Trang - Chương 04 - Phần 1
4
Trang ngồi một mình trong phòng
riêng. Tuy không khóc, nhưng theo thói quen,
nàng vẫn lật tay áo thấm hai mắt. Cảm thấy cô đơn trong gia đình người ngoại quốc này, nàng than vắn thở dài, thím Hoàng vào
nàng cũng không cần giấu giếm che đậy.
Các mối liên hệ giữa Trang và
thím Hoàng thật là phức tạp. Đều là người Trung
Hoa sống trong một gia đình
ngoại quốc, lại là bạn đàn bà giữa đám đàn ông, tự nhiên hai người cảm thấy cần gần gũi thân mật với nhau. Nhưng một
người đã
về già và không còn đẹp nữa, người kia còn trẻ măng và rất xinh đẹp. Không cần
phải dò hỏi lẫn nhau, họ đều rõ đời riêng của nhau. Trang biết thím Hoàng xưa kia cũng do gia đình này mua để làm a hoàn như nàng. Nhưng thím ta đã giữ phận a hoàn đến mức nào?
Hay trái lại đã đóng một vai trò gì hơn thế
không? Vì
khôn ngoan dè dặt thím Hoàng chưa bao giờ và chắc
chắn sẽ không bao giờ nói cho ai biết điều ấy. Ngoài ra, Trang đâu có chịu sánh
mình
với thím Hoàng. Thím ấy không biết đọc cũng không biết viết. Thông minh và tốt
bụng nhưng thím ấy vẫn giữ vẻ tầm thường hạ cấp. Trang thì đã đọc rất
nhiều sách, đôi khi được đàm luận văn chương với cả ông Era. Nàng đã cùng Đavít
nghe cụ đồ giảng giải Tứ Thư, Ngũ kinh và hơn thế nữa nàng và chàng rất tương đắc về tri thức và tư tưởng, một điều
không thể nào có được giữa thím Hoàng với ông Era. Trang đã hướng dẫn Đavít về âm nhạc và thi văn. Hai người đã cùng nhau đọc
lén những bộ tiểu thuyết như Hồng Lâu Mộng và đến đoạn nữ chủ nhân trẻ trung và
ưu sầu thả từng cánh hoa theo dòng nước, Đavít thấy Trang rơi lệ, đã choàng cánh
tay lên vai nàng a hoàn xinh trẻ để nàng tựa vào chàng mà khóc.
Lâu nay, vui hay buồn, vừa ý
hay bất bình không một điều gì chàng giấu nàng bao giờ. Nhưng nay, một việc đã
làm Trang băn khoăn khó hiểu. Vì sao chàng không làm cho xong bài thơ? Chàng có biết nàng đã lấy bài thơ bỏ dở rồi không? Trang không dám hỏi thẳng Đavít, sợ rồi phải thú thật
với chàng rằng không những nàng đã lấy bài thơ mà còn
làm thêm cho xong và tới Khương phủ trao cho
Tam Nương. Nàng ngại chàng nổi giận và hỏi vì sao nàng đã hành động như thế thì biết
trả lời làm sao?
Thật thế, không khi nào nàng có
thể giải thích với Đavít về hành động nói trên được. Lâu nay, nàng vẫn dè dặt
không dại gì mà thổ lộ mọi tư tưởng, mọi tình cảm với
chàng, vì nhờ một bản năng đặc biệt của nữ giới, nàng biết rằng người đàn ông không muốn biết tất cả về người đàn bà. Vì thế, nàng
không bao giờ hỏi ý kiến Đavít về một vấn đề mà nàng thắc mắc hoài không giải
đáp được: đời buồn hay vui? Không phải nàng muốn nói đời của chính nàng hay đời
một người nào khác, mà là đời nói chung: đời buồn hay vui? Giải đáp được câu
hỏi này tất Trang sẽ tìm được một hướng đi. Vì nếu đời có thể và phải là vui sướng, thì tại sao Trang lại không cố gắng để tranh thủ tất
cả những gì có thể tranh thủ được? Nhưng nếu rốt cuộc đời là buồn khổ thì tốt hơn là thỏa mãn với những gì ta hiện có. Câu hỏi này
bây giờ lại được đặt ra một cách khẩn thiết, nhưng nàng vẫn không thể nào giải
đáp được.
