Trang - Chương 03 - Phần 3

Khi còn lại một
mình trong phòng, nàng ngồi xuống ghế, gục đầu vào hai cánh tay khoanh lại trên
bàn. Một lát sau, nàng đứng dậy, đi lại một góc phòng, quay mặt vào tường, nàng
đọc kinh cầu nguyện giọng trầm trầm, thỉnh thoảng lại khóc nức lên.

Mỗi năm, hễ đoàn
thương hồ về là cả thị trấn lại nô nức khác thường. Người ta đã loan tin từ
miệng người này sang người khác nên khi đàn lạc đà dài thườn thượt kéo ngang
qua các đường phố, thiên hạ chen nhau ra xem chật cả hai bên lề đường, Cao Liên,
người chung vốn tin cẩn của ông Era chễm chệ trên lưng một con lạc đà sắc trắng
đi dẫn đầu. Tiếp đến là đoàn người hộ vệ võ trang bằng gươm giáo và súng trường
Tây phương. Sau cùng là đàn lạc đà mang hàng hóa. Cả đoàn người cũng như vật
đều cảm thấy mệt nhừ sau cuộc hành trình dài đằng đẵng
để đến tận Tây phương, băng qua Tân Cương rồi lại trèo đèo vượt núi để trở về.
Nhưng vào thị trấn, đoàn người đã cố gắng để chỉnh đốn lại hành trang, và đàn
lạc đà cũng ngẩng đầu lên, xăm xăm rảo bước ra dáng oai vệ lắm.

Ông Era ngồi xe la theo sau. Từ mấy ngày trước, ông đã rải người đợi sẵn
từng quãng dọc theo đường về của đoàn thương hồ để lấy tin. Sáng tinh
sương hôm ấy, một người đã hồng hộc chạy về cho ông hay đoàn thương hồ không
còn bao xa và cứ tốc độ ấy thì một giờ nữa sẽ về đến cửa thành. Người đem tin
sợ tính sai nên khi vào đến ngõ vội dặn lão Hoàng thuê xe chực sẵn, thành thử
ông Era có thể lên đường ngay. Tại một làng kia, cách thị trấn khoảng mười dặm,
ông Era gặp đoàn thương hồ và ôm chầm lấy Cao Liên mừng rỡ. Sau khi ăn vội vàng
qua bữa, cả hai lại lên đường. Ông Era đi đoạn hậu trong chiếc xe la, qua các
đường phố chật ních người đứng xem. Ông cho vén các diềm xe bằng sa tanh xanh
lên và tươi cười vẫy tay để đáp lại sự chào hỏi của những người quen biết.

Đến trước cửa một trà đình ở con đường chính của thị trấn, chợt thấy ông
Khương Sơn đang đứng phì phèo cái điếu bọc da, ông Era bảo dừng xe lại. Theo
phép lịch sự, ông Era xuống xe đến chào hỏi bạn.

Ông Khương Sơn nói:

- Bác Cao Liên và đoàn thương hồ đã về đến nơi bình an vô sự, tôi có lời
mừng đại huynh.

- Chuyến này có nhiều hàng quí giá lắm, lúc nào có rảnh xin đại huynh quá
bước đến xem. Đại huynh tha hồ mà chọn, tôi dành ưu tiên cho đại huynh, còn lại
bao nhiêu mới nhường cho bạn hàng.

- Đa tạ đại huynh! Đa tạ đại huynh!

Lối xã giao của ông Khương Sơn đã làm đôi bạn thêm thân mật. Ông ta là một
người to béo phì nộm. Ông bận áo gấm dài, ngoài khoác một cái áo cụt bằng nhung
đen. Cái bụng phệ của ông đã làm cho vạt áo trước ngắn hơn vạt sau.

Ông Era nói:

- Hay là ngày mai xin mời đại huynh đến tệ xá dùng chén rượu nhạt cho vui,
rồi sau đó chúng ta tha hồ xem hàng hóa. À, không! Xin lỗi đại huynh. Tôi quên.
Mai lại là ngày lễ Sa Ba của chúng tôi. Xin đại huynh cho ngày khác vậy.

- Xin vâng, xin vâng!

