Tình sử Võ Tắc Thiên - Chương 11 - 12

Hồi 11

Nhà tiên đoán thời tiết

Tôi
còn nhớ khi tôi được năm tuổi thì cha tôi về Trường An kể cho cả gia đình nghe
tấn thảm kịch đã xảy ra cho Thái tử Hoằng tại Lạc Dương, và báo tin người đã
được phong làm Thái tử để thay thế. Được hưởng vinh dự lớn lao như vậy mà người
không tỏ ra vui vẻ chút nào.

Người
có nói một câu mà tôi còn nhớ mãi:

-
Nếu có thể, ta sẽ không bao giờ ăn cùng với Mẫu Hậu.


sao việc cha tôi được làm Thái tử cũng khiến bọn trẻ chúng tôi vui mừng và gia
đình tôi thay đổi nếp sống.

Trước
kia cha tôi làm trưởng quan tỉnh Cam Túc nhưng cả gia đình vẫn sống ở Trường An.
Nay người làm Thái tử, chúng tôi dọn vào sống trong cung.

Tôi
còn nhớ nguyên sách vở của người đã chiếm ba xe bò đầy. Hồi ấy người hai mươi
hai tuổi, và có ba con trai, tôi là út. Tôi được gặp ông bà nội mấy lần và được
nghe láng máng về cuộc lễ Phong Sơn và chuyện San San bị đầu độc, nhưng tôi
không nhớ mặt mũi ông nội tôi ra sao. Tôi chỉ biết từ sau chuyến đi Thái Sơn, ông
nội càng ngày càng suy yếu thường nằm liệt giường. Và đến cuối năm 675, ông nội
ngừng hẳn việc triều chính.

Chúng
tôi sống tại Trường An cách xa Lạc Dương nơi bà nội ở. Điều này làm cha tôi rất
hài lòng. Người thường vui vẻ nô đùa với chúng tôi, có ngày người rủ chúng tôi
đi đá banh, có ngày người dẫn cả bọn đi săn bắn. Người rất thích ngựa và chim
ưng. Người dạy tôi cách để chim ưng đậu trên tay, nhưng tôi không ưa chúng vì
cặp mắt chúng dữ tợn quá. Người rất mê những con ngựa cao lớn - cùng sở thích
với Cao Tôn và Thái Tôn, nhất là những con lấy giống từ Thiên Sơn (Turkestan). Mỗi
khi người cưỡi ngựa tôi thường đứng xem và phục lăn.

Cha
tôi là một người vui tươi, khỏe mạnh, một tay kiếm rất cừ và bắn cung cũng
không đến nỗi tệ. Người học rất giỏi, khi sáu bảy tuổi người đã nổi tiếng là
thuộc nhiều thơ và có thể đọc đọc bộ Thư Kinh, một bộ sử của Khổng Tử, viết
bằng cổ văn rất khó đọc.

Trong
thời gian ở Trường An người đã cùng một số học giả soạn ra bộ Chú Giải về Lịch
Sử đời Hậu Hàn.

Công
việc này đòi hỏi một công trình khảo cứu thấu đáo về cổ ngữ và các phát âm các
địa danh. Khi bộ sách hoàn tất, ông nội nhiệt liệt khen thưởng người vì người
chính là chủ biên của công trình vĩ đại đó.

Thái
tử Hiền là người thực tế và khôn ngoan hơn Thái tử Hoằng. Rút kinh nghiệm từ
cái chết không đúng lúc của Hoằng, chàng thường có khuynh hướng lánh xa Võ Hậu,
nhất là không bao giờ ăn cùng mâm với bà. Chàng thường ở Trường An và ít khi
qua Lạc Dương.


Hậu linh cảm thái độ khác lạ của chàng và trong lòng bà ngấm ngầm tức giận.


hiểu rằng trong tương lai phe ngoại thích-họ-Võ-của bà sẽ xuống dốc vì một tay
chàng.