Thím Hoàng bình tĩnh nói:
- Thím biết thế nào chị cũng
buồn phiền.
Thím ngồi xuống chống hai bàn
tay mập mạp lên đầu gối đăm đăm nhìn Trang tiếp:
- Chị với thím chúng ta phải
giúp đỡ lẫn nhau.
Trang ngẩng đôi mắt ưu sầu nhìn
khuôn mặt phúc hậu của thím Hoàng, giọng thiểu não:
- Thím hai…
- Chị có điều gì cứ nói thiệt
đi xem nào.
- Thím ạ, hình như nếu tôi giải đáp được một câu hỏi thì tôi có thể sắp
xếp đời tôi.
- Câu hỏi gì thế?
Nói với thím Hoàng về việc này
đâu có phải là dễ dàng. Không khéo thím ta đã không hiểu lại còn chế nhạo cho.
Lâu nay, Trang chỉ giao tiếp với thím ta về việc bếp núc, trà lá, quét tước, dọn dẹp, nói tóm lại là công việc nhà. Nhưng lòng nàng tan nát
khi nghĩ đến những điều đang đợi nàng nếu Đavít lấy Lịch. Nàng thỏ thẻ:
- Thím Hai, thím chớ cười tôi nhé.
- Không, thím không cười đâu.
Trang chắp hai tay lại trên đầu
gối, thủng thỉnh nói:
- Đời buồn hay vui?
Hình như thím Hoàng đã
hiểu câu hỏi của Trang, thím nói vẻ nghiêm trọng:
- Lạ nhỉ?
-Lạ thực!
Không lộ gì vẻ ngạc nhiên hay
ngơ ngác, thím Hoàng quả quyết:
- Đời buồn.
Trang có dáng ngẫm nghĩ:
- Thế thì chúng ta không trông
mong gì có hạnh phúc sao?
Thím Hoàng lại quả quyết:
- Chắc chắn là không.
- Thím nói điều ấy với dáng vui
vẻ đến thế à?
Giọng Trang nghe thiểu não, và
nàng khóc òa.
Thím Hoàng dỗ dành:
- Chị chỉ tìm thấy hạnh phúc
khi nào chị hiểu rằng đời là buồn. Chị hãy nhìn thím thử mà xem. Thím đã xây
biết bao mộng đẹp, nuôi biết bao hy vọng, trước khi hiểu rằng đời là buồn! Sau
đó, thím thôi không mơ tưởng nữa, không hy vọng hão huyền nữa. Bây giờ, thím
gặp những điều tốt lành thường làm cho thím
vui sướng. Thím không trông mong gì cả, vì thế mà bất cứ gì cũng là một
điều hạnh phúc đối với thím.
Thím ta nhổ nước miếng ra ngoài sân qua khe cửa sổ rồi tiếp:
- Thế đấy. Đời là buồn. Chị hãy
cam chịu vậy.
Trang lau nước mắt:
- Xin cảm ơn thím dạy bảo.
Sau một hồi ngồi yên lặng, mỗi
người theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình, thím Hoàng âu yếm
bảo Trang:
- Chị phải nghĩ đến bản thân.
Nếu chị muốn ở suốt đời dưới mái nhà này, chị phải tìm biết ai sẽ là vợ của
thiếu gia. Dù muốn hay không, người đàn ông cũng bị
vợ điều khiển. Người vợ có quyền nhờ địa vị của mình trong phòng loan. Vậy chị hãy
chọn vợ cho Đavít.
- Tôi chọn?
Thím Hoàng gật đầu.
Trang hỏi tiếp:
- Trước kia thím có chọn bà nhà ta không?
Thím Hoàng lúc lắc đầu:
- Thím ấy à, trước kia thím buộc lòng phải chọn lấy một bề mà thôi: ra
khỏi nhà này… hay ở lại.
