Trang - Chương 06 - Phần 2
Đavít và
ông Khương Sơn sánh vai đi trong ngôi đền, mỗi người suy nghĩ về những ước muốn
của mình. Ông Khương Sơn tự nhủ rằng ông không có gì phải khiếp sợ về việc gả
cô con gái thứ ba của ông cho con trai một gia đình mà giáo thuyết hết sức gần
gũi với đạo lý thánh hiền; Đavít thì cảm thấy cái trọng lực mà chàng đã tiếp
nhận từ ngày Cao Liên trở về, hầu như tan biến mất. Sự hiện diện của ông Khương
Sơn đã an ủi chàng, làm nhẹ lòng chàng và cởi mở những mối dây đã thắt chặt tâm
hồn chàng bấy lâu. Cái con người tốt bụng này khó lầm lẫn, còn vị giáo trưởng
thì đôi khi đã lầm lạc một cách nguy hiểm. Những tia sáng yếu ớt của hy vọng và
an ủi đã len lỏi vào tận các xó ngách thầm kín nhất của tâm hồn chàng, và Đavít
sau bao ngày khắc khổ, chàng mong ước được tiêu khiển; muốn được như trước kia,
tức thời đi khắp các nẻo đường tràn ngập ánh mặt trời. Chàng có cảm tưởng như
được trở về nhà sau cuộc hành trình trong một xứ miền u sầu ảm đạm; chàng đã
nhận được cái cảm giác ấy từ ông Khương Sơn, nơi con người oai vệ, khoan thai
và đại lượng đang đi bên chàng.
Ông Khương
Sơn thán phục tất cả những gì mà ông đã thấy, những kiến trúc bằng đá, những
đài kỷ niệm vòng cung, những chậu nước hình hoa sen trong các sân, nơi tắm gội
và giết súc vật.
Ông rất
ngạc nhiên thấy những kiến trúc này trong một đền thờ. Khi ông được giải thích
rằng người Do Thái nhận thấy thể xác phải được trong sạch để giữ đúng nghi lễ,
ông gật đầu đồng ý, nhưng khi Đavít giải thích thêm rằng tôn giáo của họ bắt buộc
phải giết một con vật rút gân để cúng tế, thì ông Khương Sơn thắc mắc chẳng
hiểu lý do. Khi ông nghe kể câu chuyện một người tên là Jacob chiến đấu với
thiên thần, ông liền cười với một nụ cười hoài nghi.
- Về phần
tôi, - ông nói - tôi không chấp nhận việc sát sinh, dù là để thờ phụng. - Rồi
ông tiếp với một nụ cười cởi mở.
- Tuy
nhiên, khi người ta dọn cho tôi một đĩa thịt heo thì tôi vẫn xơi ngon lành như
thường lệ.
Đavít không
nói gì; chàng tự hỏi không biết cụ giáo trưởng đã rời khỏi gian nội điện chưa?
Chuyện gì sẽ xảy đến nếu cụ vẫn còn ở đấy? Chắc cụ sẽ xung trận vì Đavít đã
quay trở lại mà còn dắt theo một người Trung Hoa. Đavít bước chậm rãi, anh sẵn
sàng để dừng chân khi cần, nhưng mặc dầu không muốn, cuối cùng anh cũng đã bước
vào cung thánh, nơi mà vị giáo trưởng đang quỳ cầu nguyện dưới tủ đựng Thánh
tích. Đavít mừng thầm nghĩ rằng vị giáo trưởng không thể nào nhìn thấy được
chàng và ông Khương Sơn, ngay cả nếu cụ có ngẩng đầu lên nhìn cũng vậy. Tuy
nhiên chàng lấy làm hổ thẹn vì ý nghĩ ấy. Ông Khương Sơn ngừng lại ở ngưỡng của
và nhìn Đavít.
- Cụ giáo
trưởng… - Ông nói.
- Ngài đang
cầu nguyện. - Đavít khẽ nói.
Cả hai đang
quay gót trở ra thì vị giáo trưởng với thính giác hết sức tinh nhạy, nhận được
tiếng bước chân và những tiếng thì thầm. Ông quay đầu hỏi lớn:
- Đavít,
con! Con đã trở lại!