Năm
679, Cao Tôn bị một trận đau nặng và Hiền được phong làm Phụ Chánh - người cộng
đồng nhiếp chánh với vua - chàng tránh tới mức tối đa việc viếng thăm cha mẹ, vì
tình nghĩa giữa chàng và Võ Hậu đã bị rạn nứt và chàng không muốn đi vào vết xe
đổ của Thái tử Hoằng.

Từ
ngày lên làm Phụ Chánh, Hiền rất chuyên chú với công việc triều chính vì chàng
biết vua cha có thể qua đời bất cứ lúc nào. Chàng đã ở vào tuổi hai mươi ba, không
còn ngây thơ ngu dại để kẻ khác có thể lợi dụng danh nghĩa chàng mà thao túng
triều đình. Ít lâu sau, Hiền nghe phong phanh trong cung có dư luận đồn rằng
chàng là con của bà Công tước, chị ruột Võ Hậu. Chắc hẳn Võ Hậu đã tung ra tin này
với một mục đích mờ ám. Hiền còn nhận được mấy lá thư của Võ Hậu trách chàng
thiếu bổn phận làm con. Hiền rất buồn về những chuyện này. Chàng lo lắng không
biết mẹ chàng đang âm mưu gì và số phận chàng sẽ ra sao? Có lẽ chàng sẽ phải tự
vệ bằng mọi cách.

Trong
khi đó, tại Đông đô, Võ Hậu thường đi lại với một đạo sĩ kiêm tướng số tên là
Minh Tôn Yên. Xưa nay Võ Hậu vẫn khoái đạo sĩ và thầy thuốc. Những kẻ xứng ý bà
đều được phép vào khuê phòng của bà.

Hơn
một năm nay Cao Tôn hoàn toàn nằm liệt giường nên bà không còn sợ Vua bắt quả
tang như trước kia nữa. Nhờ sự đi lại thân mật, tên đạo sĩ đã dò ra tâm sự của
bà.


đánh trúng tâm lí bà khi nói rằng tướng một của Thái tử Hiền rất xấu, cháu sẽ
không sống lâu và thiếu may mắn - điều này đúng vì nhiều thầy tướng khác cũng
nói vậy - gã viện cớ rằng chàng phạm vào mấy điều kị như anh hoa phát tiết ra
ngoài, mũi nhọn quá v.v... Trái lại Triết có nhiều nét giống Thái Tôn, và chàng
có nhiều phúc tướng nhất.

Những
lời bàn này lại càng chia rẽ tình mẫu tử giữa Võ Hậu và Hiền.

Hiền
rất ghét tướng số mê tín dị đoạn và rất khinh những người đàn bà nhẹ dạ tin
nhảm. Võ Hậu chẳng cần dấu những lời bàn của tên đạo sĩ, còn Hiền cũng không
dấu thái độ khinh miệt đối với y.

Mùa
đông năm 679-680, đạo sĩ Minh bị giết trên đường từ Lạc Dương đến Trường An. Hai
thành phố cách nhau hơn một trăm dặm và phải đi qua đèo Đồng Quan dẫn tới sông
Hoàng Hà. Cuộc ám sát xảy ra trến đường đèo và không bắt được thủ phạm. Có thể
Hiền đã nhúng tay vô vụ này, cũng có thể không, nhưng trừ khử một tên "bán
miệng ăn tiền" là một việc hợp lí.

Không
biết mối liên quan giữa Võ Hậu và tên đạo sĩ ra sao, chỉ biết rằng khi nghe tin
này, bà đã nổi giận lôi đình. Bà nghi ngay Hiền là thủ phạm và cho gọi chàng về
Lạc Dương.

Trong
khi Hiền ở Lạc Dương, Võ Hậu sai người khám xét tư dinh chàng tại Trường An và
tìm thấy ba trăm món vũ khí trong chuồng ngựa. Những vũ khí nãy có thể do Hiền
cất dấu để phòng khi cần đến, hoặc cũng có thể do người khác mang tới để vu cho
chàng. Thế là Hiền bị ghép tội phản nghịch, mặc dầu mọi người tự hỏi chàng có
thể làm phản với một dúm vũ khí như vậy không và phản ai, khi chính chàng là
Thái tử sắp lên ngôi?

