Trang - Chương 06 - Phần 1

6

Sống trong nhà họ Era, vị giáo
trưởng cảm thấy hoàn toàn sung sướng. Trong thâm tâm, cụ
không bao giờ muốn chấp nhận điều ấy, song vì vẻ yên tĩnh của ngôi nhà, những cao lương mỹ vị cùng sự cách biệt sân này với sân khác đã an ủi vỗ về
cụ.

Bà Era rất chu đáo, bà chăm sóc
từng nghi thức của ngày lễ Sa Ba và những ngày lễ trọng trong năm. Khi Đavít ở
cùng giáo trưởng, bà thường đến hỏi xem mọi sự có đúng lề luật Tôrát
không vì
bà biết sau bao năm tháng, qua bao thế hệ sống giữa cái xứ ngoại giáo này, ngay
cả bà cũng trở nên ngu muội. Do đó mà những nghi thức của ngày lễ Quá Hải và lễ
Purim đã nhằm vào ngày đại nhạc hội mùa xuân, lễ “Trái đầu mùa” trúng với lễ
“Trăng mùa hạ” và tuần chay thánh trước lễ Yom Kippur
luôn luôn gặp vào kỳ Tết Nguyên Đán, cho nên thay vì phải ăn năn
sám hối, Đavít lại vui đùa thỏa thích.

Vị giáo trưởng sốt sắng trả lời từng câu hỏi của bà Era. Tuy mắt không nhìn thấy gì, nhưng cụ đoán được sự việc qua cái làn sương mù của những
rung cảm và ước muốn của mình. Cũng như cụ đã có cảm giác
rằng, ngày này qua ngày khác, Đavít trong lúc nghe cụ giảng giải kinh Côran, đã
chia sẻ cuộc sống và nỗi hoan hỉ của cụ và cùng với cụ tiến đến đấng Dêhôva.
Giáo trưởng cảm thấy bao quanh mình một làn không khí nóng hổi và
dũng mãnh có sự hiện diện của một đấng mà cụ ít rõ bản chất. Đấy hẳn là thần
linh của Chúa đang bay lượn trên họ. Vị giáo trưởng già không thể hình
dung được sự xích mích mà cụ cảm thấy trong lúc dạy kinh Tôrát cho Đavít, Lịch
và Arông lại là sự xích mích cá nhân giữa ba người. Giáo trưởng quen sống trong cảnh mù lòa nên có một lối tiếp nhận
riêng.

Vì vậy, cụ cảm thấy gian phòng
chỉ yên tĩnh khi vắng mặt các trẻ; sự yên tĩnh biến mất khi chúng trở lại, dẫu
chúng vui cười hay thinh lặng.

Cụ bảo Đavít:

- Trước đấng Dêhôva không được lười nhác, buồn ngủ con ạ! Chúng ta là một dân
tộc hoạt động. Chúng ta có sứ mệnh thức tỉnh nhân loại cho đến ngày mọi người
tất cả đều nhìn
biết đấng Dêhôva, vị Chúa chân thật độc nhất. Chúng ta là những kẻ lữ hành,
những người đi từ trái đất lên trời.

Cụ ngừng lại, ngửng cao đầu,
dang hai tay ra đàng trước, kêu lên:

- Nghe đây, hỡi Itxraen! Thiên
Chúa là Chúa độc nhất!

Câu nói quen thuộc này ở kinh Sêma, tuôn ra từ miệng
vị giáo trưởng già, đã ám ảnh Đavít. Chàng cảm thấy luôn luôn
có sự chia rẽ giữa trời và đất mà ngay cả tâm hồn chàng cũng bị phân chia.
Chàng không thể trả lời cụ giáo trưởng, chàng chỉ
biết nghe và đón nhận cái ý nghĩa sâu xa trong lòng tin của dân tộc chàng.
Chàng bắt đầu hiểu điều mà mẹ chàng đã chứng tỏ bằng hành động, bằng sự tuân
theo những ngày tiết lễ và những nghi thức tôn giáo, bằng cách từ chối tên
Trung Hoa, vậy mà gần như hầu hết mọi người
Do Thái chung quanh bà đều mang lấy một tên Tàu. Tất cả những điều đó chỉ biểu
lộ ra bên ngoài cái tinh thần nồng nhiệt của vị giáo trưởng. Cả hai đều xác tín
rằng dân tộc họ là dân tộc độc nhất, riêng biệt. Thượng đế dùng họ để thực hiện
kế hoạch của người. Bà Era và vị giáo trưởng tin tưởng rằng Thiên Chúa đã giao phó cho
dân tộc họ cái nhiệm vụ thiêng liêng là hãm mình đền tội cho đến khi nhân loại
trở về với người.

