trận nhưng vẫn còn tiếp tục giữ đạo
dưới sự thống trị của người Syrie; ngày lễ Pourim để tưởng niệm trận chiến
chống bạo chúa Haman; và cái kỷ niệm rõ ràng hơn hết là cái ngày mà chàng được
chọn là chỉ huy dân tộc.

Sau một
lát, Đavít nghiêm nghị hỏi:

- Chúng ta
có buộc phải quên chúng ta là ai không?

- Không.
Nhưng chúng ta phải quên quá khứ và đừng có sống cách biệt nữa.

Chúng ta ở
đâu cứ sống ở đấy, và truyền sức mạnh tâm hồn của chúng ta cho dân tộc trên
hoàn vũ.

Ông Cao
Liên đưa hai bàn tay gầy guộc lên che mắt như đang cầu nguyện. Sau một phút im
lặng, ông ra hiệu cho Đavít lui ra. Đavít đứng dậy bước ra cửa, ông Cao Liên
ngăn lại:

- Tôi không
biết có nên nói với cậu những điều vừa rồi không; nhưng có sự thật nào tôi có
thể nói ngoài những cái mà tôi đã cảm thấy trong lòng? Cậu có thể kể lại cho ba
má cậu nếu cậu muốn, tôi không buộc cậu phải giữ kín làm gì.

- Không,
tôi đã xin chú nói cho tôi biết sự thật kia mà! Cảm ơn chú lắm.

Nói xong
Đavít ra về.

oOo

Khi Trang
từ giã Lịch trong vườn đào, nàng thấy Đavít từ ngoài sân bước lên thềm. Nàng
theo chàng vào phòng xem chàng đã ăn chưa và có cần gì không vì đó là bổn phận
của nàng.

- Tôi ăn
rồi, (và rút trong túi ra một cái mũ chóp đầu cho Trang).

- Cất cái
này đi. - Đavít nói.

Sau khi đã
cất cái mũ, Trang trở lại gian phòng và thấy Đavít đang ngồi khoanh tay trên
bàn. Nàng chăm chú nhìn chàng:

- Tôi có
thể giúp cậu những gì nữa đây?

- Không gì
cả. Khi nào cần tôi sẽ gọi.

Đavít có vẻ
nghiêm nghị, khe khắt khiến nàng không dám nói gì thêm, chung quanh chàng đầy
những sách, quyển thì mở trước mặt, quyển thì nằm dưới đất, khi Trang cúi xuống
lượm, chàng lạnh lùng nói:

- Để đấy.
Tôi vứt xuống đấy.

Nàng chỉ
biết rút lui, bối rối lo âu vì chưa bao giờ Đavít giấu giếm nàng điều gì mỗi
khi chàng lo nghĩ. Trang chỉ biết một điều duy nhất là: tiếp tục yêu thương
chàng. Nàng do dự, không biết có nên đi khỏi đây không? Nhờ trực giác bén nhạy,
Trang cảm thấy một làn không khí lạnh lẽo bao quanh Đavít. Một cuộc chiến đấu
nội tâm đang diễn ra trong chàng mà nàng chưa thể hiểu nổi.

“Ta muốn
biết những điều đó, nhưng không nên gấp gáp, nàng tự nghĩ. Những sự đã đổi thay
sẽ giúp ta hành động”.

- Chào cậu,
nàng dịu dàng nói.

Nhưng không
một tiếng trả lời. Nàng trở về phòng riêng và sửa soạn đi ngủ.

Nằm trên
giường, nàng suy nghĩ: “Ta cùng chàng nằm chung dưới một mái nhà”. Và nàng khẩn
cầu với mặt trăng: “Xin Nguyệt lão cho những điều con mơ ước được trở thành sự
thật”. Đoạn nàng nhắm mắt lại, ngủ trong một giấc mộng đẹp.

Khi ông Era
tiến đến phòng Đavít, ông thấy ánh sáng yếu ớt của ngọn nến lọt ra bên ngoài,
ông nấp cạnh khung cửa sổ mắt cáo nhìn vào trong. Ông hoảng hồn. Đavít trầm
ngâm nghĩ ngợi, khuôn mặt xanh xao, hết sức buồn bã, ông đâm ra khiếp sợ. “Kìa
việc gì đã xảy ra thế nhỉ! Thật là tai hại khi ta để cho đàn bà và cái ông già
lẩm cẩm ấy mặc tình hành động”. Ông tự nghĩ. Biết tính sao đây nếu ông để mất
đứa con trai độc nhất, biết bao yêu mến! Nó là đôi đồng tử của mắt ông, là niềm
hy vọng của cuộc đời ông và sự nghiệp thương mại của ông!