Không
cần xét nguyên do, Hiền bị bắt quả tang tàng trữ vũ khí, cũng như Vương hậu
trước đây bị bắt vì chôn dấu một hình nhân bằng gỗ dưới gầm giường. Muốn chắc, Võ
Hậu mua chuộc một tên bộ hạ của Hiền và bảo hắn khai rằng chính Hiền đã giết
đạo sĩ Minh và mưu phản.

Các
đại thần được họp lại để xét xử hành động của Hiền và họ đã hùa theo Võ Hậu để
buộc tội chàng. Phản nghịch là tội tử hình.

Cao
Tôn rùng mình khi nghĩ đến số phận của hai người con trước - Trung và Hoằng - Ông
vội vã can thiệp để gỡ tội cho Hiền. Ông viện lẽ Hiền đã có công lớn khi làm
Phụ Chánh, không có lí do nào thúc đẩy chàng mưu phản. Vả lại một vị phụ Chánh
có thừa thẩm quyền giữ vũ khí trong nhà, và dù chàng có giết tên đạo sĩ đi nữa
thì đã sao? Dù sao, Vua cũng có quyền ân xá tối hậu, bác bỏ quyết định của các
Đại thần.

Thật
là phi lí khi một Thái tử đang nhiếp chánh phải đền mạng cho một tên đạo sĩ
quèn. Giả sử Võ Hậu không cố ý trừ khử Hiền vì thấy chàng có đủ khả năng tự lập
thì bà đã không cho lục soát tư dinh và buộc tội chàng.

Kết
quả Hiền không bị xử tử đúng như nguyện vọng của Võ Hậu, nhưng chàng bị truất
và cầm tù. Hoàng tử Triết lên thay.

Tôi
lên mười khi thảm họa xảy đến cho gia đình. Lúc đầu vì lo lắng quá, chúng tôi
không tìm ra nguyên nhân của vụ án, nhưng về sau chúng tôi đã hiểu. Chắc hẳn
cha tôi đã có lần đả kích bà nội về chuyện đi lại với tên đạo sĩ, khiến bà nội nổi
giận. Khi cha tôi bị bắt và bị đày đi xa - Tứ Xuyên - chúng tôi hoàn toàn mất
liên lạc với người. Người không bị giết ngay vì ông nội còn sống, và mãi đến
khi bà nội chết, người ta mới đem hài cốt đã mục nát của người về chôn cùng tổ
tiên.

Sau
khi cha tôi bị hại, ba đứa chúng tôi bị đem về Lạc Dương và bị giam lỏng nơi
hậu cung. Năm khi mười họa chúng tôi mới thấy mặt ông bà nội. Chúng tôi hay gặp
cô tôi là Công chúa Thái Bình hơn nữa vì không hiểu tại sao bà rất thích chúng
tôi. Hồi đó Công chúa mới mười lăm, mười sáu, và chưa lập gia đình. Một năm sau,
Công chúa lấy chồng và không còn tìm đến chúng tôi nữa. Chúng tôi ít khi gặp
Công chúa nhưng lại được nghe nhiều những chuyện lăng nhăng của Công chúa trong
cung.

Tháng
mười hai năm 683, ông nội mất.

Hai
tháng sau chúng tôi rất kinh ngạc khi thấy chú tôi là Hoàng tử Đán được sắc
phong làm Hoàng đế và được đưa vào nghỉ mát cùng chúng tôi tại hậu cung. Cả gia
quyến ông cũng bị quản thúc rất chặt chẽ.

Gần
đây, trong thời kì tôi viết tập truyện này, có một chuyện vừa ngộ nghĩnh vừa
chua chát xảy ra trong gia đình tôi: Nhờ mười tám năm bắt giữ trong cung, tôi
biến thành một nhà tiên đoán thời tiết. mọi người đều thán phục linh cảm của
tôi.