Ông Khương Sơn vừa đáp vừa nghiêng đầu chào và đẩy nhẹ bạn lên xe. Đoàn
thương hồ lại tiếp tục đi.

Lúc sắp đến nơi, ông Era thấy Đavít từ trên thành gạch xây quanh nhà nhảy
nhẹ xuống chạy theo bên cạnh con lạc đà đi đầu và vẫy cả hai tay để chào mừng
Cao Liên. Rồi chàng vội chạy trước vào cửa ngõ.

Mấy gã đánh xe cả cười nói:

- Thế nào cậu Thiếu chủ cũng làm náo động cả nhà lên cho mà xem.

Nghe vậy, ông Era cười một cách hãnh diện. Đến cửa ngõ, chiếc xe la dừng
lại. Ông Era mở ví thưởng thêm tiền cho mấy gã đánh xe. Họ vui vẻ cảm ơn và cho
xe lui về.

Các con lạc đà lần lượt quỳ xuống. Chúng thè lưỡi thở. Người ta liền bưng
hàng xuống và đưa vào nhà. Lạc đà được dẫn về chuồng, các cửa khóa lại. Nhiều
kẻ qua đường tò mò đến nỗi nếu không có lão Hoàng ngăn lại thời họ đã xông vào
sân để xem cho tận mắt số hàng hóa ngoại quốc.

Lão Hoàng không ngớt tiếng la lớn:

- Có lui ra không? Các người có phải là kẻ cướp không mà xông xáo như thế?

Ông Era dẫn Cao Liên đến khách đường. Đavít níu lấy cánh tay Cao Liên nũng
nịu:

- Bác kể cho cháu nghe tất cả nhé!

Hai ông Era và Cao Liên không phải là họ hàng thân thuộc. Họ chỉ là đôi bạn
thuở ấu thơ. Cao Liên gốc Do Thái nhưng mẹ là người Trung Hoa, nhờ vậy mà rất
được việc cho ông Era trong công chuyện giao dịch thương mại. Đối với người Do
Thái, Cao Liên là Do Thái mà đối với người Trung Hoa, ông ta là Trung Hoa.

Lúc Cao Liên băng qua các sân lát đá nắng chói, gương mặt dài với đôi lưỡng
quyền hẹp của ông trông có dáng mệt mỏi, nhưng trên môi đang nở một nụ cười khả
ái và đôi mắt đen có vẻ hiền lành. Ông ta ăn nói chững chạc, giọng khoan thai
và trầm trầm.

Bà Era đợi ở cửa khách đường, Cao Liên nghiêng đầu chào. Bà nói:

- Bác về được bình an, xin có lời mừng bác!

- Xin cám ơn bà chị, đây cũng là nhờ ơn trên phù hộ.

Bà Era thụt lùi để ông Cao Liên bước vào. Ông ta kính cẩn cúi mình khi đi
ngang qua trước mặt bà Era nhưng bà chỉ khẽ gật đầu đáp lại để chứng tỏ rằng
Cao Liên không hoàn toàn ngang hàng với bà. Cao Liên không lạ gì kiểu cách của
bà nên không tỏ vẻ hờn dỗi. Ông ta hỏi:

- Thưa bà chị, bây giờ chúng tôi phải xếp hàng hóa vào đâu đây?

Khi có mặt bà Era, lúc nào Cao Liên cũng hỏi ý kiến bà, nhưng đối với ông
ta người đàn ông vẫn là chủ nhân thật sự của gia đình. Ông Era rất thông cảm
với bạn về điểm này.

Bà Era đáp:

- Tôi ngồi xuống chiếc ghế này, bác mở từng kiện hàng cho tôi xem.

Bà ngồi xuống và ông Era cũng ngồi xuống chiếc ghế đối diện bà, thím Hoàng
pha trà trong lúc một người đầy tớ trai hầu bánh ngọt trên một chiếc khay bằng
sứ. Tôi tớ trong nhà lặng lẽ xâm nhập khách
đường. Họ xếp hàng dọc theo tường để có thể nhìn tận mắt số hàng hóa sắp
được trưng ra. Đavít rút dây kiện thứ nhất, lật đật muốn mở ra ngay.