Dần dần giáo trưởng nhận thấy rằng Đavít đã bắt đầu tin tưởng. Cụ đã lảng
tránh con trai cụ làm nảy sinh sự xung đột giữa Đavít, Lịch và Arông. Ban đầu,
giáo trưởng thường hỏi thăm Arông mỗi buổi sáng, bây giờ cụ không còn bận tâm
nữa. Khi Đavít bước vào, cụ hướng về phía chàng,
xúc động và run run đưa hai tay ra cho đến khi cụ cảm thấy tay mình được nằm
trong đôi tay thân ái của Đavít. Cụ sờ vào đầu vào mặt của chàng thanh niên và
kéo ngồi xuống cạnh mình. Cảm thấy bị bỏ quên, Arông đã trở nên khó chịu và
không thể oán trách cha, chàng đã trút tất cả sự tức giận của chàng lên Lịch.
Khi chỉ có hai người chàng đã nói với chị:

- Các người đã
âm mưu chống tôi. Các người muốn Đavít làm giáo trưởng thay
tôi khi cha tôi chết, để nó trở thành thủ lãnh của dân tộc chúng ta. Nhưng chính chị sẽ thực sự là cái đầu, chị sẽ điều khiển
Đavít giống như mụ già Era điều khiển chồng mụ.

Lịch quá dịu hiền, quá phúc hậu
đến nỗi nàng không có thể nói được lời nào. Trong khi thân sinh họ dạy kinh Tôrát
thì
Arông dằn vặt chị; hai mắt Lịch rưng rưng ngấn lệ,
nhưng nàng không nói gì
cả. Arông tưởng rằng những điều tàn nhẫn ấy qua đi không ai nhận thấy, nhưng Đavít
không bỏ sót một cử chỉ nào. Đavít cảm thấy ghê tởm Arông, dù chàng đã xem hắn không
hơn một con chó trong nhà. Arông đã nịnh hót
chàng, tán tỉnh chàng nhập vào đám bạn bè trác táng của nó, nhưng Đavít dường như không nghe, không hiểu, gã Arông đã tự
rút lui và thù ghét Đavít vì vẻ thung dung và kiêu ngạo của chàng.

Nhận thấy Arông bắt nạt Lịch,
một buổi sáng, Đavít ngăn nàng trên ngưỡng cửa và
nói:

- Tại sao em khóc khi Arông
nhăn nhó một cách ngu ngốc như thế?

- Bởi vì em biết nó nghĩ gì.

Họ đứng dưới ánh nắng mặt trời,
Đavít thầm khen sắc da tươi mát của Lịch và mái tóc nâu bóng của nàng. Chàng
không tỏ một cử chỉ yêu đương nào kể từ buổi sáng trong vườn đào, bởi vì
tâm hồn chàng ngày một càng thêm bối rối – đôi
mắt Lịch nồng nàn, âu yếm ngước nhìn Đavít làm
tăng thêm nỗi e thẹn, khiến chàng nói không ra lời:

- Arông nghĩ gì?

Lịch thành thật thú nhận:

-
Em xấu hổ nói ra điều đó.

Nếu Đavít
sáng suốt nhận định chắc chàng đã yêu cầu giải thích, nhưng chàng không nài nỉ
vì sợ Lịch e thẹn về mối tình của nàng – chàng đột ngột nói:

- Arông là
một thằng ngốc!

Ngay khi
ấy, Arông tiến đến cửa chính. Đavít bước vào và Lịch theo sau chàng.