Trang dịu dàng:
- Và thím đã ở lại.
Thím Hoàng đứng dậy:
- Thôi thím phải đi bưng thức
ăn sáng vào hầu bà đã.
Sau khi thím Hoàng ra khỏi,
Trang ngồi một mình tiếp tục suy nghĩ. Công việc đang chờ nàng. Qua bức cửa để
ngỏ, con chó xù Bắc Kinh lặng lẽ bước vào phòng, vì theo
thói quen nó chỉ sủa khi có người lạ mà thôi. Nó
tới gần Trang và nhìn
nàng tỏ vẻ van lơn những vẫn im thin thít.
Trang bảo:
- Ừ, chút nữa tao quên mày.
Nàng đứng dậy, lấy chiếc bàn
chải bằng rễ tre và quỳ gối xuống nền nhà, nàng chải bộ lông vàng óng ánh của
con chó nhỏ. Con vật thích thú đứng yên không nhúc nhích, đôi mắt to tướng lim
dim trong lúc Trang vạch tai vạch mũi chải những sợi lông ở phía dưới vành tai
hay chung quanh lỗ mũi. Nếu là một con mèo thì nó đã kêu khò khò kia đấy, nhưng
con chó xù nhỏ chỉ ngúc ngoắc chiếc đuôi.
Tuy vậy, Trang cũng không quên
rằng con chó xù chỉ là một con vật. Săn sóc cho nó xong, nàng rửa tay sạch sẽ,
lại ghế ngồi và tiếp tục ngẫm nghĩ. Con chó xù nằm trước thềm đá, nhướng đôi mắt lên hai ba lần, ngáp được một con ruồi mới chịu
ngủ.
Trang tư lự nhìn
nó. Trong nhà này được mọi người ưa, nó cũng hoàn toàn sung sướng, một con chó có thể dự phần vào một toàn thể. Trang
suy nghĩ, không bị một ai đến quấy rầy. Nếu là một ngày khác, người ta đã đến gọi nàng
nhiều lần rồi, và sự yên tĩnh này báo cho nàng biết trong nhà đã xảy ra một sự
kiện mới mẻ, lạ lùng, một sự kiện mà nàng phải thích nghi nghĩa là phải đầu
hàng, phải thừa nhận, phải khép mình theo khuôn phép mới. Bất kỳ Đavít ở đâu,
và dù có thế nào đi nữa, nàng cũng sẽ ở đây. Nàng sẽ mãn nguyện được nghe một
lời chúc của chàng, và thỉnh thoảng nếu chàng cho phép, được hầu hạ chàng, dù
là chỉ để săn sóc áo xống cho chàng; nàng sẽ lấy việc ấy làm ý nghĩa của đời
nàng…
Trang ngồi yên không nhúc
nhích; phút giây lặng lẽ trôi qua mãi cho đến lúc các sinh vật nhỏ bé sống yên
lành sau tủ, sau giường, sau rèm, sau cửa, bắt đầu
hoạt động. Từ một kẽ hở trên mái nhà, một con cào cào kêu inh ỏi, một con thỏ
trụt xuống thềm caro và đứng hai chân nhảy múa một mình dưới ánh nắng xuyên qua cửa sổ. Trang đột nhiên cảm thấy
vui thú, nàng phá lên cười và một con vật bé bỏng vội nhảy trốn. Trang vẫn ngồi
tươi cười hớn hở, sự lo âu đã tiêu tan. Người ta có
thể tự tạo bao niềm vui thú hồn nhiên! Bao sinh mệnh nhỏ bé sống hạnh phúc
trong mái nhà này núp dưới bóng những sinh mệnh lớn lao hơn. Trang sẽ là một
trong những sinh mệnh nhỏ bé kia. Một cảm giác mới lạ xâm chiếm người nàng, một
cảm giác êm dịu quá để có thể gọi là sức mạnh, và trầm tĩnh quá để mà trở thành
năng lực.
