Trang - Chương 04 - Phần 2
Sáng hôm ấy nàng đọc kinh cầu
nguyện và nghĩ đến phụ thân; không biết người có được mạnh chăng? Arông có
ngoan hơn chăng? Em nàng có vâng lời Rasen chăng? Rồi ngây thơ nàng tự hỏi,
phải chăng Đavít sẽ đến thăm nàng, cho người đến với
nàng, hay bà Era sẽ cho gọi chàng và nàng cùng nhau sum họp. Suốt bữa cơm tối
hôm qua, Đavít không nói gì, điều đó nàng thấy rất tự nhiên, chính nàng cũng
không nói gì. Hơn nữa, nàng không còn gì để lo ngại cả. Ơn trên đã phù hộ
cho nàng.
Lịch đi đi lại lại sáng hôm ấy,
mơ mộng, tươi cười, đôi mắt xa xăm. Nàng dạo quanh sân rồi lui vào phòng. Nàng
cảm thấy tràn trề hạnh phúc và tin tưởng cho nên chợt
thấy bà Era nàng vội vã
ra đón bà, miệng thỏ thẻ:
- Dì yêu quý của con.
Xúc động vì sự nồng nhiệt của
Lịch, bà Era nói:
- Con, hôm nay con có vẻ sung sướng lắm?
Lịch ngẩng đầu đáp:
- Không, con vẫn ở đây.
Bà Era chỉ có ý định này ngay
trong lúc ấy. Ý định này đã đến rõ ràng và giản dị quá làm cho bà có cảm tưởng chắc chắn là do Chúa xui nên.
- Dì sẽ thưa chuyện với thân phụ con trước giờ hành lễ, còn con tin cho
Đavít biết ngay bây giờ. Nhưng thôi, để dì nói trước với Đavít tiện hơn. Rồi con sẽ đi với dì và hai con sẽ nói chuyện cùng
nhau. Hôm qua là hôm qua, hôm nay là hôm nay, chúng ta phải tùy từng lúc mà
hành động để chúng ta có thể đi đến đích.
Bà Era siết chặt tay Lịch,
buông ra rồi đứng dậy.
Lịch ngây thơ hỏi:
- Đích nào, thưa dì?
Bà Era thản nhiên đáp:
- Cuộc hôn nhân của Đavít… và
của con. Bây giờ đúng lúc lắm. Dì chưa bao giờ thấy
Đavít xao xuyến bằng hôm qua.
Lịch bối rối hỏi:
- Bây giờ sao?
- Ừ.
Bà Era vừa nói vừa bước ra phía cửa. Bà không muốn nghĩ ngợi gì hơn về những điều Lịch có thể hoặc phải làm. Chỉ cần cho
đôi trẻ hội ngộ, ngoài ra đã có Chúa sắp xếp.
Ra đến ngưỡng cửa, bà quay nhìn
lại đằng sau. Lịch không nhúc nhích, vẻ bối rối, hai tay nàng siết chặt lấy
nhau.
Trước khi đi ra, bà dặn Lịch:
- Con hãy nói về Chúa với
Đavít.
Lịch chưa kịp suy nghĩ kỹ về các lời của bà Era thì thím Hoàng đã đến thưa:
- Thưa cô, bà của con mời cô ra ngoài vườn đào!
Thím Hoàng đứng đợi Lịch sửa
soạn để theo thím ra vườn.
Vườn đào là nơi Đavít ưa thích nhất, bà Era đã đến đây sau khi từ giã Lịch. Bà
thấy Đavít một mình đứng dưới gốc đào, vẻ mặt bối rối.
Bà ngọt ngào gọi:
- Đavít con.
- Dạ, thưa mẹ!