Giáo trưởng
hối hận vì cơn nóng nảy của mình, cụ đã quỳ gối cầu nguyện trước Thiên Chúa,
van xin ngài, cầu khẩn ngài dẫn đưa Đavít trởi lại và cụ tin chắc rằng lời cầu
xin của cụ đã được chuẩn nhận. Cụ bước ra khỏi cửa, đưa tay chờ đón. Đavít thụt
lùi, nhưng ông Khương Sơn với lòng quảng đại tự nhiên, tiến lên, nói:
- Thưa cụ
giáo trưởng, xin cụ cẩn thận.
Vị giáo
trưởng ngừng lại, buông hai tay xuống, hỏi:
- Ai đấy?
Ông Khương
Sơn chân thật đáp ngay:
- Thưa cụ
tôi đây, tôi là Khương Sơn, thương gia; tôi gặp cậu con trai của ông Era bạn
tôi ở cửa, và vì tò mò, tôi đã nhờ cậu ấy dắt vào xem bên trong ngôi đền thờ
của cụ.
Vị giáo
trưởng nổi xung hét lên hỏi Đavít:
- Tại sao
nhà người dám dẫn một người lạ vào nơi này hả?
Ông Khương
Sơn có thể bỏ qua những lời nói đó vì ông cụ là một giáo trưởng già nua mê tín,
nhưng ông nhận thấy bào chữa cho Đavít là điều phải, nên dịu giọng thưa:
- Xin lão
sư bớt giận, không phải cậu ta mời tôi vào mà chính vì tôi yêu cầu đấy ạ. Xin
lão sư cứ khiển trách tôi.
Giáo trưởng
xẵng giọng:
- Ông là
con cái của A Đam, còn nó, nó là con Thiên Chúa. Vậy phải khiển trách nó!
Ông Khương
Sơn hết sức ngạc nhiên. Ông nói:
- Tôi không
phải là con cái của A Đam, tổ tiên tôi không có ai tên đó cả.
- Tất cả
người ngoại giáo đều là con cái của A Đam.
Ông Khương
Sơn cảm thấy nổi nóng, ông nói:
- Tôi không
muốn nghe ai nói rằng tôi là con của một người mà tôi chưa từng biết đến.
Giọng nói
của ông vẫn ngọt ngào. Là một người cao thượng, ông cảm thấy tỏ lộ sự tức giận
ra bên ngoài là một điều bất đối xứng, nhất là đối với người già cả. Nhưng cơn
giận sôi sung sục trong lòng, và ông phải dằn lòng nói tiếp:
- Vả lại,
tôi không thích nghe ai cho rằng họ và dân tộc của họ là con cái của Trời.
Chúng tôi chấp nhận, nếu cụ muốn, rằng cụ là con cái Trời, nhưng có nhiều Trời
kia mà.
- Chỉ có
một Trời, một Chúa, đó là Dêhôva. - Toàn thân ông run rẩy khi nói những tiếng
đó. Ông Khương Sơn nghiêm giọng nói:
- Các đồ đệ
của Mahômet cũng cho rằng họ là con của Thiên Chúa. Allah. Không hiểu Allah có
phải cũng chính là Dêhôva của cụ đấy chăng?
- Không có
Thiên Chúa nào ngoài Thiên Chúa của chúng tôi cả. - Vị giáo trưởng nói lớn và
dằn từng chữ một. - Ngài là vị Chúa thật và độc nhất.
Ông Khương
Sơn chăm chú nhìn giáo trưởng, đoạn quay sang Đavít:
- Vị lão sư
này điên rồi. - Ông nói. - Thật ái ngại cho ông. Những người suy nghĩ quá nhiều
về Thần, Tiên, Ma, Quỷ hoặc những điều tương tự đều lâm vào trạng thái như thế.
Tốt hơn hết là chúng ta không nên biết những gì ở bên ngoài trái đất này.