Ông xô cửa
bước vào, hung tợn như một con gấu, vì sau khi xoa bóp màng tai cho ông, Trang
không có chải lại tóc và ông cũng quên đội cái mũ chóp. Tóc tai rối bù trông
đến khiếp. Khi suy tư ông thường nắm râu cằm kéo mạnh, áo quần xốc xếch, vì ông
có thói quen gãi mỗi khi có điều suy nghĩ.

Đavít nhìn
ông, ngạc nhiên. Nhưng ông Era đã nói:

- Trăng
tuyệt đẹp! Những đêm như đêm nay, ba không sao ngủ được. Ba đã sai lão Hoàng
sang xem ông Khương Sơn còn thức hay không. Nếu bác ấy còn thức thì mời bác ấy
và cậu bên ấy cùng ta ra chơi trên mặt hồ. Ba còn nợ bác ấy một bữa nhắm. Ba
phải đãi trà bác ấy ngay trong đêm nay. Lão Hoàng đã mướn thuyền, mua rượu đặt
tiệc và thuê bọn ca kỹ. Đi con! Sửa soạn đi với ba.

Ông kéo tay
Đavít. Sau đôi mi rậm rạp, ông nhìn con. Khuôn mặt râu ria của ông, đầu tóc rối
bời của ông dường như tươi tỉnh lên.

Nhưng khi
ông thấy Đavít ngập ngừng do dự, ông quàng tay ôm lấy vai chàng:

- Đi con
cưng của ba, - ông thì thầm - con còn non trẻ! Hãy vui chơi. Đợi đến già rồi
suy tư cũng không muộn, tội gì lo nghĩ cho mệt xác!

Làn hơi ấm
áp của ông Era, giọng nói ngọt ngào êm dịu và cái vòng tay chắc nịch của ông
đang quàng lấy Đavít đã làm chàng cảm động. Chàng lăn mình vào lòng cha và òa
khóc, không một chút thẹn thùng. Ông Era ôm chặt con vào lòng, ông đã hiểu! Mắt
ông ngấn lệ, những giọt lệ giận dữ. Ông nghiến răng lẩm bẩm:

- Rõ là một
sự hành hạ - thế là thế nào đã chứ? Họ đã tự hành hạ mình và hành hạ tất cả mọi
người chung quanh họ. Nhưng lần này, họ hành hạ lũ trẻ! Tôi không muốn như thế!
Họ làm như thế để làm gì chứ? Tuổi trẻ vô tội. Chúng ta đã biết gì về Chúa?
Thật cái lão giáo trưởng già lẩm cẩm…

Đang khóc,
Đavít bỗng bật cười khi nghe cha càu nhàu tức giận. Ông Era đẩy chàng ra, nhìn
thích thú:

- Tốt, cười
lên con! Tại sao không cười phải không con? Có thể Thiên Chúa thích tiếng cười,
nào ai biết được? Bây giờ con sửa soạn đi. Con hãy bận cái áo nào đẹp nhất.
Chúng ta đi rất khẽ để người trong nhà khỏi thức dậy. Cha con ta đợi nhau ngoài
ngõ.

Đavít trở
vào phòng, ngạc nhiên nhận thấy mình khoan khoái lạ lùng. Sự sầu muộn của ngày
hôm ấy đã hóa nên niềm vui tươi hoan lạc. Cái mặc cảm tội lỗi đã biến mất,
nguồn an ủi vô bờ của cha đã đập tan mọi ưu tư sầu muộn. Chàng chải tóc và để
đầu trần. Chàng bận áo lụa tàu, màu xanh tươi và vấn một thắt lưng mềm bằng lụa
đỏ. Chàng mang tất trắng và giày tàu bằng nhung đen. Chàng đã sửa soạn xong sau
mất vài phút.

Ông Era
ngắm nghía Đavít với đôi mắt yêu thương vô bờ. Ông cảm thấy sẵn sàng chống trả
bất cứ ai để bảo vệ cho con trai ông. Con trai ông là của ông. Ông không thể
giao nộp cho ai cả. Ông đột ngột nói:

- Cha không
phải là Abraham! Cha không hy sinh con đâu, ôi con thương mến!