Nhưng nàng thấy tinh thần sảng khoái. Nàng đứng lên chải tóc, soi vào gương
và thấy mặt mày nhợt nhạt bèn lấy phấn son trang điểm. Xong, nàng ngắm bóng mình một lúc và
vấn tóc lên vành tai, nàng cài thêm một chiếc trâm nạm ngọc. Công việc đang chờ
đợi, nàng không thể bỏ qua được – mai đã là ngày lễ Sa Ba và cả bữa cơm tối nay cũng cần lo sắp đón cho đặc biệt. Trang phải
đánh bóng các cây đèn bạc, các bình đựng rượu, và sắp lên bàn món bánh rơm, nhưng nàng lại ngồi xuống, chần chờ, mặc dù biết còn bao việc phải
làm. Một lúc sau, nàng lấy bút mực cùng giấy tinh trong hộc bàn và hối hả viết
bốn câu. Bài thơ không dính dấp gì đến hoàn cảnh của Trang, mà là để họa
lại bài thơ đã
đưa đến Khương phủ, và ý thơ là để diễn tả ánh
dương khao khát các giọt sương đọng trên hoa tươi buổi sáng.
Làm xong bài thơ, Trang cất vào yếm và đi lo công việc chuẩn bị cho ngày
lễ Sa Ba.
***
Trong khách đường, không ai
thấy Trang đã đến cả. Ông bà Era và Cao Liên mải nhìn Đavít và Lịch với những
cảm tình khác nhau lúc người thiếu nữ xinh
đẹp cúi đầu hôn chiếc vỏ gươm sáng chói. Đối với bà Era cử chỉ ấy có nghĩa là
Lịch tận tụy với trách vụ đã được giao phó. Cao Liên nhìn đăm đăm bà Era, thấy
mặt bà biểu lộ một vẻ tươi vui, một niềm tin tưởng cao
độ, và hiểu rằng mỗi hy vọng thầm kín nhưng rất dễ đoán của bà sắp sửa thành sự
thật. Cao Liên ái ngại cho Đavít. Lịch đẹp, điều đó rõ ràng ai cũng
thấy, nhưng ông ta đoán biết nơi nàng cái trạng thái tâm trí rất
phổ cập nơi nhiều người đàn bà Do Thái. Theo ông ta, cái trạng thái ấy nó bắt,
nó đưa con người đến cái chủ nghĩa phân ly kia mà hiện giờ Cao Liên rất sợ và
rất ghét. Ông ta tự nhủ: "Một người đàn bà không nên quá yêu Chúa, vì nếu yêu Chúa hơn chồng, người đàn bà tự coi mình có quyền
phán đoán chồng và do đấy sẽ quấy rầy chồng không ít."
Ông Era có vẻ bối rối hơn hết. Không lúc nào bằng lúc này ông muốn hòa mình trong
lòng đất nước giàu có và khoan dung này, nơi mà tổ tiên ông đã
sinh cơ lập nghiệp. Ông e ngại sắc đẹp của Lịch. Ông sợ con
trai xiêu lòng
trước cái thần khí tỏa ra từ người thiếu nữ. Đavít chịu ảnh
hưởng của mẹ hơn cha, ông Era rõ điều đó lắm. Chàng không có nguồn an ủi của một người mẹ Trung Quốc vui tươi và rộng lượng sẵn sàng phớt
đều việc người đời cũng như việc Trời Đất và xét đoán mọi việc với con mắt lạc
quan, hoan hỷ. Không! Dòng
máu kia dù có lưu truyền trong huyết quản của Đavít, dòng chính của
bản thân, chàng đã thụ hưởng của mẹ chàng, một
người mẹ luôn luôn chú ý
đến chàng với đôi mắt trừu mến nhưng nghiêm khắc.
Ông Era ngồi không yên, hết
dặng hắng đến bứt râu tỏ vẻ bất bình:
- Kìa, cô Lịch… thanh gươm nhơ bẩn này đã không nằm trong tay phường phàm phu tục tử, cặn bã của mọi quốc gia xã hội sao?