Cao Liên vội nói:

- Thiếu chủ cẩn thận. Trong đó có một món quí giá lắm.

Ông liền chạy đến giúp Đavít, và nút dây mà chàng đã hì hục mãi không mở
được hình như tự nó tung ra dưới bàn tay nhanh nhẹn của ông. Tháo lớp vải bọc
ngoài, ông lấy ra một chiếc hộp bằng kim khí, giở nắp và rút khỏi lớp giấy độn
bên trong một vật nặng vàng chói.

Đavít reo lên:

- Cái đồng hồ! Nhưng đã có ai từng thấy một cái đồng hồ như thế này bao giờ
chưa?

Cao Liên khoe:

- Có phải là vật thường đâu.

Ông Era tần ngần ngắm nghía các bức tượng tí hon tạc hình đồng tử mạ vàng
khỏa thân và dang tay đỡ chiếc đồng hồ. Ông hỏi bạn:

- Đẹp lắm, các hình đồng tử tạc khéo quá, nhưng không biết có ai cần đến
không?

Cao Liên mỉm cười đắc thắng:

- Ông Khương Sơn có dặn tìm một vật gì để dâng vào trong cung, ông anh quên
rồi sao? Ông ấy sẽ dâng lúc nào mở thương điểm tại Bắc Kinh. Tôi mua vật này
chính là để dùng vào việc ấy.

Nghe bạn nói, ông Era vội kêu lên:

- Đúng rồi. Người thường làm gì dùng được vật quí này. Dâng vào trong
cung. Ồ! Phải rồi. - Ông vuốt râu đắc ý và ngắm công trình mỹ thuật kia. - Vật
này sẽ làm dễ dàng việc ký kết giao kèo giữa ông Khương Sơn và tôi, phải không
hiền huynh?

Đavít tò mò:

- Tôi muốn mở phía sau ra xem thử do đâu nó chạy được.

Ông Era vội bảo
con:

- Đừng đừng! Con
không thể làm cho nó chạy lại được đâu.

Rồi quay sang
Cao Liên:

- Nhờ hiền huynh
gói lại cẩn thận… Món này quí lắm… và hiền huynh đừng nói giá tiền làm gì.

Nghe vậy, cả nhà
phá lên cười. Bọn tôi tớ nhìn các đồng tử mạ vàng không chớp mắt. Họ kính cẩn
nghĩ rằng: người ta chỉ mở lại chiếc hộp này ra trước Cung Phượng Hoàng. Chỉ
một mình Đavít tiếc rẻ nói:

- Thưa cha, chuyến sau con xin đi với bác Cao Liên. Tại các nước phương Tây
chắc có biết bao là kỳ quan!

Thím Hoàng xen vào:

- Thiếu chủ đừng có đi. Là con một, thiếu chủ không thể đi xa trước khi ông
bà có cháu nội.

Nghe người tì nữ nói xen vào như thế, bà Era làm ra vẻ cao đạo, nói:

- Con ạ, một ngày kia, gia đình ta sẽ đi hết. Đây có phải là quê hương của
chúng ta đâu. Chúng ta sẽ có một quê hương khác.

Ông Era cảm thấy khó chịu. Ông lấy tay ra hiệu cho Cao Liên mà rằng:

- Hiền huynh bày các thứ khác ra xem nào.

Cao Liên vội vã vâng lời. Ông biết hai vợ chồng ông Era không đồng ý nhau
về vấn đề Đất Hứa. Ông cho mở hết cả các kiện hàng ra. Đồ vật trưng bày la liệt
khắp nơi sáng ngời cả gian phòng. Nào đồ chơi của trẻ con đủ kiểu, nào vải, nào
nhạc cụ, nào sa-tanh, nào nhung, nào nệm, nào khăn choàng cổ, nào kỷ vật đủ
thứ. Các người đứng xem nhìn sững như bị đồ vật quí lạ thôi miên. Ông Era tính
nhẩm số lời sẽ thu được. Ông chọn cho mỗi người một món quà. Ông để riêng một
chiếc lược vàng cho Trang, cho thím Hoàng một tấm vải và làm quà cho bà Era một
chiếc áo tuyết nhung mình tơ, màu đỏ thắm rực rỡ.