Năm
đó vào tháng tư, tiết trời nắng ráo, Vương tước đất Tề - em ruột của vua Minh Hoàng
hiện nay - tới thăm tôi. Trong khi đang nói chuyện, tôi bỗng cảm thấy trong
người khác lạ và tôi nói với ông: Trời sắp mưa.


nhiên Tề vương không tin vì lúc đó giữa mùa nắng, nhưng chỉ một tiếng đồng hồ
thì trời chuyển mưa, một trận mưa như thác đã đổ xuống và kéo dài mười mấy ngày
chưa dứt. Rồi một buổi chiều, khi đang ngồi ăn cơm, tôi lại nói với Tề Vương:
Mưa sắp tạnh.

Tề
Vương có vẻ vẫn chưa chưa tin, tôi nói tiếp:

-
Để rồi coi.

Sáng
hôm sau mưa tạnh, trời lại quang đãng như thường. Tề Vương lấy làm lạ, bèn kể
lại chuyện này cho Minh Hoàng nghe. Khi Vua hỏi tôi chuyện đó có thực không, tôi
trả lời:

-
Thực ra chẳng có gì kì diệu. Bởi còn nhỏ khi bị giữ trong cung điện tại Lạc
Dương, tôi được bọn họ Võ cho ăn đòn rất nhiều, chắc lúc đó Bệ Hạ còn nhỏ quá
nên không nhớ. Hiện nay những vết sẹo ngoài da đã lành, nhưng trong người tôi
còn hơi khác lạ. Khi trời xấu, tôi cảm thấy đau nhức khắp khớp xương; đến khi
trời trở lại bình thường tôi mới hết đau. Nhờ ơn bà nội ngày nay tôi có tài
tiên đoán thời tiết.

Vừa
nhắc tới bà nội, bầu không khi lập tức khẩn trương. Tôi biết là mình đã lỡ lời.

Hồi 12

Thật tuyệt diệu khi chồng
chết

Thật
tuyệt diệu khi chồng chết và sống đời tự do. Những ngày vui đã tới. Tuy đã sáu
mươi nhưng Võ Hậu còn phong độ lắm. Miệng bà còn nguyên và ăn ngon miệng hơn
bao giờ hết, người bà còn tràn trề nhựa sống. Tất cả đang chờ đợi bà ngự trị và
hưởng thụ. Dĩ nhiên Võ Hậu không quên chuyện tìm người kế vị Cao Tôn. Vấn đề là
có nên lập Triết, người con thứ ba, làm vua hay không? Như đã biết, Triết có
nhiều nét giống Thái Tôn hơn mấy người kia. Lúc này chàng đã được hai mươi lăm
tuổi.


Hậu đắn đo mải không biết nên lập chàng hay nên đảo chính ngay, để tự lên ngôi.
Bà đã chán công việc của một người phò tá, vợ vua hay mẹ vua cũng chưa thể đem
lại cho bà quyền uy tối thượng.

Quan
Trung Thư Xá Nhân họ Bạch rất ngạc nhiên khi thấy Võ Hậu chậm trễ trong việc
lập người kế nghiệp. Theo thông lệ khi vua chết, phải có người thay thế nội
trong một hai ngày. Ông bèn vào triều nhắc nhở Võ Hậu.

Sau
sáu ngày suy nghĩ kĩ càng và cảm thấy chưa nên làm mạnh, Võ Hậu đã nghe lời
quan Trung Thư để tỏ ra tôn trọng luật.

Triết
được phong làm vua sau khi Cao Tôn chết đã bảy ngày. Xem tình hình, vài người
tiên đoán sẽ có sóng gió trong triều. Nhưng không ai ngờ triều đình không gặp
sóng gió mà gặp một cơn lốc nhanh và mạnh khôn tả.

Chưa
đầy hai tháng sau - ngày 5/2/684 - Triết bị Võ Hậu truất ngôi và bỏ vô ngục, sau
đó bị biếm đi xa.