Nhưng vị
giáo trưởng không muốn được thương xót. Ông lớn tiếng quả quyết:
- Chúng ta
phải biết có những gì ngoài cái quả đất này. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chọn
dân tộc chúng tôi; để cho chúng tôi nhắc nhở mãi mãi sự hiện hữu của ngài giữa
nhân loại. Chỉ có ngài ngự trị. Chúng tôi là những con ong chăm chích vào tâm
hồn người ta. Chúng tôi chỉ nghỉ ngơi khi nào nhân loại biết tin Thiên Chúa
thật.
Tất cả cơn
nóng giận đã tan trong lòng ông Khương Sơn. Ông nói với một giọng hết sức ôn
tồn:
- Nếu quả
có vị Chúa ấy, thì ngài sẽ không chọn một người để đặt lên trên mọi người và
cũng không chọn một dân tộc để thống trị thế giới. Dưới bầu trời này, chúng ta
đều là anh em.
Vị giáo
trưởng không có thể chịu đựng được câu nói của ông Khương Sơn. Ông ta ngẩng cao
đầu và cầu cúng Thiên Chúa của ông:
- Ôi! Lạy
Chúa, Chúa có nghe chăng lời xúc phạm của kẻ ngoại giáo này!
Trong khi
đôi bên tranh luận, Đavít đứng yên không nói một lời, hai tay chắp lại, đầu cúi
xuống. Giữa hai người, tâm hồn chàng vẫn phân vân bất quyết.
Ông Khương
Sơn quay sang Đavít:
- Hãy để
cho lão sư cầu nguyện nếu điều đó an ủi được ngài. Tôi không tin các vị Chúa;
vậy các vị ấy không có thể gây thiệt hại gì cho tôi, gia đình tôi. Tôi xin kính
chào nhị vị.
Ông tiến ra
cửa, rất trịnh trọng, rẽ sang hướng đông đến cổng chính. Đavít tan nát cõi
lòng, vừa thương cảm vừa hổ thẹn. Chàng chạy theo ông Khương Sơn và bắt kịp ông
này ở cổng:
- Xin bác
tha lỗi cho cháu.
Ông Khương
Sơn quay lại, khuôn mặt nhân từ, không còn lại một dấu vết nào của sự xung giận
vừa rồi. Ông nói một cách trịnh trọng:
- Có gì
thiệt hại cho tôi đâu, vậy thì không việc gì phải tha lỗi cả. Tuy nhiên, vì nể
cậu, tôi mới thành thật nói với cậu câu này: không có ai trên trái đất này có
thể thương yêu được những người cho rằng chỉ có họ là con độc nhất của Thiên
Chúa.
Nói xong,
ông Khương Sơn lại tiếp tục đi. Đavít tần ngần ở ngưỡng cửa, và câu nói đó đã
khắc sâu vào tâm khảm chàng. Chàng không thể nào quay trở lại cùng vị giáo
trưởng, điều đó rất quan hệ đến cuộc đời của chàng. Nhưng sự hấp dẫn của thú
vui vô tư lự đã tan biến. Gánh nặng dân tộc lại rơi xuống trên chàng với sức
nặng của bao thế kỷ.
Một tiếng
nấc trào lên cổ, nghẹn ngào, chàng trở vào đền thờ và ẩn mình dưới một khung
cửa tò vò khóc thương chua xót.
***
Cũng trong
buổi sáng hè ngột ngạt ấy, Trang biết Đavít ra đi với vị giáo trưởng, nàng bèn
chạy đến cửa sổ phòng Lịch xem nàng có cùng đi với hai người không. Thấy Lịch
đang bận thêu thùa. Trang liền lẻn đi. Đavít trở về lúc xế chiều. Trang hỏi
chàng có cần gì không, nhưng chàng lắc đầu muốn ở một mình.
“Trong nhà
này, ai cũng muốn ở một mình cả.” Trang nói vẻ bất bình. Nàng cảm thấy mệt mỏi
đến rã rời. Từ khi nàng trao bài thơ cho Đavít, chàng không hề nói một lời nào,
chàng không để cho Trang hỏi và cũng không viết một hàng nào. Trang chỉ biết
bài thơ mà nàng tự nhận là do Quí Lan sáng tác, đang nằm trong bàn giấy của
Đavít. Mỗi ngày sau khi Đavít đã đi ra ngoài, nàng lôi ngăn kéo và nhìn thấy
bài thơ đặt dưới một cái dằn giấy bằng ngọc. Nàng chỉ biết chờ đợi đến chiều
tối.