Vị giáo
trưởng quên chính cả con gái ông. Mỗi buổi sáng nàng đến bất ngờ, không một
tiếng động; khi vị giáo trưởng không nghe biết; nàng cất tiếng chào ông và ông
miễn cưỡng trả lời. Ông chỉ nghĩ đến Đavít. Ông cầu nguyện suốt đêm và nếu ông
tỉnh thức sau một giấc ngủ vắn vỏi, ông cảm thấy ngay một sự khích lệ cuồng
nhiệt và nghĩ rằng ông chỉ ngủ khi Đavít đã thề hứa với Thượng đế. Mặc dầu mong
muốn hết sức, nhưng ông không có thể đặt vấn đề trực tiếp với chàng. Tuy nhiên,
sau khi giảng giải kinh Tôrát ông đã cố gắng dằn lòng không thốt ra câu nói sau
đây: “Đavít, con có muốn là giáo trưởng sau ta không? Hãy nghe tiếng của Thượng
đế, ôi! Đavít thân yêu”. Ông muốn bảo các con ông đi ra để ông có thể nói với
Đavít. Tuy nhiên ông đã lặng thinh, quyết chờ lệnh thiêng.

Một hôm,
vào cuối hè, vị giáo trưởng cảm thấy sự chờ đợi này đã vượt quá sức mình. Bấy
giờ còn là tháng tám, tháng của những cơn giông. Buổi mai yên tĩnh và nóng bức
– không khí nặng nề như sương mù đè xuống trên ông lão già cả. Ông bị kích động
hết sức, bộ xương già yếu rung lên, và máu trong huyết quản dồn dập đến choáng
váng cả người.

Sáng hôm
ấy, Đavít đến sớm; Lịch xin cáo từ vì nàng đang đau khổ. Arông không đến cũng
chẳng nói một lời. Một mình với Đavít, giáo trưởng cảm thấy tim mình đập mạnh –
chưa đến lúc sao? Vị giáo trưởng già đã hết lòng giảng sách một cách cẩn trọng.
Ông nhiệt thành tiến đến cạnh chàng thanh niên. Ngay Đavít cũng mệt mỏi bởi khí
trời nóng bức, chàng không thể chịu nổi mùi hôi thum thủm của sự già nua tiết
ra từ người giáo trưởng. Chàng đứng dậy giữa lúc đang học, bước vội ra khỏi
phòng và thở dài. Giáo trưởng nghe biết và đột nhiên sợ hãi. Tại sao Thiên Chúa
không phán bảo gì cả? Ông cụ ngẩng đầu lắng nghe, nhưng bầu không khí vẫn câm lặng.
Kinh hãi, cụ cố hết sức để giữ vẻ trầm tĩnh, cụ nói:

- Con ạ,
chúng ta hãy đến nhà của Chúa. Buổi sáng nóng bức, nhưng dưới bóng im của đền
thờ, không khí sẽ mát mẻ.

- Tùy ý
thầy.

- Con để
thầy nắm lấy cánh tay con, chúng ta sẽ đi bộ.

Đền thờ
không xa bao nhiêu. Nhà cửa của dân Do Thái chồng chất chung quanh, nằm dọc
theo một vài con đường dẫn đến con đường mà người Trung Hoa gọi là “Đường rút
gân” – quãng đường cũng như ngôi đền thờ rất quen thuộc đối với Đavít, tuy
nhiên chàng cảm như thấy chúng lần đầu tiên. Cho đến nay ngôi đền thờ đối với
chàng chỉ là nơi chàng thường đến một cách miễn cưỡng, rứt khỏi sự vui chơi để
vâng lời mẹ chàng. Lần này chàng vào đó đầy ý chí, ước ao được đối diện với
Thiên Chúa. Quyết định của chàng luôn luôn bị đè nén, không còn trì hoãn nữa,
chàng bước đều theo nhịp chân của vị giáo trưởng, chậm và dài. Nếu ngày hôm ấy
chàng nghe tiếng gọi của đấng Dêhôva, nếu chàng cảm thấy được chọn lựa, kêu
mời, chàng sẽ mạnh dạn trả lời một tiếng, vâng hoặc không tùy theo sự truyền
bảo của con tim.

Giáo trưởng
thì thầm:

- Con có
đội mũ chỏm hay không?

- Dạ có,
con đội mũ chỏm mỗi buổi sáng khi con đến tìm thầy.