Còn Đavít, chàng hết nhìn báu vật này đến kỳ vật khác, mơ mộng, hoan lạc
đến thừ người ra, không nói nên lời. Càng nhìn chàng càng muốn biết các xứ cùng
những dân tộc đã sản xuất các kỳ quan này. Chàng thầm nghĩ: ‘‘Họ phải là
những người thông minh nhất hoàn cầu. Cấu tứ được một vẻ đẹp như thế, những màu
sắc như thế, những hình thức như thế, rồi đem thực hiện các ý niệm trên thành
đồ vật cụ thể, thành vải vóc lóng lánh sặc sỡ, thành máy móc tinh xảo tân kỳ,
họ phải là con dân siêu việt của những đại quốc văn minh đến cực độ. Có lẽ ta
thuộc về các xứ ấy hơn là xứ này đây. Tổ tiên ta không phải từ Tây phương mà
đến sao?’’.

Lúc này hơn bao giờ hết, Đavít thích sang Tây phương xem tận mắt các con
người đã có những hoài bão lớn lao mà họ đã thực hiện và thành công đến thế ấy.

Ông Era nhìn con lo ngại. Đavít đã đến tuổi mà tính hiếu kỳ tự nhiên trỗi
dậy và tâm tư bị giày vò bởi những khát vọng không được thỏa mãn. Nếu mẹ chàng
lại làm cho chàng tiêm nhiễm cái ý định thường trực muốn rời bỏ nơi này mà bà
vẫn cố chấp gọi là nơi lưu đày, thì làm thế nào ông có thể lung lạc được, thủ
thắng được, một mình ông chống lại hai mẹ con? Đavít ham thích vui chơi, ông
Era khuyến khích chàng giao du với các trang thanh niên trong thị trấn, nhưng
các sự kiện tiêu khiển này lâu ngày cũng có thể nhàm chán, không còn lạc thú gì
nữa. Ngắm kỹ con, ông Era nhận thấy chàng thay đổi, khác với các năm trước
nhiều. Chàng không reo lên trước mỗi đồ chơi, mỗi món hàng, mỗi kỳ quan, vui
thích với bản thể của sự vật. Một cảm giác sâu sắc hơn biểu hiện trong vẻ nhìn
của chàng, biểu lộ trong gương mặt, trong điệu bộ của chàng. Đavít suy nghĩ và
thả hồn theo mộng.

Ông Era gọi:

- Con.

Đavít thẫn thờ đáp:

- Dạ, thưa cha.

Ông Era nói to để làm cho con tỉnh mộng:

- Con hãy chọn cho con một món gì đi.

- Chọn làm sao được? Con thích tất cả.

Ông Era vẫn nói lớn:

- Xem kìa, xem kìa. Con sẽ làm suy sụp việc thương mại của cha.

Mọi người ngóng xem Đavít lựa món nào, nhưng chàng không muốn hấp tấp.

Bà Era bảo con:

- Con lấy tấm hàng xanh kia để may áo thì đẹp lắm.

- Thưa mẹ, con không thích.

Và chàng tiếp tục đi quanh, nhìn, sờ vật này đến vật khác.

Thím Hoàng nói với chàng:

- Thiếu gia lấy chiếc đèn này đi. Đẹp quá! Tôi sẽ rót dầu vào để thắp trên
thư án của cậu.

- Tôi đã có đèn rồi.

Và Đavít cứ mãi tìm vật thích hợp nhất với trái tim đang bồng bột của
chàng.

Ông Era giục:

- Chọn mau đi chứ, xem kìa!

Cao Liên đỡ lời:

- Đại huynh hãy để cậu ấy thong thả, vội gì.

Mọi người lại đợi. Bọn tôi tớ cười khúc khích, thầm đánh cá với nhau về món
đồ mà cậu con cưng của chủ nhân sẽ chọn.

Đavít chợt chú ý đến một vật mà nãy giờ chàng chưa nhìn thấy. Đó là một
thanh gươm dài rất bén, vỏ bằng bạc chạm. Chàng rút gươm ra ngắm nghía, mới kịp
nói một tiếng ‘‘Cái này…’’ thời Cao Liên vội kêu lên, dáng sợ hãi:

- Đừng, đừng. Thiếu gia chọn làm gì cái thứ ấy!