Giọng nói khó chịu, khinh bỉ ấy
đã làm cho Lịch ngơ ngác. Nàng bẽn lẽn thụt lùi,
lấy tay sờ má mình
và ấp úng:
- Con đã không nghĩ đến điều
ấy.
Bà Era bênh vực:
- Lịch hôn thanh gươm là rất đúng. Nàng đã hành động theo ý ơn trên.
Đavít thường ngày hay nũng nịu
chống lại ý kiến mẹ, nhưng lần này chỉ nói một câu vô
tư lự:
- Tôi sẽ treo thanh gươm lên tường, phía sau án thư của tôi, để làm đồ trang
trí.
Cao Liên tán thành:
- Đúng đấy, để thanh gươm này
không còn bao giờ được vung lên sát hại một nhân mạng nữa!
Ông Era đứng dậy bảo Cao Liên:
- Thôi xin hiền huynh cho sắp
xếp đồ đạc lại đi.
Ông lấy cho Trang chiếc lược đã chọn, cố tình quên Lịch như là không có nàng ở đấy, xoay lại phía bà Era nói:
- Bà nó ạ, tôi thấy đói lạ. Bà
bảo chúng nó dọn cơm tối cho sớm nhé.
Rồi đột nhiên, ông bước ra khỏi phòng.
Lịch đứng yên lặng có vẻ ngượng nghịu, bẽn lẽn. Chính Đavít hình như cũng quên chú ý đến nàng. Chàng mải thử cắt lớp vải
thô bọc ngoài các kiện hàng để xem thanh gươm bén đến mức nào. Chàng vui mừng
reo lên:
- Bác Cao xem này, bén quá!
Cao Liên sắp gọi bọn người nhà vào xếp hàng lại, vội xoay lui, bình tĩnh nói:
- Xin cậu đừng bao giờ thử vào
bàn tay đấy. Chỉ một cái phát nhẹ thôi cũng đủ đứt ngang một thân hình vạm vỡ.
Tôi đã mục kích điều đó rồi.
Cao Liên bước ra. Lịch vẫn đứng yên chỗ cũ phân vân, hết nhìn bà Era lại
nhìn Đavít. Nhưng bà Era chỉ đắm đuối nhìn con trai, và Đavít cảm thấy nét nhìn
trang trọng và thâm trầm của mẹ đè nặng lên người chàng, nên chàng vẫn mải miết lấy gươm cắt vải.
Mãi một lúc sau, bà Era mới
nói, mắt vẫn đăm đăm nhìn Đavít:
- Lịch, bây giờ con có thể lui
về phòng riêng của con.
Lịch chưa kịp lui ra, Đavít đã ngẩng đầu lên nói:
- Con cũng xin phép mẹ đi treo
thanh gươm đây.
Và chàng hối hả bước ra phía cửa gần nhất.
Lịch e lệ:
- Thưa dì,
thế bây giờ con có phải lui ra nữa không?
Nàng muốn thét lên, muốn hỏi
nàng đã làm điều gì không phải, nhưng nàng không dám,
nàng chỉ đứng yên, cúi đầu, đợi bà Era chỉ bảo:
- Con lui ra… Về phòng riêng
đi!
Giọng bà Era tuy không xẵng, nhưng hàm ý rõ rệt rằng bà muốn được yên tĩnh một mình.
Lịch vội vã vâng lời.
***
Sáng ngày lễ Sa Ba, Đavít thức
dậy muộn sau một đêm đã thao thức vì có cảm giác rất mệt mỏi lạ lùng chiều hôm
qua.
Lần đầu tiên trong đời chàng,
hình như chàng đã thấu hiểu mẹ chàng, thấu hiểu bản chất của bà cùng
những điều bà đã cố công dạy dỗ chàng. Nằm dài trên giường trong ánh sáng lờ mờ và êm dịu lọt qua các bức màn thêu, chàng thấy mình khác hẳn con
người mà lâu nay chàng đã tưởng – nghĩa là một thanh niên tự làm chủ lấy mình, tự do sống
theo ý muốn, chơi theo sở thích, không bị ràng buộc bởi một mối liên hệ
nào. Bây giờ, chàng cảm thấy mình là một phần tử của một toàn thể, của một dân tộc
rải rác khắp bốn phương trời, nhưng vĩnh viễn
thống nhất và bất khả phân. Dầu có ở đâu và dầu sống lẻ loi chăng nữa, một
người Do Thái vẫn thuộc dân tộc mình.