- Ta biết.
Tại sao ta đặt câu hỏi này bởi vì con trung thành với giáo điều của Chúa.

Bất đắc dĩ,
ông đưa tay lên sờ vào cái mũ chỏm trên đầu Đavít.

Đavít mỉm
cười nói:

- Thầy
không tin con?

Giáo trưởng
cười xòa:

- Không,
không!

Hai người
đi vào của chính dẫn đến các sân bên ngoài đền thờ - hễ khi nào giáo trưởng đến
đấy một mình, cụ đi thẳng vào các sân trong, sau bức tường thành, gần ngôi nhà
nhỏ của cụ. Nhưng hôm nay cụ ước ao đưa Đavít đi ngang qua cánh cửa chính mà
một ông già Do Thái thuộc dòng Di đang mở rộng. Cửa chính hướng về phía Đông và
một cửa tò vò vĩ đại, đẹp đẽ xây cất ngay đằng sau. Ở bên kia là một cửa chính
thứ hai và một cửa tò vò khác. Mỗi bên hai bia đá nằm trên hai cái bệ cũng bằng
đá chạm hình những lá sen. Trên những bia đá này khắc ghi lịch sử dân tộc Do
Thái và sự tan tác của họ bằng những cổ ngữ Hi-bá-lai. Đằng sau những phiến đá
là một khoảng bao la, nóc bằng, dùng để căng cái lều lớn của ngày lễ “Dựng lều”
và bên kia là cái hòm Thánh để trên cao phía trong nội cung. Đavít đã biết tất
cả những sự đó, nhưng bây giờ là lần đầu tiên chàng thấu hiểu ý nghĩa. Đó là
lâu đài của Thiên Chúa, dựng lên trong lòng một thành phố ngoại giáo, dân cư
đông đúc, đầy những đình chùa miếu vũ.

Ở đây ít
nóng hơn, Đavít cảm thấy khí mát trên ghế chàng – hàng cây ô-liu bao quanh sân,
im lặng, dịu dàng. Nơi này vắng bóng con người tràn ngập một sự cao cả thần
dịu. Một hàng chữ chạm trên những cửa tò vò hợp với không khí chung quanh: ĐỀN
THỜ CỦA SỰ TINH KHIẾT VÀ AN BÌNH.

Vị giáo
trưởng và Đavít chậm rãi tiến lên. Dừng trước một tấm đá lớn, chàng hỏi:

- Tại sao
những chữ con thấy khắc trên một số lớn những tấm đá này đều là chữ Trung Hoa
mà không là chữ Do Thái?

Giáo trưởng
thở dài:

- Than ôi!
Dân tộc chúng ta đã quên mất tiếng nói của tổ tiên. Sau khi ta chết không còn
ai đọc được lời của Chúa.

Ông cụ dừng
lại, với hy vọng rằng Đavít tự nguyện học chữ Do Thái. Hằng ngày ông đã chờ
đợi, trong hão huyền, điều tự nguyện này, nhưng lần này Đavít cũng lặng thinh.

Chàng chỉ
nói:

- Phải,
lịch sử dân tộc chúng ta ghi chép bằng chữ rõ ràng trên tấm đá này.

Và chàng đã
đọc hàng chữ Trung Hoa:

- “Abraham,
vị tộc trưởng đã dựng nên Do Thái Giáo là thế hệ thứ mười một sau thành Bành Tổ
A Đam.”

Giáo trưởng
nói:

- Như con
đã biết dân Trung Hoa cho rằng ông Bành Tổ là người đầu tiên. Gã thợ khắc những
chữ này đã pha tên ông vào với tên A Đam.

Đavít mỉm
cười đọc tiếp:

- “Từ khi
tạo dựng nên Trời và Đất, những tộc trưởng đã truyền lại cổ tục mà họ đã thu
nhận. Các ngài không tạo nên một hình ảnh nào, không tìm cách thỏa hiệp với
thần linh cũng như ma quỷ, và không tin vào một sự mê tín nào. Trái lại các
ngài đã tin tưởng rằng thần linh và ma quỷ không bảo vệ các ngài, vì thế những
điều mê tín đều vô ích. Vậy cho nên Abraham chỉ suy tưởng đến Thượng đế.”