Dường
như giữa Triết và quan Trung Thư họ Bạch đã có một trận đấu khẫu kịch liệt. Triết
thì muốn lập cha vợ làm Thị Trung, một trong những chức vụ cao tột đỉnh trong
triều, còn quan Trung Thư cực lực phản đối. Viện cớ rằng cha vợ Triết chưa từng
giữ chức vụ quan trọng, thiếu kinh nghiệm để làm Thị Trung.

Cuối
cùng, Triết nói:

-
Khanh đừng quên ta là Vua. Ta có quyền nhường cả giang sơn cho nhạc phụ ta nếu
ta muốn.

Câu
nói trong lúc bốc đồng này là cơ hội tốt để Võ Hậu truất ngôi Triết. Chàng như
một con nai tơ gặp đồng cỏ xanh nhởn nhơ đùa rỡn, đâu biết rằng một mụ cọp đang
rình rập vồ mồi.

Viên
thị vệ trưởng được gọi vào cung để thực hiện một cuộc bố trí bí mật.

Sáng
ngày mồng năm tháng hai năm 684, khắp cung điện đều có lính tráng canh phòng
rất nghiêm mật. Triều thần không hiểu chuyện gì, vẫn vào chầu như thường lệ. Đến
giờ lâm trào, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy Võ Hậu xuất hiện, dẫn theo vị
Vua trẻ tuổi.

Triết
vừa định bước lên ngai thì quan Trung Thư cản chàng lại và rút trong tay áo ra
một tờ chiếu. Sau đó ông dõng dạc đọc cho mọi người nghe. Lúc đó quần thần mới
biết Võ Hậu giáng Triết xuống làm Lư Lăng Vương và giam chàng trong cung.

Một
tên đội trưởng thị vệ tiến đến bắt giữ chàng.

Quá
tức giận, chàng la lớn:

-
Buông ta ra! Ta có tội gì?


Hậu lạnh lùng:

-
Tội gì ư? Tội của mi là dám tính chuyện đem giang sơn đặt vào tay cha vợ.

Trong
lúc tức giận người ta có thể nói những câu thiếu suy nghĩ. Chàng cố gắng biện
hộ, nhưng dĩ nhiên vô ích.

Sau
năm mươi tư ngày làm Vua, chàng bị lính điệu đi một cách nhục nhã trước mặt
quần thần. Chàng vừa bàng hoàng vừa tức giận. Một vị Vua lại có thể bị đối xử
như vậy sao?

Triết
bị tạm thời giam giữ trong cung. Một tháng sau chàng được đưa ra Phong Châu. Cha
vợ chàng cùng gia quyến cũng bị đày xuống phía Nam.

Như
đã nói đoạn trước, chú tôi là Hoàng tử Đán được phong làm vua vào tháng hai năm
681 và được đưa vào hậu cung nghỉ mát cùng ba anh em tôi. Chúng tôi bị cấm bước
chân ra khỏi cung điện. Sống lâu ngày nơi hậu cung, chúng tôi tập được tánh nói
thầm đủ cho nhau nghe. Chúng tôi thường lấm lét như kẻ phạm tội, được bà tôi
ban cho được sống. Kể cả chú Đán, chúng tôi có thể bị giết hay được phép tự
treo cổ bất cứ lúc nào. Trông gương cha tôi và các bác tôi, chú Đán luôn luôn
tỏ ra ngoan ngoãn dễ bảo. Trong suốt mười lăm năm dài, tôi chẳng có dịp nào
nhìn thấy đường phố Lạc Dương. Các diễn biến trong triều, chúng tôi cũng chỉ
được nghe kể lại. Thỉnh thoảng có người đến cho chúng tôi biết sắp có cách mạng,
mới nghe thì rợn tóc gáy nhưng rồi cũng chẳng nước gì. Để tự vệ, chúng tôi
thường an phận nơi hậu cung và tự an ủi rằng tuy bị mấy đứa cháu của Võ Hậu
mắng chửi đánh đập, chúng tôi hay còn may mắn hơn nhiều người.