Ông quàng
lấy vai Đavít và hai cha con cùng đi ngang qua các sân rộng ngập ánh trăng,
xuyên qua cửa ra đường phố. Họ đi bộ như vậy đến tận bờ hồ. Lúc ấy đã khá khuya
nhưng vẫn còn dư thời giờ để tiêu khiển, những người sống chừng mực đều đã ngủ
khò trên giường, nhưng các thanh niên và những ông lão còn yêu đời thì không
thể bỏ qua những đêm trăng đẹp như đêm nay. Mùa hạ đã gần tàn. Mùa thu sắp tới;
chẳng bao lâu nữa hoa sen trên hồ sẽ tàn tạ. Bây giờ là lúc thụ hưởng cuộc đời.

Ông Era và
Đavít đi dọc theo những con đường vắng lặng; một vài người đàn bà còn ngồi
trước ngưỡng cửa nhà họ, cho con bú và nhìn trăng mơ mộng. Hai cha con đến bờ
hồ nơi mà ông Khương Sơn và hai người con trai lớn của ông đang chờ đợi. Hai
chàng trai vui vẻ, sẵn sàng nô đùa. Người con trai trưởng của ông Khương Sơn
giống cha như đúc, cũng khuôn mặt chữ điền với đôi mắt hiền lành và đôi môi
láng bóng. Đavít nhận thấy người em vóc dáng thanh mảnh và đẹp trai, khiến
chàng liên tưởng đến Quí Lan. Nghĩ đến khuôn mặt yêu kiều của nàng, quả tim của
chàng bỗng đập mạnh. Hai chàng thanh niên tiếp đón Đavít một cách vui vẻ. Họ
siết tay nhau và mặc cả mướn thuyền trong khi ông Khương Sơn và ông Era còn
đứng trên bờ.

- Chúng ta
cùng có chung một ý định đó bác Era ạ! - Ông Khương Sơn nói. - Khi tôi sai
thằng tiểu đồng của tôi sang mời bác đi thưởng trăng cùng chúng tôi thì nó gặp
lão Hoàng của bác ở ngưỡng cửa.

- Con trai
tôi trong thời gian gần đây học hơi nhiều. - Ông Era nói một cách thận trọng. -
Nó cần được giải trí để quên bớt sách vở.

Ông Khương
Sơn biết rõ câu nói bóng gió của ông Era. Ông sẽ đặt lại vấn đề này sau khi họ
đã thấm hơi men. Ông không tỏ một dấu hiệu nào cho Đavít để nhắc đến cuộc gặp
gỡ hồi sáng. Thời nào việc ấy.

Mấy cậu
thanh niên đã chọn thuyền xong, và người ta đang cầm sào cập thuyền vào bờ. Tất
cả xuống thuyền. Ông Khương Sơn và ông Era ngồi dưới một cái tán lụa, ba người
con trai thì ngồi bên ngoài trời. Phía sau thuyền, một bà già đang quạt một lò
than đun nước pha trà.

Người lái
thuyền lễ phép:

- Thưa các
đại nhân, quí vị có ý định đến ăn tối tại chỗ nào đấy ạ?

- Tại sao
không bảo họ mang xuống thuyền này, có phải tiện không. - Ông Khương Sơn nói.

Đã được
quyết định như vậy, người lái thuyền bèn cho thuyền lướt về phía Kim Tước tửu
lầu.

Đối với
Đavít, chưa có đêm nào êm dịu như đêm nay. Không gian yên tĩnh. Chàng ngồi dựa
lưng nhìn trời trăng sáng vằng vặc, tai nghe tiếng lá sen cọ nhẹ vào mạn
thuyền. Chàng quay người lại, khom mình với tay ngắt một gương sen, chàng bẻ
ra, bên trong trắng và khô, những hàng sen xếp đều đặn. Tách ra từng hạt, Đavít
bóc vỏ xanh khoan khoái nhai cái nhân màu trắng ngà.