Miệng chàng nói, nhưng trí chàng đang nghĩ vẩn vơ. Ở trong vườn này,
hình như cảnh chết chóc ở tận đâu đâu! Không khí ngày Sa Ba yên
tĩnh quá. Vườn rộng, thành lại cao nên sự ồn ào bên ngoài không lọt vào
đến tai
chàng. Bình
sinh Đavít rất ghét cảnh tịch mịch. Ngày thường, ra vườn không gặp Trang
thì chàng vội vã băng qua cổng đi tìm bạn
bè, cùng nhau dạo phố và xem có gì mới lạ xảy ra từ hôm trước không. Thị
trấn Khai Phong ở nửa đường giữa miền Hoa Bắc và miền Hoa
Nam, khách thường dừng chân tại đây để nghỉ ngơi lấy sức và thưởng thức
cao
lương mỹ vị tại các quán xá nổi danh của thị trấn này. Những phường xiếc
với đủ
trò
ảo thuật trên mười ngón tay, những phường hát dạo từ Bắc Kinh đến, hằng
ngày trổ tài trong các sân đền hoặc la cà hết trà đình này đến tửu
điếm khác để mua vui cho khách khứa.
Nhưng sáng hôm ấy Đavít không còn lòng dạ nào để nghĩ đến các trò giải
trí nói trên. Chàng không muốn rời khỏi ngôi nhà kín cổng cao tường này. Ở đây thật là yên ổn! Chàng có cảm giác như vậy
vì
ở trong tâm trí của chàng, những bóng ma gợn lên tựa những thây chết đuối trồi
lên mặt nước.
Bà Era nói:
- Cha con và mẹ đã quyết định
cho con học kinh Tôrát.
Bà đã nhiều lần nhắc nhở điều
này, lần nào chàng cũng gạt đi viện cớ rằng quá bận, nhưng lần này chàng đáp:
- Thưa mẹ, con rất sẵn sàng!
Chính chàng cũng ngạc nhiên và
xúc động thấy ý định của mình phù hợp với quyết định của song thân, nhưng chàng
không bộc lộ cho mẹ chàng biết.
Bà Era lại nói:
- Hôm nay sau khi dự lễ ở Thánh
đường, mẹ sẽ mời giáo trưởng lại ở đằng nhà ta một thời gian. Như thế tiện cho con hơn. Còn đối với Ngài thì việc dạy dỗ ở
đây cũng như ở đằng ấy.
Bà ngẩng đầu nhìn các cây anh
đào đang trổ hoa và tiếp:
- Ồ đẹp quá! Chắc là Lịch sẽ
vui thích. Để mẹ cho đi gọi nàng.
Bà đã định yêu cầu Đavít gọi
Lịch đến, nhưng lại thôi. Mong ơn trên phối hợp đôi trẻ, bà thầm cầu nguyện:
“Xin Chúa lưu giữ con tôi lại nơi đây.”
Đavít đã thấu rõ lời cầu nguyện
của mẹ không phải bằng thính giác mà chính bằng trực giác và cảm xúc. Chàng
đứng yên dưới gốc đào và mẹ chàng vừa đi vừa tươi cười nhìn chàng. Bà gặp
thím Hoàng và bảo thím mời Lịch ra vườn đào. Đavít vẫn
đứng một chỗ, tựa như đôi chân chàng đã mọc rễ cho đến lúc Lịch bước vội đến
cổng vườn.
Chàng thong thả đến đón nàng:
- Lịch!
Sự mầu nhiệm hôm trước tái diễn. Dưới ánh bình minh, nước da Lịch tươi sáng và xanh xanh, với đôi mắt u huyền có vẻ toàn bích.
Nàng mặc áo vải trắng dài phết gót, với chiếc thắt lưng hổ hoàng và cài trên
đầu chiếc trâm bằng vàng chạm. Nàng xinh đẹp, xinh đẹp hơn một cánh hoa huệ.
Danh từ này nhắc Đavít nhớ lại bài thơ chưa hoàn thành và lý do buộc chàng
bỏ dở nửa chừng.
Chàng tiếp:
- Lịch rực rỡ tựa bình minh.
Lịch ngước mắt nhìn
Đavít. Tim nàng tựa cánh chim bay thẳng hướng về
Đavít và nương tựa vào chàng. Bắt đầu từ giờ phút ấy, nàng yêu chàng và chỉ một
mình
chàng với một mối tình trọn vẹn.