Đavít rất đỗi ngạc nhiên:

- Ồ sao vậy?

- Lỗi tại tôi cả.

Cao Liên vừa nói, vừa bước tới để lấy thanh gươm Đavít đang cầm trong tay.
Chàng không muốn đưa. Nhưng Cao Liên cố giằng lấy cho kỳ được mà rằng:

- Tôi đã định không đem thanh gươm này vào nhà.

Rồi quay lại ông Era, Cao Liên nói tiếp:

- Nhưng đấy là một bằng chứng cho những điều tôi sẽ kể lại với đại huynh.

Nhưng Đavít đã với tay giành lại thanh gươm. Càng nhìn chàng càng thấy
thích, chàng thì thầm.

- Thật là một bảo vật, chưa bao giờ ta thấy một thanh gươm quí như thế này.

Bỗng bà Era bảo:

- Con hãy để xuống nào.

Nhưng Đavít lờ đi như không nghe tiếng.

Gương mặt thanh tú của Cao Liên lộ vẻ hãi hùng:

- Thiếu gia…

Và giọng thảm đạm của Cao Liên đã làm cho mọi người trong phòng quay nhìn
về phía ông ta.

Ông Era hỏi bạn:

- Nhưng có sự gì thế hiền huynh?

Ông cũng rất ngạc nhiên về sự lựa chọn của Đavít. Con ông thời cần gì khí
giới?

Cao Liên nói với Đavít:

- Thiếu gia dùng làm gì thanh gươm ấy. Tôi đem về để làm bằng cho những
điều tôi đã mục kích. Lúc tôi đã kể xong sự xấu xa của vật ấy, tôi sẽ tiêu hủy
đi.

- Sự xấu xa? - Đavít lặp lại, đôi mắt đăm đăm nhìn thanh gươm.

Ông Era vẫn im
lặng. Nếu Đavít quay nhìn song thân thì chàng đã thấy mặt họ lộ vẻ kinh khủng,
nhưng mắt chàng vẫn không rời thanh gươm quí.

Thấy rõ vẻ lo âu
của ông bà Era, Cao Liên vội nói:

- Trước khi vượt
biên thùy Tây phương, tôi đã phải đề phòng vì có những tin đồn người ta lại tàn
sát dân tộc chúng ta.

Bà Era thét lên
một tiếng đau đớn và lấy hai bàn tay bưng mặt. Ông Era im lặng. Đavít ngẩng đầu
lên khi nghe tiếng thét của mẹ chàng. Chàng lặp lại, ngơ ngác không hiểu:

- Người ta tàn
sát?…

Cao Liên trịnh
trọng cúi đầu:

- Ôi, khủng khiếp!
Nghe tin đồn nhưng tôi vẫn đi theo đường ấy vì biết rằng người Tây phương cho
tôi là người Trung Quốc. Nhưng nếu tiên đoán được những điều phải mục kích…
Thời tôi đã đi tránh xa ra một ngàn dặm là ít.

Cao Liên ngừng
lại. Không ai hỏi ông ta đã thấy gì. Mặt cắt không còn chút máu, ông Era gục
đầu vào hai tay. Bà Era không nhúc nhích. Đavít cảm thấy lành lạnh sau xương
sống. Chàng quay nhìn về phía Cao Liên, đợi ông ta kể tiếp. Bọn tôi tớ rất đỗi
ngạc nhiên: mắt mở to, miệng há hốc.

Cao Liên lại
tiếp:

- Nhưng bà con
cũng nên biết những điều tôi đã thấy. - Và quay lại nói với Đavít. - Cậu không
biết rằng tại các nước phương Tây, dân tộc chúng ta không được tự do muốn ở đâu
thì ở trong các thành phố. Họ phải ở một chỗ chỉ định sẵn, tại những phố phường
nghèo nàn nhất. Thế mà họ còn bị xua đuổi nữa là đàng khác. Tôi đã thấy nhà cửa
họ đổ nát, cửa ngõ bị đập phá, hàng hóa bị cướp bóc hoặc hủy hoại. Và như thế
đã hết đâu! Tôi đã thấy đồng bào chúng ta chạy trốn dọc theo các ngả đường, đàn
ông, đàn bà và trẻ con. Và như thế đã hết đâu!