Giọng nói
mạnh dạn và trẻ trung của Đavít chợt tắt. Tưởng niệm trên Trời, đó là điều mà
vị giáo sư Trung Hoa đã dạy chàng. Chàng không còn đến nhà thầy đồ Nho từ nhiều
tuần lễ nay, nhưng lần cuối cùng chàng đến thăm ông vào một buổi chiều lễ Đoan
Ngọ - bầu trời đầy sao, ông đồ già ngẩng mặt lên trời khẽ nói:

“Chúng ta
có thể suy tưởng về Trời, nhưng chúng ta không có thể hiểu được Trời.”

Cụ giáo
trưởng nói, không nghi ngờ những tư tưởng của Đavít:

- Đền thờ
đã hai lần bị nạn lụt sông Hoàng Hà tàn phá. Tuy nhiên những tảng đá lớn này đã
được phòng giữ. Thiên Chúa không có đề tên của dân Người phải tiêu diệt.

Họ bước đi
chậm rãi. Trời đột nhiên tối sầm. Đavít ngước mắt nhìn lên, chàng thấy lơ lửng
trên không trung những đám mây đen viền bạc, chàng nói:

- Trời sắp
mưa, và không khí khắp nơi sẽ mát hơn.

Cụ giáo
trưởng không để ý gì đến chàng cả. Cụ xúc động trang nghiêm nói:

- Thầy muốn
đặt Thánh Thư Tôrát vào tay con, con ạ.

Họ băng qua
cái bậc cao tiến vào vùng tranh tối tranh sáng nội cung, bước trên những tảng
đá lát và phẳng phiu. Họ đến gần cái vòm đặt sau một cái bàn cao trên đó có
vòng cung ba phần với các hàng chữ sau đây:

“Chúc tụng Thiên Chúa”

Thần của các
vị Thần, Chúa của các vị Chúa. Vị chúa
cao cả toàn năng và Chí Thánh. Giáo trưởng lớn tiếng đọc với một giọng trầm
hùng và ngay khi ấy giống như một tiếng vang từ trời cao, tiếng sấm vang dội ở
trong ngôi đền. Giáo trưởng đứng bất động, đầu ngước lên cao. Trong sự im lặng
và tiếp theo sau tiếng sét, ngài vén bức màn và Đavít nhìn thấy những chiếc hộp
đựng kinh Tôrát. Những cái hộp ấy mạ vàng, khóa vàng và mỗi hộp có cái nắm tay
hình lưỡi lửa.

- Đây là
những pho sách Thánh của Maisen, vị giáo trưởng long trọng nói, tất cả gồm 12
cuốn, mỗi cuốn cho một chi phái của dân tộc chúng ta, và cuốn thứ 13 cho
Maisen.

Cụ cầm lấy
hộp thứ 13, hình trụ tròn giống như các hộp khác. Ông đặt lên cái ngai cao chạm
trổ, tòa giảng của Maisen, mở hộp và lôi cuốn sách ra.

- Đưa tay
ra. - Cụ bảo Đavít.

Đavít đưa
tay ra và giáo trưởng đặt vào đó cuốn sách cổ, dưới hình thức một cuốn giấy
dày.

- Mở ra. -
Ông nói (và Đavít mở ra). - Ngươi có đọc được không?

- Không,
thưa ngài, ngài biết rằng đây là chữ Do Thái cổ.

- Ta sẽ dạy
cho ngươi. - Giáo trưởng nói. - Phần ngươi, con trai chính thật của ta, ta sẽ
dạy cho con sự huyền diệu của ngôn ngữ này, trong đó Thiên chúa đã ban lề luật
cho Maisen, tổ phụ chúng ta, Người đã từ núi xuống, mang nó đến cho dân tộc
chúng ta đang chờ đợi trong thung lũng.

Sấm chớp
lại gầm thét quanh đền thờ, vị giáo trưởng cúi đầu xuống. Khi sấm chớp lặng
yên, ngài tiếp:

- Chính con
là người sẽ nói với dân tộc chúng ta trong giới hạn lề luật. Một Maisen thứ
hai, ôi, con yêu mến!