“Chúa ơi! Hãy
ban cho con trái tim của chàng.” Câu cầu nguyện xiết bao mạnh mẽ và chân thành
này làm rung động tất cả tâm hồn lẫn thể xác Lịch. Đavít xúc động đến run rẩy,
cảm thấy mối tình của Lịch tràn ngập, xâm chiếm lòng chàng, tựa nhận lãnh mối
tình một tặng vật vĩ đại của một người ngoại quốc. Có lẽ chàng cũng xúc động,
những sự xúc động còn mãnh liệt xiết bao đối với một người cùng nòi giống, cùng
huyết thống với chàng. Chỉ có hai người trong vườn đào.
Trên đầu họ, nền trời êm dịu của một buổi sớm mùa xuân, và nổi bật trên nền
trời ấy hoa anh đào mơn mởn với những ngọn lá non xanh tươi. Hai người cảm
thấy, tựa một ơn lành, sự yên ổn đang bao trùm họ trong khu vườn này, trái
ngược hẳn với các ám ảnh chết chóc ghê rợn và cảnh tàn sát hung bạo mà Cao Liên
đã
kể hôm trước.
Đavít phân vân do dự, bị giày
vò giữa quá khứ xa xăm mà chàng chẳng hề biết với thời thơ ấu đầy hạnh phúc mà chàng đã trải qua. Cái quá khứ xa xăm ấy, chàng
chia sẻ với Lịch. Mối liên hệ ấy thắt chặt hai người với dân tộc họ. Chàng buông tay Lịch, và thúc đẩy bởi một cơn bồng bột
của trái tim, chàng ôm choàng Lịch và kéo nàng về phía chàng.
Nàng cúi đầu dựa vào ngực
chàng, nhắm mắt và thầm cảm ơn Chúa:
“Chúa đã chuẩn y thỉnh nguyện
của con.”
Đavít cúi nhìn đôi mắt đen và
cong của Lịch, chàng tự hỏi mình đã vừa làm gì trong ngày lễ Sa Ba này. Phải
chăng chàng đã chọn lựa? Có lẽ là như vậy, nhưng chàng
không rõ
đã chọn lựa theo chiều hướng nào.
Bỗng nhiên chàng nghe tiếng mẹ
gọi:
- Hai con.
Hai người liền rời nhau khi thấy bà Era xuất hiện phía cổng vườn:
- Hai con theo mẹ đi dùng điểm
tâm rồi chúng ta còn
cùng nhau đến giáo đường. Gần đến giờ rồi, Đavít ạ, mẹ đã soạn lễ phục của con
và để sẵn trên giường của con rồi.
Hai người lặng lẽ theo sau bà Era. Đavít cảm thấy nhẹ nhõm – điều mà
chính chàng rất đỗi ngạc nhiên – rằng mẹ chàng đã can thiệp lúc chàng đang ôm
choàng Lịch trong tay. Mẹ chàng mỉm cười dò hỏi, chàng
cũng mỉm cười đáp lại và chàng không hiểu vì sao chàng lại
có cảm giác là đã dối mẹ.
***
Trong lúc Đavít dự lễ ở Thánh
đường. Trang đem hết tâm trí để thuyết phục mụ Chu tại nhà họ Khương. Nàng gợi tánh kiêu căng và khéo lợi dụng sự ghen
ghét hoặc tức giận của mụ ta.
Nàng đã quyết định cuộc thăm
viếng này trong đêm vừa rồi. Bữa cơm tối áp lễ Sa Ba,
nàng thấy khác thường, lặng lẽ và đầy vẻ xúc động. Chính ông Era cũng trầm
ngâm, không quan tâm đến các món ăn. Đavít và Lịch gần như không đụng đũa, chỉ
riêng bà Era vẫn ngon miệng. Chính bà cũng ít nói, chỉ thường hết nhìn Đavít đến
nhìn Lịch.
Nhận thấy mình bị loại, Trang
đã sớm rời phòng ăn và đã thức khá khuya để trau chuốt hoàn thành một
bài thơ mới. Nàng định bụng sáng sớm sẽ thân hành mang đến nhà
họ Khương để dùng vào âm mưa nàng đang theo đuổi – và bây giờ, ngồi dưới
bóng một
cây thiên tuế, trong một sân nhỏ phía sau vườn, nàng đang trò chuyên
ngọt
ngào với già Chu:
- Xin thím bỏ lỗi cho! Nàng vừa
nói vừa vuốt lại mái tóc mà gió sớm đã tung lên.