Hai bàn tay
Trang rất khéo léo, nàng biết xoa dịu cơn đau của bắp thịt hoặc con tim. Thím
Hoàng đã dạy cho nàng cái nghệ thuật ấy và nàng đã học được cách khám phá các
cơn đau và tập trung ở những nơi nào trong quãng lộ trình của thần kinh và huyết
quản. Đôi khi như vậy nàng đã xoa dịu được một chứng đau nhức của bà Era hoặc
Đavít. Nhưng nàng hết sức ngạc nhiên, vì chiều hôm ấy ông Era đã bảo nàng xoa
hai bên thái dương và hai lòng bàn chân của ông, mặc dầu sau cơn giông trời đã
dịu mát. Lâu nay, nàng chưa từng thấy ông chủ khỏe mạnh và vui tính ấy đau vặt
bao giờ. Nàng gặp ông ngồi trong phòng, và khi đứng sau lưng ông để xoa bóp,
nàng cảm thấy máu tích tụ hai bên thái dương và cái điểm then chốt của cơn đau
do tại óc.
- Thưa chủ
nhân, lòng ngài đang đau khổ.
Trang biết
phân biệt nhiều lối đau trên thân thể, loại nào do các bắp thịt, loại nào do
tinh thần.
- Ta đang
buồn khổ. - Ông Era đáp. Ông ngả đầu về phía sau, nhắm mắt lại để mặc Trang xoa
bóp.
Trang lặng
thinh xoa những dây thần kinh vuốt các mạch máu đầu, làm máu tản đi.
Bỗng nhiên
ông Era nói:
- Hai bàn
tay của con tài tình làm sao! Con đã học ai thế?
- Một phần
con học thím Hoàng, một phần khác con tự tìm học lấy.
- Thế là
thế nào?
Hai mắt ông
vẫn nhắm nhưng trên miệng thoáng hiện một nụ cười.
- Chính
con, đôi tay con cũng cảm thấy buồn. - Trang khẽ nói.
- Kìa, kìa
sao lại buồn? - Ông vui vẻ nói. - Trong nhà ai nấy đều thương yêu con cả mà?
- Chủ nhân
rất yêu thương con, nhưng con biết rõ rằng con không sinh ra trong nhà này và
con không có bà con thân thích gì với chủ nhân cả.
- Nhưng ta
đã mua con kia mà! - Ông Era dịu dàng nói.
- Phải, chủ
nhân đã mua con, nhưng điều đó không làm cho con trở thành con của chủ nhân
được. Không ai có thể mua một con người toàn diện.
Ông Era tỏ
vẻ nghĩ ngợi trong khi hai bàn tay cô gái xoa nắn những bắp thịt khỏe mạnh trên
cổ của ông. Tiếp đến, Trang cuối xuống cởi vớ cho ông chủ và bắt đầu chà xát
vào hai bàn chân. Ông ngồi thẳng dậy, tỉnh táo nói:
- Tuy nhiên
ta xem con như con gái ta! Trong thâm tâm, ta không nên để cho con săn sóc hai
chân ta. Điều này sẽ làm cho các đồng bào của con kinh ngạc. Nhưng dân tộc ta
cho phép con gái hành động như vậy. Tại Ấn Độ cũng thế. Khi ta đi ngang qua Ấn
Độ cũng với đoàn thương hồ, ta đã thấy họ chữa lành chứng đau chân bằng cách
ấy.
- Đôi chân
chịu sức nặng của thân thể, cái đau mang sức mạnh của trí thông minh, con tim
mang sức mạnh của tinh thần và tư tưởng…- Trang dịu dàng nói. - Đừng có quan
tâm đến những gì người ta có thể nói. Người ta có thể nghĩ rằng đấy chỉ là tục
lệ của người ngoại quốc. Chủ nhân đã biết rõ lòng nhân hậu của người Trung Hoa,
chúng tôi chấp nhận tất.