Người lái
thuyền khom mình với lấy cái gương sen rỗng và cẩn thận giấu dưới những lá sen.
Gã nói:

- Năm nay
lão già Lưu đã mua trước sen trong hồ nầy. Hắn ta yêu cầu cảnh sát phạt nặng
những ai bứt sen của hắn. Nhưng thưa thiếu chủ, cậu cứ ăn như ý. Cậu càng ăn
nhiều bao nhiêu, lão Lưu càng thâu lãi ít bấy nhiêu. Chúng tôi chỉ xin thiếu
chủ một món tiền lẻ để chuồi cho cảnh sát là xong.

Mọi người
bật cười vô tư lự. Đavít dựa ngửa trông trăng. Chàng không còn muốn nghĩ ngợi
gì hết, không một vấn đề nào phải giải quyết, không một ngờ vực nào, một chiến
đấu nào ở nội tâm; chàng tự tiết chế để sống vui và thụ hưởng cuộc đời.

Thuyền cập
vào một cái bến rất thấp, cạnh tửu điếm. Con ông Khương Sơn đang thảo luận về
các món ăn.

- Món cua,
dĩ nhiên phải có rồi! - Người con cả nói.

- Cua rang muối,
chứ đừng ăn cua hấp. - Người em tiếp.

- Xin các
tiểu chủ nhớ đặt mua thứ rượu nào thật ngon để dùng với món cua, người lái
thuyền nói. Vì đây là một món ăn đặc biệt, cua ở đây ăn toàn đồ thừa của các
thực khách từ thuyền ném xuống hồ, thức ăn càng bổ thì thịt cua càng ngon.

- Hãy làm
cua hấp, như thế thịt mới thơm. - Ông Khương Sơn nói.

Qua vài
lời, mỗi người một ý, họ đã đặt món cua, món vịt quay, món rau và món chè kê
nấu với chà là. Chính ông Khương Sơn đã đặt món ăn cho người chủ quán; hắn ta
đã hấp tấp chạy đến khi nghe gã lái thuyền gọi. Viên chủ quán đứng bên bờ,
khuôn mặt phì nộn, bóng láng dưới ánh trăng, tươi cười niềm nở. Gã dạ dạ mỗi
lần ông Khương Sơn đặt một món. Đoạn gã hỏi:

- Thưa các
quan khách, các ngài có muốn nghe ca hát không ạ! Ăn món cua của nhà hàng chúng
tôi, uống rượu của nhà hàng chúng tôi dưới ánh trăng trong như thế này mà không
nghe ca nhạc thì có khác gì cưới một bà vợ không có của hồi môn!

Mọi người
bật cười rồn rã. Cậu con thứ hai của ông Khương Sơn vui vẻ nói:

- Hãy gọi
ba cô hát thật hay. - Rồi quay sang bố, vẻ láu lỉnh. - Ba cô đủ chưa hả ba?

- Đủ rồi,
đủ rồi! - Ông Khương Sơn mỉm cười. - Tôi chỉ nhìn ngắm các cô ấy. Các cô chỉ có
hát cho chúng tôi nghe mà thôi. Hai chúng tôi đã già rồi, có phải thế không đại
huynh?

- Đúng rồi! -
Ông Era đáp (ông dựa ra sau khoan khoái). - Cuộc đời thật đáng sống! - Ông đột
nhiên nói.

- Tại sao
chúng ta lại phải sầu khổ? - Ông Khương Sơn nói. - Khi mặt trời đã cho chúng ta
giàu sang, sầu khổ làm gì vô ích.

Trên khoang
thuyền lộ thiên, mấy cậu thanh niên nằm tựa vào những cái gối bọc lụa một cách
ngả ngớn. Ánh trăng chiếu xuống họ như một thứ huyền ảo. Trông họ giống như
những pho tượng thần nằm nghỉ. Trên bờ, ngôi tửu điếm rực ánh đèn lồng và từ
các khung cửa sổ ánh đèn yếu ớt chiếu ra, văng vẳng tiếng ca hòa cùng tiếng
địch và tiếng trống cơm vỗ nhịp.