Mụ Chu đang thêu dở một chiếc
hài sa tanh, ngước mắt mỉm cười hỏi:
- Chị có lỗi gì?
- Thưa thím, hôm qua cháu đã không trở lại thăm thím được như lòng cháu mong
muốn, nhưng sau khi nghe cháu trình bày lý do và chắc thím sẽ tha
lỗi cho cháu.
Và Trang kể lại cho mụ Chu nghe
chuyện đoàn thương hồ về với các tin tức dữ dội: các cuộc tàn sát dân
tộc Do Thái, sự buồn rầu của hai ông bà chủ của nàng, sự tang tóc đã lan khắp mọi
người trong nhà, vì vậy nàng sợ lại đây sớm quá sẽ mang
đến cho nhà họ Khương điềm chẳng lành.
Trang lim dim đôi mắt vẻ buồn
bã, nàng cảm thấy cặp mắt sắc bén của mụ Chu đăm đăm nhìn nàng, và nàng dịu
dàng tiếp:
- Cháu sợ hôm qua đã thưa chuyện với thím hấp tấp quá. Cháu sợ chưa thấu rõ lòng dạ của
thiếu chủ cháu.
Nàng thở dài, mụ Chu đáp:
- Già có nhớ chị nói gì đâu.
Biết mụ Chu giả vời, nàng tiếp:
- Cháu đã nói thiếu chủ cháu
chỉ mơ tưởng đến một mình tiểu thư đây, và cháu đã
trao cho tiểu thư bài thơ của cậu cháu. Nhưng đánh đùng một cái họ đưa
con gái Giáo trưởng lại ở đàng nhà và cháu sợ họ không khỏi dùng những chước
quỷ mưu thần để làm cho cậu quên đến cả mối tình thắm thiết đối với tiểu thư.
Mụ Chu khịt mũi rồi đứng dậy.
Mụ ta to béo quá cho nên mỗi lần gắng đứng lên là nào kéo, nào khâu, nào vải
vóc trên đầu gối mụ đều đổ tung xuống đất. Trang vội vã lượm lên.
Mụ Chu giận dữ bảo:
- Để đấy, kệ tôi. Tốt hơn là
chị theo tôi mà gỡ cục vạ chị đã gieo cho nhà này.
Mụ ta đi trước và hất hàm ra
hiệu bảo Trang theo mình. Trang có cảm tưởng vào một
cung điện, lối đi chằng chịt chẳng biết ngõ nào mà ra.
Tòa nhà họ Khương rất rộng lớn, còn rộng lớn hơn cả nhà ông Era. Mấy thế hệ chồng chồng, vợ vợ, con con, cháu cháu chung
sống dưới mái nhà này. Mấy người đàn bà chỉ liếc Trang bằng khóe mắt, còn trẻ con thì
nhìn nàng tận mặt, nhưng nàng cứ khiêm tốn cúi đầu
bước qua. Cứ vậy cho đến khuôn viên dành riêng cho Khương tiểu thư. Ông Khương
Sơn có bốn cô con gái, hai cô lớn đã lấy chồng và theo chồng; Quí
Lan là thứ ba, còn cô út là con bà hầu mà ông Khương Sơn đã
hối hận đem về, vì bà ta lại say mê anh quản gia cho nên ông buộc lòng phải
đuổi cả hai và chỉ bắt cô bé.
Hai chị em đang cúi xuống một
sợi dây chơi kéo cưa, lúc mụ Chu và Trang vào. Trang chưa hề thấy Quí
Lan mà chỉ biết nàng qua sự mô tả của Đavít. Nhưng thoạt nhìn, Trang nhận thấy
sự mô tả của Đavít chưa bì kịp sự thật và Quí
Lan quả là một tuyệt thế giai nhân. Trông nàng có vẻ ngây thơ và chẳng lớn hơn em nàng mấy, nhưng mụ Chu vội bảo cô
gái đi nơi khác.
Quý Lan hỏi:
- Sao vú lại đuổi em Lí đi?