Đoạn ông
ngẩng đầu lên, hai tay dang cao và kêu lên:

- Nghe đây,
hỡi dân tộc Do Thái! Thiên Chúa là Trời là Chúa độc nhất!

Những tiếng
cuối cùng chậm rãi và long trọng vang dội như những lời than vãn; tiếng sấm lại
vang rền.

Làm sao
biết được nếu tiếng ấy đã làm vang dội lời vị giáo trưởng, thì nó đã có thể góp
phần trong việc khép kín tâm hồn Đavít, con trai ông Era? Bởi vì trong tâm hồn
Đavít rung lên và tìm cách tiếp nhận giữa cơn giông tiếng nói vẫn còn quá yếu
của Thiên Chúa, thì đôi mắt chàng lại nhìn vào một bảng chữ khắc nhỏ bằng đá.

Những bảng
chữ này rất nhiều, dâng kính bởi những người Do Thái mong đợi từ bao thế kỷ,
một phần nhỏ được lưu lại trong đền thờ này. Dòng chữ này rất giản dị, trên một
bảng đá đầy bụi, không trang trí. Như một người Do Thái đã chết và đã bị quên
lãng, đã ghi vào đấy tư tưởng của cá nhân ông. Đavít đọc: “Sự thờ phụng là để
làm vinh danh Thượng Đế và tỏ lòng đạo đức theo gương tổ tiên. Nhưng trước sự
thờ phụng và đạo đức còn có tinh thần nhân loại”.

Sự tinh
quái của những chữ cuối cùng đánh mạnh Đavít, giống như một tiếng cười vang lên
trong Thánh thất. Một lão già Do Thái lai Trung Hoa, đã viết câu đó, và có thể
là chính ông ta đã tự tay khắc câu đó lên đá và đặt vào trong đền Thánh này.
Đavít bật cười, không sao nín được:

Nghe chàng
cười, vị giáo trưởng giận dữ, gay gắt hỏi:

- Sao nhà
ngươi cười?

- Thưa cha,
- Đavít thành thật nói - con thấy một cái gì làm cho con buồn cười.

- Hãy trả
lại cho ta cuốn kinh Tôrát. - Ông già giận dữ nói.

- Xin cha
tha lỗi cho con!

- Cầu xin
Thiên Chúa tha tội cho nhà ngươi!

Vị giáo
trưởng lấy lại kinh Tôrát từ tay Đavít, bỏ vào hộp và đặt vào tủ đựng Thánh
tích. Ông cảm thấy bị tổn thương và bối rối, ông xây xẩm mặt mày, phải tựa vào
tòa giảng Maisen. Ông đột ngột nói:

- Để mặc
ta. Ta muốn cầu nguyện một lát.

- Con không
phải đợi ngài sao? - Đavít nói, vẻ thẹn thùng, nhưng vẫn còn tươi cười.

- Ta sẽ tự
kiếm lấy đường về.

Giọng nói
của vị giáo trưởng thật nghiêm khắc, đến nỗi Đavít phải rút đi. Chàng thở một
hơi dài, cảm thấy choáng váng bởi không khí thay đổi bất ngờ và ngay cả chính
bản thân chàng cũng đổi thay khiến chàng không thể nhận định được chính xác
những gì dã xảy ra. “Trước sự thờ phụng và đạo đức còn có tinh thần nhân loại”.
Tinh thần nhân loại đó là tư tưởng của chính chàng.

Đavít bước
những bước cao ra cửa đền thờ, tâm thần chàng bị căng thẳng trong bao ngày nay
đột nhiên được giải tỏa giống như một cái cung đã buông tên. Cơn mưa giông đã
dứt trên thành phố, không khí trở nên mát mẻ và trong sáng; mặt trời chiếu lấp
lánh trên các mái nhà và trên vệ đường ướt, khách bộ hành có vẻ tươi vui, hăng
hái và linh hoạt.