Ông Era đã
từng tham dự những buổi dạ tiệc có đàn hát như vậy nhưng ông không hiểu hết ý
nghĩa. Bây giờ, ông nhận thấy phải lựa chọn. Trong thành phố này, những thú vui
loại này ở trong tầm tay của ông, nhưng ở nơi đây còn có sự hiện diện của vị
giáo trưởng sầu khổ vô tận. Con người thường ưa sung sướng, ghét sầu muộn.
Nhưng vị giáo trưởng thì đã lao mình vào sầu muộn, sự sầu muộn bất tuyệt của
con người ám ảnh bởi Thượng Đế. Cụ lại còn tỏ lộ một thú vui ảm đạm và kỳ lạ.
Nổi khổ đau càng sâu đậm thì niềm hoan lạc càng gia tăng, chẳng khác nào những
con thiêu thân đập cánh khi lao mình đến bên ngọn lửa. Sự so sánh thật đúng;
linh hồn con người tự thiêu đốt trong sự chiêm ngưỡng Thượng đế. Nhưng loài
người có cần cùng một thứ hạnh phúc như thế cả không? Vị giáo trưởng tự do chọn
lựa con đường hạnh phúc của cụ nhưng không được phép ép buộc bọn trẻ, “đặc biệt
là con ông”, ông Era trầm ngâm nghĩ ngợi.

- Suy nghĩ
gì thế đại huynh? - Ông Khương Sơn hỏi. - Tôi xem chừng trong lòng đại huynh có
điều không ổn?

- Tôi đã
suy nghĩ về hạnh phúc của con người. Mọi người có thể hạnh phúc hết thảy chăng.
-

Miệng ông
Khương Sơn mím lại.

- Những
người nghèo khổ thật khó mà có hạnh phúc. Mà cũng khó cho những ai đặt hạnh
phúc độc nhất của mình vào kẻ khác. Có một yếu tố may rủi: trong sự nghèo khó
từ bên ngoài đến và trong tình yêu do ở trong lòng mà ra. Nhưng nếu ai vượt qua
được sự nghèo khó và biết yêu thương vừa phải thì không có trở ngại nào ngăn
cản hạnh phúc đến với mọi người.

- Khi đại
huynh nói đến một tha nhân, đại huynh đã nghĩ đến con người hay Thượng đế?

- Cả hai. -
Ông Khương Sơn đáp. - Hạng người này quá yêu thương con người nên đã bị chế ngự
bởi tình yêu, hạng người kia thì vì quá yêu Thiên Chúa nên đã biến thành nô lệ
của Ngài. Con người phải được sống tự do và độc lập.

Câu chuyện
chấm dứt vì bóng ba cô gái thấp thoáng từ cửa tửu điếm bước xuống. Một cô cầm
đàn tỳ bà, một cô cầm chũm chọe và một cô cầm trống nhỏ. Họ bận áo màu hồng
đào, màu thiên thanh và thủy lục, phất phơ trước gió, trông đẹp như hoa. Bọn
tửu bảo theo sau, mang thức ăn, trong khi bà vợ người lái thuyền lo dọn bàn.
Một vài phút sau, tất cả đều sẵn sàng, các người lái thuyền đẩy thuyền ra giữa
hồ. Bờ sông rực rỡ ánh đèn xa dần và tiếng đàn tiếng nhạc chỉ còn là những
tiếng vang yếu ớt.

Ông Khương
Sơn mời ai nấy cầm đũa. Mấy tên tửu bảo hầu rượu. Các nàng ca kỹ ngồi trước,
lưng quay về phía ánh trăng, mặt đối diện với thực khách. Họ bắt đầu cử nhạc và
đồng ca một điệu hết sức trầm bổng, mê ly, đến đỗi mấy cậu thanh niên không dám
nói cười. Các cảnh thanh nhã và mỹ miều dường như quyện lẫn vào bóng đêm dưới
vầng trăng sáng. Tiếng hát của họ cao vút và dịu dàng hòa làm một, có khi tách
rời làm nhiều âm điệu réo rắt đê mê. Các cậu thanh niên tai lắng nghe, mắt ngắm
nhìn những khuôn mặt tuyệt mỹ nhợt nhạt của các thiếu nữ, mắt họ đều to, buồn
và dửng dưng. Đêm trăng tuyệt vời, lời ca thánh thót, thức ăn ngon lành, khoái
cảm ri rỉ thấm vào lòng Đavít. Sự thấp kém tầm thường đã lăng nhục chàng. Sau
bao ngày sống cùng vị giáo trưởng, tâm hồn Đavít đã đạt đến một trình độ giáo
dục hết sức cao, nó không có thể hạ thấp một cách quá đột ngột từ trời xuống
đất. Tối hôm nay thú vui trần thế mời gọi quyến rũ nhưng cõi trời thanh cao vẫn
khép kín, lặng thinh.

***

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3