Trang chăm chú nghe giọng nói
thanh thanh ấy.
Mụ Chu không lộ vẻ gì sợ hãi
đối với Quí Lan và không trả lời câu hỏi của nàng, mụ lớn tiếng hỏi:
- Bài thơ hôm qua vú trao cho cô đâu rồi?
Quí Lan rút bài thơ trong tay áo ra đáp:
- Đây.
Mụ Chu quắc mắt nhìn Trang
trách móc:
- Chị hẳn thấy tội của chị.
Tiểu thư đêm ngày ôm ấp bài thơ ấy. - Rồi mụ quay lại phía Quí Lan. - Cô trả
ngay bài thơ cho vú. Nó chẳng có nghĩa lí gì, để vú vứt đi
cho rồi.
Trang vốn sẵn thông minh suy
tính rất mau, nàng nhận rõ Quí Lan đối với nàng sẽ là một người bạn, hơn nữa một kẻ đồng minh để tranh thủ trái tim
của Đavít. Nơi Quí
Lan không có nghị lực, không có dũng cảm. Nàng có dáng một con mèo con: đôi mắt
to như ngạc nhiên, như tinh nghịch, miệng cười chúm
chím. Tuy nhìn
mụ Chu với vẻ hơi sợ sệt, nàng vẫn giữ chặt bài thơ trong tay, lắc đầu
bướng bỉnh nói:
- Tôi muốn giữ bài thơ này. Tôi không muốn vú xé đâu. Tôi không muốn… không
muốn.
Mụ Chu ngửa mặt lên trời, sắp
sửa nổi giận. Trang thấy vậy vội nói:
- Xin tiểu thư đừng phiền muộn. Tôi chỉ lại đây để nhận phúc đáp của
tiểu thư.
Và nàng nói nhỏ với mụ Chu:
- Xin thím chớ giận. Con thấy
cả rồi. Bằng cách này hay cách khác con sẽ thu xếp được, thím chớ lo.
Mụ Chu tỏ vẻ hờn dỗi không nói
gì. Trang đến gần Quí Lan vui vẻ hỏi:
- Tiểu thư đã
viết bài phúc đáp chưa?
Quí Lan cúi đầu lúc lắc:
- Tiểu thư có muốn tôi giúp không?
Quí Lan ngạc nhiên hỏi:
- Chị biết viết à?
- Dạ. - Trang mỉm cười. - Xin tiểu thư cho
tôi biết tiểu thư muốn phúc đáp như thế nào. Tôi sẽ viết thay cho tiểu thư.
Quí Lan ấp úng:
- Nhưng tôi biết viết, chỉ có điều là không biết viết gì thôi.
Mụ Chu xen vào:
- Tiểu thư đây chưa viết thư cho trai bao giờ.
Trang vẫn ngọt ngào:
- Không có gì mà tiểu thư phải ngại. Cậu tôi tốt bụng, hiền lành không khi nào
làm hại ai. Tôi hầu hạ cậu tôi suốt đời chưa khi nào cậu tôi đánh tôi hoặc để
cho ai đánh tôi cả.
Quí Lan nhìn Trang sửng sốt:
- Cả những lúc giận dữ cũng thế
à?
Trang mỉm cười đáp:
- Cậu tôi không nổi giận bao
giờ.
Quí Lan thở dài, Trang vội thò
tay vào yếm rút bài thơ nàng đã làm sẵn và đọc
to, giọng dịu dàng:
Gương sen lóng lánh hạt sương chờ
Nhìn thấy triêu dương luống ngẩn ngơ!
Cao vút mây xanh đem đặt để,
Cùng nhau ngự trị thỏa lòng mơ.
Quí Lan lấy ngón tay nhỏ thó
theo dõi từng hàng, khi nghe Trang đọc xong, nàng vui thích reo lên:
- Chị cho tôi nào!
Rồi tiếc rẻ, nàng tiếp:
- Giá như do tôi làm…
Trang vội nói:
- Tôi xin biếu tiểu thư, thì cũng không khác gì tự tiểu thư làm.
- Không khi nào chị nói với
công tử rằng không phải tôi làm chứ?
- Không khi nào. Nhưng xin tiểu thư tự tay chép lại cho.