Mẹ chàng vẫn nhắc chàng điều đó
từ buổi sơ sinh, nhưng điều đó lướt qua trí chàng như nước đổ lá môn. Và bây giờ chàng mới hiểu, không phải với trí não mà với tất cả
một bầu nhiệt huyết. Vì sao dân tộc chàng bị tàn sát? Nộ khí xung lên đầu
chàng. Nếu thiên hạ, ở các nước ngoài kia, tìm cách tiêu
diệt đồng bào chàng, thời ở đây trong sự yên ổn của xứ sở này, chàng phải cố
gắng duy trì sức sống của giống nòi. Chàng sẽ bắt đầu học tất cả những gì liên
hệ đến dân tộc chàng. Hai năm nay, chàng chống lại ý muốn của mẹ và từ chối
theo học thánh kinh với vị giáo trưởng già. Chàng
viện cớ không rảnh. Chàng muốn có nhiều thì giờ đọc sách; chàng phải tỏ ra chăm
chú đến công việc thương mại để vừa lòng thân phụ; và chàng cũng muốn đi du
lịch. Nhưng mẹ chàng không buông cho chàng ra đi trước khi chàng có vợ và có
con trai. Lâu nay, chàng cho đó chỉ là một tục lệ do mẹ chàng bịa đặt ra để giữ
chàng, nhưng bây giờ, không cần phải suy nghĩ và xét đoán, chàng
cảm thấy, tận đáy lòng
mình, rằng có con trai làm một bổn phận. Nếu một số người thuộc nòi
giống chàng bị tàn sát, một số khác phải sinh ra. Sinh nở bù đắp cho chết chóc.
Lần đầu tiên trong cuộc đời đầy
hoan lạc, Đavít suy nghĩ đến những điều cao cả. Chàng ý thức được nguồn gốc sâu
xa của nòi giống, di truyền bởi cha mẹ, nhưng bởi mẹ chàng nhiều hơn. Chàng hiểu, tuồng như mẹ chàng ngăn đón chàng,
không cho chàng tự chủ, nhưng kỳ thật bà chỉ tìm cách bảo vệ và cứu rỗi chàng.
Và từ mẹ, Đavít liên tưởng đến Lịch, chiều hôm qua nàng xinh đẹp biết bao! Hai
người không tâm sự riêng tư, nhưng họ đã cảm thấy cùng nhau thắt chặt bởi những
liên hệ của huyết thống, của tâm tình và của lý trí. Dân tộc họ, thật thế, là
một dân tộc độc nhất có một vận mạng, do Dêhôva vị chân Chúa duy nhất dành
riêng. Đavít nhận thấy mình đã phạm trọng tội, chàng có cảm tưởng là đã phản bội Chúa với cuộc đời vô tư và hoan lạc trong
một nước ngoại giáo. Trong lúc đồng bào chàng đau khổ và chết
chóc, chàng mải cười đùa, vui chơi và lãng phí tuổi xanh. Chàng ôn lại các sở
thích, những cuộc đỏ đen trong các trà đình tửu điếm, những buổi chiều mùa hạ
nhàn du trên thuyền ca, và những buổi sáng trăng đờn địch, hát xướng trong sân,
hương sen ngào ngạt. Chàng liên tưởng đến bạn của
phụ thân chàng, ông Khương Sơn, và hình ảnh Quí Lan hiện ra trong trí chàng,
ngây thơ duyên dáng trong tuổi thanh xuân. Đavít quen gương mặt
xinh xắn này như đã
thấy hàng trăm lần, đôi mày ngài thanh tú, đôi mắt đen nhánh, đôi môi đỏ mọng,
làn da mịn màng và thân hình mảnh mai, uyển chuyển như một cành liễu. Nhưng chàng nhớ đến các điểm trên cũng vì Trang. Trang
cũng mảnh mai, cũng có đôi môi đỏ mọng và đôi mắt tươi sáng. Biết bao lần, họ
đã cùng cười vui vẻ… Đavít phải giữ lắm mới khỏi mỉm cười. Trong
lúc vui chơi, thì
những người thuộc nòi giống chàng bị xua đuổi. Tại những
thành phố khác, giữa những dân tộc khác, đồng bào chàng nằm chết ngổn ngang dọc
đường. Hối hận, chàng đứng dậy định đến thăm mẹ và hứa sẽ cùng bà đến giáo
đường ngay trong sáng nay. Chắc bà sẽ vui lòng lắm.