- Ta biết
chứ, họ là những kẻ tốt nhất trên đời
này và họ đã chứng tỏ là người nhân hậu nhất…
Ông thở dài
khiến Trang đoán được những ý nghĩ của ông, tuy thế, nàng hỏi:
- Cớ sao
chủ nhân lại thở dài?
- Tại vì ta
không biết đâu là tốt, đâu là xấu.
Trang mỉm
cười:
- Lúc nào
chủ nhân cũng nói đến điều tốt điều xấu.
Nàng chà
vào gan bàn chân của ông Era, vừa làm việc nàng vừa vui vẻ tiếp:
- Nói thế
chứ người tốt là người đã mang hạnh phúc đến cho ta và người xấu là người đã
tạo cho ta niềm đau khổ.
- Con có
thể nói như vậy vì con không có gì phải phân vân giữa trời và đất cả.
- Con biết,
con thuộc về quả đất.
- Nhưng
chúng ta, chúng ta thuộc về trời.
Nàng làm
xong nhiệm vụ, mang vớ vào chân cho chủ. Nàng nói:
- Chúng ta
nói đến Trời và Đất nhưng chúng ta lại nghĩ khác.
- Nghĩ gì
vậy?
Nhưng ông
biết nghĩ gì rồi. Trang dang ra một chút, và ngồi xuống trên hai gót chân nhìn
ông:
- Chúng ta
cùng nghĩ đến Đavít. - Nàng dịu dàng nói.
- Con cũng
nghĩ đến nó sao?
- Con nghĩ
đến chàng luôn. - Trang đáp (nàng vẫn ngồi xổm, tiếp tục nhìn ông và quyết định
nói cùng ông tất cả). - Con biết rằng đó là một chuyện điên rồ, chủ nhân ạ!
Nhưng biết làm sao được, con yêu chàng.
Với vẻ mặt
vui tươi như thường lệ, ông Era nói:
- Cố nhiên.
Vì chúng con đã chung sống với nhau từ thuở bé, như anh em.
- Vâng.
Nhưng chúng con không phải anh em và không vì vậy mà con yêu chàng.
Ông lộ vẻ
lo lắng. Nếu ông suy nghĩ chín chắn, tất ông phải hiểu rằng, một cô gái trẻ và
dịu hiền không có thể sống bên Đavít, săn sóc chàng, mà không yêu chàng. Ông
nhớ lại thời xuân trẻ, thời mà ông say mê thím Hoàng. Bấy giờ ông còn thẹn
thùng. Bởi vì mặc dầu bao năm tháng đã trôi qua, ông chưa bao giờ xem thím
Hoàng như một tỳ nữ. Khi ông được 16 tuổi và thím Hoàng cũng xấp xỉ tuổi ấy,
sắc đẹp của thím đã làm cho ông biết bao xao xuyến đến nỗi ông đã phải nói cho
thân phụ ông biết rằng ông không muốn cưới ai khác làm vợ ngoài nàng. Lúc bấy
giờ tên thím là Bích Ngọc. Bích Ngọc! Mỗi khi tên Bích Ngọc trở lại trong ký ức
của ông Era, một cái gì trong ông đã chết từ bao lâu nay bừng trỗi dậy. Xưa kia
thím Hoàng đẹp hơn Trang nhiều, màu da tươi mát, vóc người thon hơn, mũi dọc
dừa và đôi môi xinh xắn hơn.
Nhưng thân
phụ ông đã cười bảo:
- Đó là một
đứa nô lệ. Con ơi đừng lấy đầy tớ.
Chàng thanh
niên Era hăng hái nói:
- Khi đã là
vợ con rồi thì cô ta sẽ không còn là đầy tớ nữa.
Nụ cười đột
tắt trên môi ông cụ.
- Những gì
đã xảy ra giữa nhà ngươi và con tỳ nữ ta chẳng quan tâm, có điều là đừng có nói
những chuyện đó với ta. Ta phải cưới Naomy, con gái của Judah Ben Isaac cho
ngươi.