- Vú đi lấy một tờ hoa tiên và
bút mực nào.
Quí Lan ngồi trầm ngâm với bộ
điệu một bà hoàng, để Trang đứng. Khi mụ Chu đã đem văn phòng trí bảo
đến, nàng
chăm chú viết có vẻ long trọng lắm. Nàng chép xong bài thơ, xếp lại theo
một lối đặc biệt đưa cho Trang: “Đây, chị trao lại công tử.” rồi lấy
tay ra hiệu cho nàng lui ra.
Trang cúi đầu tạ Quí Lan, nhìn
mụ Chu với một nét nhìn đầy ý nghĩa rồi bước ra.
Nếu nàng cứ theo đường cũ khi
vào mà đi thì có lẽ nàng đã ra khỏi nhà mà không ai thấy trừ Quí Lan và mụ Chu.
Nhưng nàng tò mò muốn nhân dịp xem qua cho biết tòa
nhà này, đặc biệt là hồ sen mà nàng nghe nói ở giữa sân chính. Nàng xăm xăm
bước về phía sân ấy và khi gặp một nô bộc nhà họ Khương hỏi nàng đi đâu, nàng lạnh lùng đáp nàng vừa lại hầu tiểu thư xong nay
trở ra. Rồi nàng cười nói tiếp:
- Nhà này rộng quá, đến lạc
đường mất.
Nàng cứ rảo bước cho đến lúc thấy một chiếc cổng hình vòng nguyệt
mà nàng đoán chắc là cổng vào sân chính. Nàng rón rén lại gần và nhìn vào
trong. Nàng thấy một khuôn viên xinh đẹp, lát gạch xanh, ở giữa: một hồ sen
hình bầu dục. Sát chân tường đào, mận sum suê, hoa tươi rực rỡ. Gần hồ, những khóm trúc phất phơ
trước gió, và đó đây chim chóc bay lượn nhởn nhơ. Trang ngước mắt nhìn lên và thấy
tận trên các bức tường cao có giăng lưới để giữ
đàn chim khỏi ba mất.
Trang quên tất cả, nàng bước qua cổng và chậm rãi tiến vào hồ sen. Nước hồ trong vắt, cá vàng lượn quanh, Trang đương mải
ngắm thì
có tiếng hỏi nàng:
- Này, chị ở đâu đến?
Sửng sốt, Trang ngẩng đầu lên
và thấy chỉnh chủ nhân ông họ Khương ngay trước
mặt.
Với một nụ cười thoảng qua trên môi nhưng đủ làm cho đôi
má núng đồng tiền, nàng đáp:
- Bẩm đại nhân, đàng nhà ông
Era sai con lại đây tìm một người thợ thêu. Khốn,
con không thể cưỡng lại sự khao khát muốn vào xem hoa viên này, nơi mà
con đã từng nghe người ta ca tụng không tiếc lời. Cúi xin đại nhân xá
tội
cho.
Ông Khương Sơn vuốt cằm mỉm cười. Mặt ông vuông, đôi mắt hiền từ, môi dày, mũi
rộng. Ông mặc áo dài xám và để đầu trần, chân mang bít tất trắng, giày nhung
đen. Hai ngón tay trỏ đều đeo nhẫn ngọc. Tay phải cầm chiếc điếu. Lông mày
thưa, râu cạo nhẵn, mặt ông trông có vẻ cởi mở và hòa nhã.
Ông ôn tồn bảo Trang:
- Chị có lỗi gì đâu. Chị cứ tha
hồ ngắm xem hoa viên và hồ sen, mỗi ngày cứ giờ này sau bữa ăn là ta ra đây xem
cá.
Vừa nói ông vừa lấy chiếc điếu
chỉ mặt hồ và Trang cúi nhìn dòng nước trong vắt với đàn
cá đang đợi bơi lội thảnh thơi.
Nàng than thở:
- Chúng thật sung sướng! Trong nhà đại nhân đến bầy cá cũng yên vui, sung
túc.
- Đằng nhà ông Era có nuôi cá
không?
Câu này hình như hỏi cho lấy có nhưng Trang chỉ thấy đó là một câu mở
đầu, những câu khác sẽ theo sau.