Rửa mặt và thay áo xong, ra đến
trước vườn đào, chàng trông thấy, qua cửa vòng nguyệt phản chiếu trong mặt hồ
phẳng lặng những đóa hoa đào nở muộn. Cảnh vật xinh tươi, không khí ấm áp và dầu muốn buồn bã, một niềm vui bỗng rung động lòng
chàng. Chàng lên tiếng gọi nho nhỏ:
- Trang!
Không ai đáp lại, như thường,
Trang giả vờ điếc mỗi khi nàng ở ngoài vườn đào.
Thật là một cô bé nghịch ngợm và ranh mãnh. Chàng mỉm cười và bước qua cửa vòng
nguyệt. Bây giờ đến giáo đường thì còn sớm quá và chàng thôi không đến thăm mẹ
nữa.
***
Bà Era vui mừng không sao ngủ
được. Trái tim bà, lắm lúc bị cô đơn trong ngôi nhà này, đã được yên ủi. Bà cho
là chính Lịch đã thức tỉnh tâm hồn mê muội của Đavít. Tâm hồn này sẽ thức tỉnh
cùng với tâm hồn ông Era. Nhưng không phải chỉ
một mình
Lịch, mà Dêhôva đã ban phép lạ cho nhà này vào lúc thích hợp. Đoàn thương hồ đã về cùng một ngày với Lịch. Khi lo ngại sự trùng
phùng ấy, bà đã mù quáng và kém đức tin xiết bao!... Cảnh tàn sát mà Cao Liên diễn
tả, Lịch bước vào phòng nhằm lúc Đavít âu sầu cảm động, niềm
tin tưởng, sự khéo léo mà Lịch đã vận dụng để chuyển mối sầu cảm này thành một
thứ khí giới đánh mạnh vào lương tâm ở Đavít,
tất cả các sự kiện trên chỉ có thể là do bàn tay của Chúa.
Đầu hôm, lúc ông Era vào phòng
vợ, thay vì nằm dài bên mình vợ, ông ngồi xuống bờ giường, cầm lấy tay bà. Hai vợ chồng đã cùng nhau bàn luận một cách đứng đắn
và sâu sắc, xứng là một đôi vợ chồng Do Thái.
- Naomy ạ, bây giờ tôi bằng
lòng để Đavít học thánh kinh.
Nghe chồng nói mấy lời trên, bà
Era thầm cám ơn Chúa. Trước kia, Đavít đã theo học với giáo trưởng cho đến hôm chàng ương ngạnh không chịu học nữa. Hôm
ấy, ông Era đã
không khuyên nhủ con mà còn viện lẽ rằng Đavít đã đến tuổi tập tành công việc
thương mại, chàng không đủ thời giờ để vừa học thánh kinh
vừa lo công việc làm ăn. Đắc thắng, Đavít đã theo cha giao thiệp với các hãng buôn
Trung Quốc và làm quen với đám thanh niên con các thương gia này. Vì
vậy mà chàng đã đến nhà ông Khương Sơn và gặp Quí Lan.
Bà Era nén nỗi vui mừng, bà
nói:
- Cám ơn mình.