Mặt trời
trực tiếp chiếu xuống đường phố, sau cơn giông, và Đavít bất ngờ gặp ông Khương
Sơn từ một phòng trà bước ra. Nơi đây ông đã ngồi tránh mưa và uống một tách
nước trà sáng thường lệ. Ông cẩn thận bước từng bước một trên hè phố ướt để trở
về thương điếm của ông. Cũng như bao giờ, ông có vẻ trầm lặng, thỏa mãn. Trong
bầu không khí mát mẻ, cái áo lụa màu kem của ông trông vui mắt và đôi giày lụa
đen vẫn sạch như chùi. Ông cầm một cái quạt lụa màu đen, tóc chải láng bóng,
đánh thành bím với một sợi dây đen có tua. Người ta khó có thể gặp được trong
thành phố một người đàn ông nào đẹp hơn ông. Ông không ngớt nhìn Đavít và dừng
lại gọi chàng.

- Kìa cháu,
cha cháu có mạnh khỏe không?

- Thưa bác,
sáng hôm nay, cháu không gặp cha cháu đến ạ.

Đavít rảo
bước theo ông vì không thể cưỡng được sự thu hút của người đàn ông bệ vệ nhưng
thật nhã nhặn ấy, giống như một đứa trẻ ham thích một người lớn tuổi tươi cười
và vui vẻ. Chàng sung sướng thụ hưởng tuổi xuân. Tuổi xuân đang độ nẩy nở sau
những ngày tinh thần căng thẳng tột độ với vị giáo trưởng và những gì mà chàng
đã phát hiện trong chính mình.

- Cậu đi
nhà thờ về đấy à? - Ông Khương Sơn hỏi với cái giọng tự nhiên như là hỏi chàng
đi xem hát về.

- Vị giáo
trưởng đã dạy cháu học.

Ông Khương
Sơn ngập ngừng, đoạn tò mò nói:

- Tôi muốn
xem bên trong nhà đền thờ nhưng chỉ ngại điều đó bị cấm ngặt.

- Không hề
gì! Bác hãy đi với cháu nếu bác muốn.

Đavít không
muốn trở lại ngôi đền thờ chút nào nhưng chàng sung sướng được gần gũi ông
Khương Sơn, hãnh diện đi trước dẫn đường cho ông. Lão gác cửa đền thờ do dự
nhưng cũng đã mở cửa chính và để hai người bước vào.

Dưới bầu
trời trong xanh, ngôi đền thờ tràn ngập ánh nắng đã tạo thành một quang cảnh
tuyệt đẹp. Ông Khương Sơn quan sát chung quanh một cách xã giao, nhưng không
kính sợ không tôn sùng. Đôi mắt linh hoạt của ông không bỏ sót vật gì, ông đọc
các hàng chữ ghi chú trên đá với một giọng trầm hùng và vui vẻ. Ông tán thành
tất.

Ông đã đọc
hàng chữ sau đây:

“Nếu nhà
ngươi chấp nhận sự hiện hữu của trời, đất, của quân, sư, phụ, thì nhà ngươi
không xa con đường chính đạo.”

“Khi cúi
đầu tôn sùng Thiên Chúa hằng sống, chúng ta phải thanh sạch cả tâm hồn lẫn thể
xác.”

Những câu
châm ngôn này treo trên hàng cột ở cửa chính lối vào đại sảnh. Ông Khương Sơn
lòng đầy cảm phục, quay nhìn với một vẻ ngạc nhiên và thỏa mãn:

- Này cậu,
dân tộc của cậu và dân tộc của chúng tôi có chung một lòng tin. Có gì chia rẽ
chúng ta đâu?

Và không
đợi Đavít trả lời, ông lớn tiếng đọc:

“Từ thời tổ
phụ Abraham, khi đức tin của chúng ta được thiết lập và liên tiếp về sau, chúng
ta, những người Do Thái tại Trung Hoa đã luôn luôn truyền bá sự hiểu biết Thiên
Chúa và ngược lại, chúng ta cũng đã tiếp nhận những gì tinh hoa của Khổng, Phật
và Lão.”

Ông Khương
Sơn gật gật cái đầu to tướng của ông ra vẻ tán đồng. Ông tiếp tục đọc hết bảng
chữ này đến bảng chữ khác, và càng đọc càng thán phục. Nhưng câu này đã làm ông
thích thú một cách đặc biệt:

“Chúng ta
đốt hương trầm trước đấng tối cao, trong sự lãng quên hoàn toàn danh tánh Ngài
và hình dáng của Ngài.”

Báo cáo nội dung xấu