Era đã
hiểu. Trong đám thanh niên bạn bè của chàng, Naomy được xem là cô gái Do Thái
xinh đẹp nhất thành phố. Chàng thanh niên Era khá tinh nhạy và tự hào để tưởng
tượng sự thèm muốn của bạn bè nếu chàng công bố tin chàng đính hôn cùng Naomy,
bởi vì Judah Ben Isaac thuộc một gia đình hết sức giàu có, đến nỗi đã xuất tiền tái thiết ngôi
đền thờ sau khi bị sụp đổ trong một trận lụt hồi đầu thế kỷ. Gia đình này đã
được nhà vua ân ban tên họ Trung Quốc là Trình nhưng Judah đã xác nhận rằng
điều đó chỉ có mục đích thương mại.
Ông Era nói
với Trang trong khi nàng vẫn còn ngồi xổm nhìn ông:
- Con ơi,
con hãy giữ kín tình yêu của con trong lòng, để trong nhà khỏi phải lộn xộn.
Ông xin con.
Đến lượt
ông cũng vậy, ông đã lập lại những gì mà thân sinh ông đã nói với ông trong
thời niên thiếu. Thật là điên rồ nếu nói đến việc làm vợ lẻ trước mặt Trang,
bởi vì bà Era không bao giờ chấp nhận cho con trai bà làm việc đó. Nhưng Trang
biết tất cả mọi tư tưởng của ông chủ, nàng vẫn yên lặng nhìn ông với đôi mắt
trong sáng, thay vì hết sức tươi vui bây giờ đã hóa ra buồn bã. Nàng nói hết
sức khẽ:
- Đavít sẽ
khốn khổ nếu chàng cưới cô Lịch.
Ông Era
nhún vai thở dài:
- Ngươi lại
làm cho ta nhức đầu trở lại rồi! Cút đi con, để cho ta yên một chút.
Nàng cảm
thấy ông sẽ không giận dữ lâu. Ông thường thích tỏ ra luôn luôn khoan hồng đại
lượng, ông không quên rằng Trang chỉ là một con bé duyên dáng dễ thương, một sự
thoải mái cho trong nhà. Tim Trang se lại. Nàng đứng dậy, chào ông, và lui ra,
trong khi ông Era vì tốt bụng, đã ân hận đưa tay ra ngăn lại.
- Này con,
đợi ta một chút. Ta cho con một món quà nhỏ mà đoàn thương hồ đã mang về cho
ta. Có biết bao sự lộn xộn trong nhà khiến ta quên không đưa cho con. Con hãy
mở cái hộp này ra và xem thử vật gì ở bên trong nào!
Ông trỏ một
cái hộp sơn mài để trên bàn. Trang cầm lấy và mở nắp hộp, bên trong đựng một
cái lược bằng vàng.
Nàng trố
mắt hỏi:
- Cho con
sao?
Ông Era mỉm
cười:
- Cho con
đấy. Cài vào tóc của con đi!
- Không có
gương! - Trang kêu lên, vẻ hoảng hốt.
Ông Era lại
cười:
- Kìa, cầm
lấy đi và vui vẻ lên.
- Cảm ơn
lão gia. Cảm ơn vô cùng.
- Kìa, cảm
ơn làm gì. Vẽ chuyện…
Nàng cảm
thấy ông vui hơn. Ông thích biếu xén, ông muốn tất cả mọi người đều sung sướng.
Nụ cười của Trang đã làm cho ông thích thú, nên nàng phải cố gắng tỏ ra vui vẻ.
Cái lược rất đẹp. Nàng ưa thích các vật xinh đẹp. Nhưng nàng không còn là một
đứa trẻ và một món đồ chơi đối với nàng không đủ. Nàng tiếp tục bước đi, lòng
nặng trĩu.