Một
ý tưởng cầu sinh chua chát đã khiến Hoàng tử Đán phải làm bộ vừa câm, vừa điếc,
vừa mù. Tuy chàng bị giữ trong cung nhưng lại ít nguy hiểm hơn là bị đày đi xa
như trường hợp của Hiền. Khi không được phong làm vua, chẳng ai tổ chức lễ đăng
quang. Võ Hậu chỉ sai một người cháu tên là Võ Thừa Tự đem chiếu chỉ đến đọc, sắc
phong chàng làm "Hoàng đế".

Ba
tháng đầu năm 684 là thời kì biến động nhiều nhất. Quần chúng chưa hết xúc động
về chuyện nọ, Võ Hậu đã dồn thêm chuyện kia. Trong một bài hịch, Lạc Tấn Vương
có nhắc tới chuyện này và kết tội Võ Hậu như sau: Mồ cha chưa khô, những người
con côi đã bị bạc đãi.

Thực
ra mộ của Cao Tôn chưa bắt đầu xây. Trong khi đó Hiền vẫn bị quản thúc tại Tứ
Xuyên và chàng đã xa gia đình hơn ba năm. Vì có tài chàng được Võ Hậu kiêng dè
nhất. Bà luôn luôn sợ rằng chàng có thể nổi loạn, hay đúng ra làm trọng tâm cho
các cuộc khởi nghĩa, hoặc tìm cách liên lạc với Triết. Bà quyết định hành động
trước để trừ hậu hoạn.

Ba
ngày sau khi phế Triết, hay nói cách khác hai tháng sau khi Cao Tôn chết, Võ
Hậu sai một tên đội trưởng thị vệ đi Tứ Xuyên để giữ an ninh và bảo vệ Hiền. Khi
đến nơi, tên này nhốt Hiền vào trong một buồng kín rồi buộc chàng tự treo cổ.

Trước
khi chết, chàng viết một bài ca nhan đề Bài Ca Của Cây Dưa Chuột, còn lưu
truyền đến ngày nay:

Cây
dưa chuột sống nơi lầu ngọc

Trái
đã già đem bọc hái chơi

Một
lần hái, cây còn tươi,

Hai
lần, cây héo còn vài lá xanh,

Ba
lần, cây yếu mong manh,

Bốn
lần, hết trái biến thành cây khô.

Hiển
nhiên bài ca ám chỉ cái chết của Trung, Hoằng, và sự tù đày của Triết, Đán.

Khi
tin Hiền tự sát về đến kinh đô, Võ Hậu tổ chức một lễ cầu siêu rất trọng thể và
ra lệnh cho cả nước để tang. Bà quy tất cả tội lỗi cho tên đội trưởng. Bà bảo
hắn đã lơ là trong nhiệm vụ nên Hiền mới tự sát được. Bà giáng chức và đỗi hắn
đi xa. Nhưng chỉ nửa năm sau, Võ Hậu cho gọi hắn về và cho phục chức cũ. Lúc đó
mọi người mới vỡ lẽ.

Giờ
đây quyền hành đã hoàn toàn nằm trong tay Võ Hậu. Bà tha hồ tác yêu tác quái để
thỏa mãn ý thích riêng tư. Những kẻ vô trách nhiệm không còn nghĩ đến cơ nghiệp
nhà Đường đều rất hoan nghênh chủ trương hưởng thụ tối đa của bà. Bà hành động
tham lam, vội vã như một tên ăn mày bỗng dưng trở thành triệu phú.


Hậu rất tin tưởng các lời chúc tụng và các từ ngữ nghe có vẻ linh thiêng. Khi
mọi người đều chúc sinh nhậtt vui vẻ thì chắc chắn buổi sinh nhật sẽ vui vẻ.


đổi tên Lạc Dương ra thành nơi ở của Thượng đế. Hiển nhiên bà không con khiêm
nhượng một cách giả tạo như trước nữa. Quốc kì cũng đổi thành màu vàng và đỏ
chói trông có vẻ hợm hỉnh khác thường.


Hậu còn xuống chiếu một lần nữa đổi tên các cơ cấu chính quyền để cho có vẻ văn
hoa hơn.