Nàng vội đáp:
- Bẩm đại nhân có. Đằng ông chủ
con cũng có hồ, có cá - và cũng có nuôi chó Bắc Kinh nữa.
Ông Khương Sơn tra thuốc vào điếu, kéo vài hơi:
- Ta thích chơi chim hơn. Lông đã đẹp tiếng lại hay. Mỗi lần đem chúng
đến nơi khóm trúc, nghe chúng hót, những chim khác kéo đến từng đàn. Chiều
chiều lúc mặt trời sắp lặn, ta thường đem con họa mi
ra đấy và sau khi được ăn thịt sống, nó cất tiếng hót là cả bầy chim tụ tập đậu
trên bức lưới. Ta ngồi yên, không nhúc nhích đến nỗi chúng tưởng ta là tượng
đá.
- Bẩm đại nhân, như thế hẳn là
thú vị lắm!
- Chính những lúc như vậy người ta mới sống những phút thần tiên nhất trong
đời.
Trang chần chờ. Giữa hai người có nhiều cách biệt giới tính, tuổi tác, địa vị, nhưng
không vì
vậy mà có sự khó khăn lúng túng trong việc đối xử. Ông Khương Sơn dễ dãi, đức
độ.
Tự
nhiên Trang cảm thấy có thể tin cậy nơi ông. Mắt
vẫn đăm đăm nhìn
mặt nước, nàng thú nhận:
- Bẩm đại nhân, lúc nãy con đã
dối đại nhân.
Đôi mắt ông Khương Sơn lộ vẻ
nực cười. Nhưng ông cố nhịn để khỏi cười to: \
- Ta đã biết ngay điều ấy.
Trang liếc nhìn trộm ông Khương Sơn rồi hai người phì cười.
- Có việc gì chị cứ nói thiệt
với ta. Gì đi nữa thì ta với chị há không phải là người Trung Quốc cả sao?
Trang không thể bày tỏ ngay sự
thật. Nàng hỏi dò:
- Bẩm đại nhân có thù ghét người ngoại quốc không?
Ông Khương Sơn ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại thù ghét, bất kỳ ai?
Ông dừng lại, rồi ôn tồn bảo:
- Thù ghét một người khác nào bỏ vào trong gan ruột mình một con
giun, nó rúc rỉa và đời mình sẽ mất yên vui.
- Bẩm đại nhân, con có ý hỏi
đại nhân điều khác kia.
Ông Khương Sơn vui vẻ đáp:
- Sao lại không?
- Bẩm đại nhân, liệu đại nhân
có thuận gả con gái cho một người ngoại quốc không?
- Ồ! Ồ! - Ông Khương Sơn lại kéo hai hơi thuốc nữa. - Sao lại không?
Ông gạt tàn thuốc rồi tiếp:
- Thôi ta hiểu ý chị rồi. Ông
Era có cậu con trai, còn ta đây có nhiều con gái. Con gái thứ ba của ta tuổi
xấp xỉ cậu ấy. Trên công việc, ta thường giao thiệp với
ông Era. Ông bán sỉ cho ta hàng ngoại quốc. Ta sắp ký với một ông
một khế ước đặc quyền, lẽ dĩ nhiên ta sẽ được một giá lời. Ngoài
ra nếu do con gái ta, ta lại có thêm mối liên hệ khác với ông Era thì là việc tốt
chứ sao. Nhưng ta không phải hạng người hi sinh con vì lợi. Nhưng thẳng thắn mà nói thì khi người ngoại quốc đã
đến lập nghiệp ở một xứ nào, nên làm cho họ không còn là người ngoại quốc nữa, nghĩa là: hai bên hãy gả con cái
cho nhau để hai dòng máu chan hòa làm một. Chiến tranh đắt đỏ, chứ tình yêu tốn
kém gì.
Trang hết cả e dè. Nàng cảm
thấy kính mến ông Khương Sơn, và lấy làm hân hạnh
là người cùng xứ sở với ông. Những lời ông vừa nói là của một hiền nhân quân
tử. Nàng thưa:
- Bẩm đại nhân, cậu con có thấy
tiểu thư cách đây vài hôm, từ đó cậu con mất ăn mất ngủ.