***
Khi Trang
đã ra đi rồi, ông Era than vắn thở dài. Ông bối rối lo âu vì đã ngu ngốc làm
hài lòng ông Khương Sơn bằng cách ám chỉ đến cuộc tác hợp giữa Đavít và đứa con
gái thứ ba của ông ấy. Tuy nhiên ông không đến nỗi thiếu lịch sự để nói đích
danh. Ông đã nói:
- Đại huynh
ạ, nhà của đại huynh cũng như nhà của tôi… Nào có nghĩa gì một giao kèo thương
mại, sao ví được với đàn con lũ cháu sinh ra bởi sự kết hợp của hai nhà?
Ông Khương
Sơn nghiêng mình mỉm cười. Bây giờ tất cả đều rối ren, ông Era tự hỏi tại sao,
trong khi ông chỉ muốn hạnh phúc cho mọi người kể cả chính ông, ông nhận thấy
luôn luôn lâm vào hoàn cảnh không mang lại niềm vui cho ai cả mà chính ông thì
lại càng kém vui hơn. Thí dụ, ông đã cảm thấy khó chịu có vị giáo trưởng trong
nhà. Ông ta là một người đạo hạnh, dĩ nhiên, nhưng ông chỉ nghĩ tới những cổ
tục Tôrát. Lề luật Tôrát là công việc của một giáo trưởng, nhưng nó chỉ mang
lộn xộn đến trong nhà. Không ai được thoải mái dễ chịu nếu người ta cứ mãi mãi
không ngừng nhắc lại thời quá khứ. Chính vì vậy mà ngay cả ông Era cũng cảm
thấy bực mình trong chính nhà của ông, mỗi khi ông gặp vị giáo trưởng mù mò mẫm
đi dọc các hành lang. Ông muốn lẩn tránh vị giáo trưởng, nếu chỉ có một mình
giáo trưởng thì ông Era nín thở đứng bất động để ông ta đi ngang qua.
Ông tiếp
tục nghĩ đến Lịch. Nàng đẹp hơn Naomy, nhưng ít khi nghiêm túc hơn bà hồi trẻ.
Ông Era không mấy khi nói chuyện với Lịch, nhưng đôi lúc ông gặp nàng trong
vườn đào buổi chiều. Năm ấy đào đẹp. Lịch lại càng ít nghiêm túc hơn khi nàng
chỉ một mình, không như vợ ông hồi xưa. Có thể Đavít sẽ hạnh phúc với nàng?
Đavít tính tình mạnh dạn hơn ông ngày trước, chàng sẽ có thể đương đầu dễ dàng
với một người đàn bà ngoan cố. Ông Era nghĩ rằng dạo này ông ít khi gặp Đavít.
Ngày lại ngày trôi qua kể từ khi giáo trưởng dạy dỗ cho chàng, ông chỉ gặp
chàng trong các bữa ăn. Ông Era vùng dậy quyết định đi tìm Đavít tại phòng
chàng mặc dầu lúc bấy giờ đã khá khuya.
Đoạn ông
nghĩ đến Trang, Đavít có biết chăng nỗi lòng của cô gái trẻ? Trong thời niên
thiếu của ông, mọi việc xảy ra khác hẳn, ông đã bày tỏ nỗi lòng cùng thân phụ,
còn bây giờ, chính cô gái đã thổ lộ trước tiên. Như vậy càng ít quan trọng!
Chân không, ông bước nhanh đến phòng Đavít theo những dãy hành lang chiếu sáng
bởi ánh trăng trong.
* * *
Sau khi
nghe mấy lời của của chủ nhân, Trang đi thẳng đến vườn đào. Nàng không thể nào
ngủ được. Phải chăng cuộc hôn nhân của Lịch và Đavít đã được quyết định? Phải
chăng đó là nguyên nhân do nỗi buồn phiền của chàng? Nếu người cha đồng ý thì
sẽ không còn đối thủ nữa, bà mẹ đã thắng.
Trang bối
rối lo âu. Khi Lịch trở thành bà thiếu chủ, liệu nàng có để cho Trang ở lại
trong nhà này nữa không? Cho dù bà Era có còn giữ quyền cai quản trong nhà này
đi nữa, cuộc sống của nàng cũng sẽ trở nên khó khăn hơn, vì chính Lịch mới đích
thực là kẻ nắm quyền hành. Lịch sẽ điều khiển Đavít chuyển đạt ý kiến nàng đến
bà Era. Người mẹ sẽ chấp nhận tất cả chỉ vì con bà đã nghe lời bà: cưới cô gái
do chính bà đã lựa chọn.