Cao Liên ngừng
một chốc rồi lại tiếp:

- Tôi đã thấy
hàng trăm người chết ngổn ngang, nào già cả, nào trai tráng, nào thiếu niên đã
ngã gục vì chiến đấu chớ không đào tẩu… Dân tộc chúng ta… bị tàn sát bằng gươm
đao, súng ống, bằng độc dược và hỏa thiêu… Tôi đã lượm trong một ngõ hẻm thanh
gươm này, lúc bấy giờ vấy đầy máu.

Đavít buông
thanh gươm rớt đánh choang trên nền nhà. Chàng như nghẹt thở, như ngây, như
dại. Tại những vùng mà chàng mơ tưởng cái gì cũng tốt đẹp – vì chính thanh gươm
này cũng đẹp – Cao Liên đã mục kích bao nhiêu khủng khiếp. Chàng hỏi:

- Nhưng vì sao
vậy?

- Nào ai biết
được.

Cao Liên thở
dài. Làm thế nào mà giải thích những điều này cho Đavít hiểu, chính chàng là
người suốt đời sống yên ổn trong cảnh thái bình! Do đâu mà có sự trừng phạt từ
xưa vẫn đè nặng trên đầu dân tộc Do Thái khắp nơi, trừ dưới trời Đông này?

- Họ đã phạm tội
gì?

Tiếng của Đavít
vang lên trong gian phòng lớn. Chàng nhìn cha, nhìn mẹ, rồi lại nhìn Cao Liên.

Bà Era ngẩng mặt
lên:

- Nào có tội tình
gì đâu!

Cao Liên tiếp:

- Mà dù xưa kia
có phạm tội đối với Đức Dêhôva, thì sao trong nhân loại, chỉ một mình dân tộc
chúng ta không bao giờ được tha thứ?

Nhưng ông Era
vẫn im lặng.

Bọn tôi tớ cảm
thông nỗi đau khổ của chủ nhân, và xúc động vì điều vừa nghe, người thì bước
tới để rót thêm trà, người thì lo gói ghém hàng hóa lại. Lúc ấy ông Era mới
hoàn hồn. Ông ngẩng mặt lên, uống cạn chén nước. Thím Hoàng liền rót thêm, hai
tay ông bưng lấy chén nước nóng, như để sưởi cho ấm. Mãi lâu, ông mới nói với Cao
Liên:

- Chúng ta còn ở
đây là chúng ta còn được yên thân. Hiền huynh lấy thanh gươm đem cho thợ đúc
nấu chảy ra thành một khối kim khí và chúng ta hãy quên vật ấy đi.

Cao Liên chưa
kịp làm theo lời ông Era, Đavít đã cúi xuống cầm thanh gươm lên:

- Dù vậy, tôi
cũng chọn thanh gươm này.

Ông Era run sợ,
nhưng bà Era nói với chồng:

- Cho con nó giữ
lấy thanh gươm để nó nhớ rằng do vật ấy dân tộc chúng ta đã bị tàn sát.

Ông Era đặt chén
nước xuống, gãi đầu gãi tai và lại thở dài:

- Naomy, đó là
điều nó nên quên đi! Vì sao con chúng ta lại băn khoăn lo sợ, trong khi không
một ai thù hiềm nó cả?

Đavít ngắt lời cha mà rằng:

- Thưa ba, con sẽ nhớ, nhớ suốt đời!

Chàng đứng thẳng, thanh gươm
trong tay, oai phong lẫm liệt.

Ngay trong lúc ấy, người ta nghe có tiếng chân ngoài cửa và Lịch bước vào.
Đavít thấy nàng mặc chiếc áo đỏ thắm viền vàng, mái tóc đen hất ra đàng sau,
môi hé mở và đôi mắt lộ vẻ xúc cảm.

Chàng kêu lên:

- Lịch!