Ông Era tiếp lời:
- Chúng ta không thể làm gì cho
dân tộc chúng ta ở các nơi khác được. Chúng
ta ở đây là hợp lý
vì ở đây chúng ta được yên ổn.
- Cho đến ngày một vị cứu tinh
đứng dậy và hướng dẫn chúng ta về nơi quê hương xứ sở.
Ông Era khẽ ho rồi nói:
- Đôi khi tôi tự hỏi vì sao
chúng ta cứ nghĩ có ngày chúng ta rời bỏ đất Trung Quốc này.
Naomy xem, chúng ta ở đây đã
bốn đời, và đến đời con cái của Đavít là năm. Người Trung Quốc họ rất tốt đối
với chúng ta.
- Tôi ngại lòng tốt ấy lắm…
Và bà Era rút tay ra, nhưng sợ chồng thay đổi ý kiến về vấn đề học hành của Đavít, bà
lại đặt tay mình vào hai tay chồng. Hai người không còn
nói thêm gì nữa và một lúc sau ông Era trở về phòng riêng.
Rạng sáng ngày lễ Sa Ba – một
ngày lễ Sa Ba mới, tưng bừng hoan hỉ đối với bà
Era, vì
tất cả gia đình sẽ cùng nhau đến giáo đường. Trong nhà, hoàn toàn yên tĩnh, mọi
người đều nghỉ việc. Bên ngoài la thành, tiếng ồn ào của
thị trấn ngoại giáo này chỉ còn nghe văng vẳng. Ở trong nhà bà Era lại cảm thấy
biểu hiện của Chúa, một sự biểu hiện có kèm theo những nỗi lo buồn thật đấy,
nhưng Chúa có ở đây, luôn luôn gần gũi hơn dân tộc của người trong thời kỳ thử
thách.
Lúc chồng ra khỏi phòng, bà Era
đã lẩm nhẩm khấn hứa:
- Từ đáy vực thẳm, chúng con
kêu gọi đến Chúa. Ôi Dêhôva!
Bà Era vận y phục quí giá nhất để mừng ngày lễ này,
một chiếc áo sa tanh đỏ thắm, hai tay viền kim tuyến.
Và Lịch, cô gái khả ái kia,
phỏng nàng có hiểu nàng đã vâng theo ý Chúa đến mức nào chưa? Cần phải giữ lấy tất cả những gì mà nàng đã thâu đoạt ngày hôm qua, dìu
dắt bởi ơn trên. Trong lúc bồng bột, bà Era quay lại phía thím
Hoàng đang túc trực đợi giúp bà trang sức:
- Đi mời cô Lịch đến đây.
Thím Hoàng sáng trí đã hiểu
thấu tận lòng bà Era khi bà thốt ra mấy lời trên. Thím liếc nhìn chủ và sắp bước ra cửa không nói một lời gì. Chợt bà Era
ngăn lại:
- Thôi để ta thân hành đi.
Thím Hoàng nhún vai và đứng xê
một bên để nhường lối chủ bước ra.
Vậy là sáng sớm ngày lễ Sa Ba,
Lịch thấy bà Era đến phòng nàng. Đêm qua nàng đã ngủ một giấc ngon lành, khoan
khoái. Nàng đã vâng theo ý Chúa. Ngày hôm qua, chỉ một lần thôi, nàng đã cảm
thấy có sức gì thúc đẩy nàng ra khỏi phòng riêng và đến hội họp cùng mấy người kia. Nàng đã đến sảnh đường đúng vào lúc mà tâm trí
Đavít đang xao xuyến và nung đốt bởi cơn thịnh nộ của Chúa. Khi nàng vén bức
màn cửa, nàng thấy Đavít đang quỳ như quỳ trước bàn thờ, cầm một thanh gươm bạc trên đầu gối. Chàng ngước nhìn lên và bốn
mắt gặp nhau. Và Chúa đã đặt trên môi nàng những lời mà nàng đã thốt ra. Trong
đêm nàng đã thức giấc, nhớ lại vẻ mặt Đavít nhìn nàng, nàng mỉm cười và ngủ lại.