- Ôi mẹ ơi!
Xin mẹ hãy thương con! - Trang khẽ rên rỉ.
Như vậy,
Trang đã kêu đến người mẹ mà nàng không thể nào nhớ được nét mặt, người mẹ đã
mang bán nàng. Không biết bà có nghe chăng? Bà còn sống hay đã chết?
- Tôi chỉ
còn một mình tôi để tự cứu lấy tôi.
Vừa thất
vọng vừa giễu cợt, nàng năn nỉ:
- Trang ơi!
Hãy đến giúp ta những gì người có thể giúp được, hãy thương chính mày.
Đoạn nàng
bước vào vườn đào và gặp Lịch đang ngồi trên ghế dưới hàng cây. Người thiếu nữ
Do Thái bận một áo dài trắng, mang thắt lưng vàng. Với một lòng khiêm nhường,
Trang thầm nghĩ, sắc đẹp của nàng không thể nào sánh được với sắc đẹp của Lịch
đang tắm ánh trăng.
- Thưa cô
chủ, cô ngồi chơi!
- À, ta
không thể nào ngủ được.
- Tôi cũng
thế. Sáng trăng, không ngủ được.
Nàng đến
bên Lịch, nhìn ánh trăng qua kẽ lá, đưa tay trỏ:
- Cô chủ có
thấy ông Nguyệt lão trên ấy không? Ở trong mặt trăng ấy.
- Nguyệt
lão? - Lịch nhắc lại, nhìn lên trời.
- Ông
Nguyệt lão ở trong mặt trong mặt trăng, ông ban cho ta những giấc mộng đẹp. -
Trang nói, giọng vui vẻ. - Nào, cô chủ muốn xin ông những mộng ước nào?
Lịch cao
hơn, Trang chiêm ngắm khuôn mặt tuyệt mỹ của nàng với một vẻ thích thú đượm
buồn. Tính bao dung, Trang không một chút ghen tức vì sắc đẹp của Lịch, tuy
nhiên điều đó đã làm cho nàng buồn rầu muốn khóc.
- Chỉ có
Thiên Chúa ban cho ta những gì mà ta mơ ước. - Lịch nói với một giọng nói trầm
trầm, dịu dàng.
Trang khẽ
cười.
- Vậy thì
ta hãy xem ai có quyền lực hơn, ông Nguyệt lão hay là Thiên Chúa của cô.
Và, nàng
ranh mãnh qùy gối cúi đầu sát đất, đoạn ngẩng đầu lên khấn vái:
- Xin
Nguyệt lão ban cho con điều mà con mộng ước.
Lịch nghiêm
nghị nhìn Trang. Trang đứng dậy nói với một vẻ nghịch ngợm:
- Nào, bây
giờ chúng ta có thể thổ lộ cho nhau nghe những điều đã mơ ước.
Lịch lắc
đầu:
- Không, ta
không thể thổ lộ nổi lòng ta cho ai hay cả. Nhưng khi nào được thỏa nguyện, ta
sẽ nói cho ngươi hay.
Hai người
vẫn tiếp tục nhìn nhau. Trang chỉ muốn la lên: “Tôi biết cô mơ ước điều gì rồi,
cô muốn làm vợ Đavít”.
Nếu có thể
nói trắng ra cùng Lịch rằng chính nàng cũng yêu Đavít và đang tìm cách chinh
phục chàng, vì lợi ích của nàng, thì thật thỏa lòng Trang biết bao! Nhưng Trang
vẫn im lặng. Biết một việc và giữ riêng cho mình, đó là một vũ khí để hộ thân.
- Kính chào
cô chủ. - Trang nói sau một phút im lặng.
- Chào
ngươi.
Hai người
từ giã nhau. Khi bước ra cửa vườn, Trang quay lại và thấy Lịch đang đi bách bộ
dưới các rặng đào.
***