Sau
đây là tên mới của các cơ quan tối cao:

Văn
phòng Môn Hạ Tỉnh ở phía trái Chánh điện được gọi là Loan điện.

Văn
phòng Trung Thư Tỉnh ở bên phải Chánh điện được gọi là Phụng Lầu.

Thư
viện hoàng gia được gọi là Kỳ Lân điện và Văn phòng Nội các được gọi là Bắc Cực
điện.

Toàn
là tên những lầu các nơi tiên cảnh của bà Tây Vương Mẫu. Võ Hậu rập theo để
nâng địa vị mình gần với thần tiên hơn.

Tên
của sáu Bộ cũng thay đổi theo:

Bộ
Lại biến thành Bộ Thiên.

Bộ
Hộ biến thành Bộ Địa.

Bộ
Lễ, Binh, Hình, Công biến thành Bộ: Xuân, Hạ, Thu, Đông.


Hậu ngự lại trung tâm của vũ trụ như một nữ thần chúa của muôn loài. Võ Hậu có
vẻ đắc ý lắm. Bà đã thực sự làm Vua và cần phải có thê thiếp như ai. Vấn đề đặt
ra: thê thiếp của bà sẽ là đàn bà hay đàn ông?


hình chung đây là cơ hội để nhà sư điên được sủng ái và làm lũng đoạn triều
đình. Cuối cùng Võ Hậu đi đến chỗ nổi tiếng về mặt dâm đãng hơn là về mặt chính
trị, trái hẳn với điều bà mơ ước.

Nhà
sư điên, như đã nói ở đoạn đầu, tên là Hoài Nghĩa. Thực ra gã không phải là sư
mà cũng chẳng có cái tên đẹp đẽ như vậy.


nguyên là một tên mãi võ bán thuốc dạo trong hành Lạc Dương. Gã thường biểu
diễn sức mạnh và quyền cước để lôi cuốn đám dân ngu mua thuốc cao, thuốc tễ của
gã. Với thân hình cao lớn lực lưỡng, gã thích biểu diễn thân thể trần truồng
của mình và thường khoe khoang có tài làm cho đàn bà điên đảo.

Qua
sự giới thiệu của một tên thị nữ, gã được gặp Công chúa Tiền Kim, rồi tới Công
chúa Thái Bình. Sau khi biết rõ tài năng của gã, Công chúa Thái Bình ân cần
giới thiệu lại cho mẹ. Võ Hậu rất mừng rỡ, cho vời gã vào ngay. Gã tên thiệt là
Phong nhưng mọi người thường gọi là Bé Cưng, mặc dầu gã chẳng bé chút nào. Về
sau tên gã được đổi thành Hoài Nghĩa cho đỡ chướng.

Hai
mẹ con Võ Hậu cùng nhau hưởng thụ thú vui xác thịt với tên sư hổ mang, cũng như
họ từng cùng nhau mưu đồ những chuyện bất chính. Võ Hậu cảm thấy mình hoàn toàn
lệ thuộc vào tên mãi võ. Bà không sống nổi nếu thiếu gã. Bà thường phải làm ngơ
trước những hành động ngang ngược của gã. Tuy thiếu bản chất của một người mẹ, Võ
Hậu vẫn là một người đàn bà hoàn toàn mềm yếu trước gã đàn ông tầm thường. Bao
nhiều nghị lực chế ngự tình cảm, bao nhiêu cứng rắn nghiêm khắc trong lãnh vực
chính trị biến đâu mất hết, để nhường chỗ cho quỵ lụy đam mê.

Hay
cũng có thể Võ Hậu quan niệm ngược lại. Có lẽ bà cho rằng các truy hoan này là
một phần trong đời sống xa hoa của bậc đế vương. Theo óc tưởng tượng phong phú
của bà, các bậc thần tiên trên trời vẫn thường hưởng thụ các cuộc trác táng dâm
loạn khi chiến thắng. Thêm vào đó bà lại nghe theo lời dẫn dụ mê hoặc của nhà
sư điên và đi đến chỗ tin tưởng rằng tất cả quần chúng đều coi bà là hiện thân
của một vị Phật, bà cho xây điện Thiên Đường cao hơn một trăm thước ở phía sau
điện Thái Hòa cho tên mãi võ ở đó làm sư trưởng - như sẽ nói ở đoạn sau.