Lịch, giọng trong trẻo dịu
dàng:

- Tôi đã nghe những điều bác
Cao Liên kể! Tôi biết tai ương đã xảy đến cho
dân tộc chúng ta. Nãy giờ tôi đứng sau bức rèm.

Bà Era nói:

- Ấy, dì cũng định đi gọi cho
con.

Lịch vẫn giọng dịu dàng:

- Tôi cảm thấy là cần phải đến.
Tôi cảm thấy… ở đây.

Nàng áp mạnh hai tay vào ngực, mắt đăm đắm
nhìn Đavít. Chàng cũng nhìn nàng, bồng bột, ngạc nhiên, hình như mới thấy nàng lần đầu tiên vậy. Nàng đứng trước chàng,
- một thiếu phụ…

Bà Era ngắm nhìn Đavít và Lịch.
Hai người cũng quay nhìn bà. Bà mỉm cười, dồn hết tâm trí vào đôi lứa thiếu niên. Ông Era lặng lẽ nhìn vợ, môi mím
chặt, và Cao Liên cũng mỉm cười nhưng có dáng
buồn bã.
Thím Hoàng cũng đang hé một nụ cười chua chát, không một điều gì lọt khỏi mắt
thím.

Nhưng Lịch chỉ thấy một mình Đavít. Chàng có vẻ oai hùng với thanh
gươm siết chặt trong tay. Đối với Lịch, chàng đẹp rực rỡ còn hơn cả sao
mai và khả ái hơn cả sự sống. Vẻ cường tráng
của chàng đáp lại vẻ kiều diễm của nàng, cùng một dòng máu chảy
trong huyết quản hai người, và nàng quên tất cả, ngoại
trừ chàng, người đang đứng đấy, nét mặt đầy yêu đương, đôi mắt nhìn nàng
đắm
đuối. Do dự, nhưng không thể dừng được, nàng bước tới phía chàng như hoa
quí bị thu hút bởi ánh dương.

Bà Era quay lại bảo nhỏ bọn tôi
tớ:

- Các người lui ra hết đi.

Bọn tôi tớ vội vàng theo lời
chủ. Thím Hoàng cũng rời chỗ đứng nãy giờ và hấp tấp ra khỏi phòng phía cửa
hông. Con chó xù đang ngủ trước ngưỡng cửa, thức giấc, chỏng tai nghe, gầm gừ
mấy tiếng rồi cũng đứng dậy đi chỗ khác.

Lịch mỉm cười với Đavít:

- Một Đavít khác! Thanh gươm của Gôliát trong
tay anh!

Bỗng nhiên, mắt nàng đầy ngấn
lệ. Nàng bước tới, cúi xuống, ôm hôn chiếc vỏ bạc của thanh gươm.
Đavít thấy nàng khom mình
trước mặt chàng, các lọn tóc nâu lòa xòa trên gáy.
Chung quanh đôi trẻ, hai ông bà Era và Cao Liên chăm chú nhìn.

Trong lúc ấy, Trang cũng không
bỏ sót một cử chỉ nào của Đavít và Lịch, nhưng không ai thấy nàng. Thím Hoàng sau khi rời khỏi khách đường đã chạy đến đấm
rầm rầm vào cửa phòng đóng kín của Trang và thét lên:

- Trang, con chết bầm!

Trang vội vã mở cửa, kinh hãi
vì giọng nói lạ lùng của thím Hoàng.

- Mau lên. Mày chạy mau đến
khách đường… làm như là mày không hiểu đầu đuôi gì cả… mày cứ cười to lên để chia rẽ hai người ra.

Không nói không rằng, Trang đâm
bổ đến khách đường. Nàng vén bức rèm liếc nhìn vào phòng. Nàng thấy Đavít cầm
thanh gươm trong tay và Lịch đang áp môi lên chiếc vỏ bạc. Nghi thức gì thế? Có
phải là lễ đính hôn theo lối Tây phương của họ không? Không, không, Trang không
thể cất tiếng, không thể cười được. Nàng không dám phá tan giờ phút ấy, mà nàng
không hiểu thấu ý nghĩa. Nàng buông rèm xuống, chạy trốn về phòng riêng, đôi
mắt hiền lành trở nên u sầu vì sợ hãi.

***

Báo cáo nội dung xấu