Ông Khương Sơn thản nhiên nói:
- Tốt.
- Cậu con có làm một bài thơ.
- Lẽ tự nhiên!
- Và tiểu thư đã
làm một bài khác để họa lại.
Ông Khương Sơn tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Con gái ta không làm được
thơ. Trước kia ta có nhờ cụ đồ dạy nó, nhưng cụ đã phàn nàn nó không có thi tứ.
Trang đỏ mặt:
- Bẩm đại nhân con đã giúp tiểu
thư.
Ông Khương Sơn phì
cười:
- Thế à! Chị có bài thơ đó không?
Trang trao bài thơ, Ông Khương Sơn mở ra và ngâm to.
- Khá lắm, duy có hai chữ nhìn
thấy hơi non.
Ông vừa nói vừa chỉ hai chữ này
bằng chiếc điếu.
- Đại nhân thứ lỗi cho!
- Chị cứ để như vậy. Nếu đặc
sắc quá thì công tử có thể đâm nghi. Thôi bây giờ, chị đem về trao cho công tử;
ái tình phải chớp lấy khi thủy triều đang lên và trước khi ngọn sóng rút xuống.
Trang nhận lại bài thơ, cúi đầu từ tạ.
Nàng cảm thấy sung sướng hơn khi mới đến nhiều. Càng suy nghĩ, nàng càng nhận
thấy ông Khương Sơn đã
đối xử với nàng như nàng cùng ông ta và tất cả
người Trung Hoa chỉ là một. Nàng không còn cô đơn, cách biệt như trước nữa. Lẽ
dĩ nhiên, nàng chỉ là một hạt cát trong biển cả dân tộc, nhưng nàng thuộc vào toàn thể; đời nàng không còn cách biệt với
đời đồng bào chung quanh.
Nàng thầm nghĩ: "Chỉ còn
một điều là không biết Đavít có thể liên kết với chúng ta không". Dự tính
của nàng thêm rõ ràng. Nàng sẽ tách Đavít khỏi dân tộc u sầu buồn bã kia và
phối hợp chàng với dân tộc tươi vui của nàng.
Chàng sẽ quên sự chết chóc và sẽ biết yêu đời.
Nàng trở về nhà, trong lòng thư thái. Ông Era và Đavít vừa ở giáo đường về, một lát sau
bà Era và Lịch về kịp và ngày lễ Sa Ba trôi qua theo nghi thức Trang đã thuộc lòng.
Công việc của nàng là hầu tiệc. Nàng đặt các đèn lồng lớn trước mặt bà Era để bà tự tay đốt lên khai lễ. Khi mọi
người đã
ngồi vào bàn tiệc, nàng đem bình rượu lễ lại cho ông
Era và đứng hầu bên cạnh chủ trong lúc chủ đọc kinh làm phép rượu. Sau đó nàng
điều khiển các nô tỳ khác trong việc hầu nước thau và sắp dọn các thức ăn lên
bàn tiệc. Thấy một người đầy tớ mới đến ở đem chiếc điếu của ông Era lại, nàng
chau may lắc đầu ra hiệu bảo đem ra, vì trong ngày lễ này không được đốt lửa.
Ngày lễ tiếp diễn và Trang
không muốn chú ý xem Đavít đã ngỏ lời với Lịch bao nhiêu lần, cũng không
lưu tâm đến những cái nhìn rất lâu và có dáng suy nghĩ mà
Đavít đã nhìn Lịch. Đến chiều tối, Đavít đưa Lịch ra vườn để tìm ba ngôi
sao
đầu tiên trên nền trời và báo rằng ngày lễ Sa Ba đã chấm dứt.
Trang chạy đi thắp nến, thắp
đèn lồng. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe lời chúc nhau đến ngày mai, một ngày
tốt đẹp nàng tự nghĩ, một ngày thường dễ chịu, một
ngày thuộc của người đời của người đời chứ không phải của một vị Chúa xa lạ.
Cả ngày lễ Sa Ba, nàng không
trao đổi với Đavít một lời nào, nhưng nàng không thất
vọng - nàng có thể chờ đợi.
***