Trong
suốt thời gian tằng tịu với nhà sư, Võ Hậu luôn luôn bị ám ảnh bởi những tư
tưởng vừa thấp hèn nhuốm mùi xác thịt trần tục, vừa cao cả đượm màu siêu thoát
thiêng liêng. Những tư tưởng này giúp Võ Hậu tin tưởng và hứng khởi trong kế
hoạch chính trị của bà.


tin mình là đức Phật tái sinh xuống trần để phán xét người ngay kẻ gian - ai
tin ở bà là ngay, ai không tin là gian - Chính Võ Hậu cũng nhận ra rằng hình
ảnh của Phật đã giúp triều đại bà thành công.

Tự
tin ở uy thế đối với Võ Hậu, sư Hoài Nghĩa không cần thay đổi cách ăn mặc lôi
thôi của mình. Gã có vẻ nghênh ngang tự đắc và thường là mối đe dọa đối với dân
chúng tại kinh đô. Mỗi khi đi dạo trong thành, gã thường chễm chệ trên lưng
ngựa, có quân hầu đi mở đường. Vô phúc cho ai không tránh kịp, chắc chắn sẽ lãnh
vài ngọn roi sắt vào đầu. Có lần gã đánh một vị quan Biện lí ngay giữa phố vì
ông nãy từng buộc tội gã.

Trong
cung, gã được trọng đãi như một ông hoàng.


được dùng ngựa của hoàng gia và mỗi khi thấy gã đi qua các quan trong triều đều
cung kính cúi đầu. Để lấy lòng gã, hai người cháu của Võ Hậu là Thừa Tự và Tam
Tư thường bợ đỡ gã một cách hèn hạ, giữ ngựa để cho gã leo lên hay bước xuống.


một lần gã sư hổ mang vào hoàng cung bằng cửa Đoan Võ - dành riêng cho Vương
hầu và các Công thần - gã nghênh ngang đi qua chỗ làm việc của Môn Hạ Tỉnh.

Quan
Thị Trung họ Tô là một vị Quốc công tuổi cao đức trọng thấy thế bước ra, nhưng
gã vẫn tảng lờ như không thấy tiếp tục tiến vào.

Quan
Thị Trung tức giận nói lớn:

-
Sao mi dám vào đây, tên đầu trọc kia! Mi vào đây để làm gì?


sư trợn mắt nhìn ông, rồi bằng một điệu bộ rất hài hước gã khoa tay múa chơn và
thách thức:

-
Muốn chơi nhau chăng?

Giọng
gã sặc mùi dao búa của bọn lưu manh.

Nhưng
khôi hài hơn nữa, chiều hôm đó gã mang một bộ mặt sưng húp đi kiếm Võ Hậu để
mách, quan Thị Trung đã sai cận vệ tống cổ gã ra ngoài và một cuộc ấu đả đã xảy
ra. Sau khi chế ngự được gã, bọn cận vệ không quên tặng gã mấy chục bạt tai.

Nghe
chuyện này, Võ Hậu chỉ phá ra cười:

-
Sao ái khanh lại đi lối cửa đó? Lần sau ái khanh nhớ đi cửa phía Bắc.


Hậu rất khôn ngoan, không đả động tới quan Thị Trung họ Tô, vì bà sợ làm lớn
chuyện chỉ tổ mang tiếng thêm. Vì Võ Hậu không muốn Hoài Nghĩa bỏ bà trong cung
một mình, hơn nữa bà sợ gã ra ngoài nhiều sẽ làm lộ chuyện, bà giao cho hắn
công tác xây cất cung điện và trông nom vườn thượng uyển.

Đã
có lần Hoài Nghĩa khoe với Võ Hậu rằng gã rất giỏi về kiến trúc và có thể xây
cất nhà được, bà bèn bịa ra công việc để buộc chân gã trong cung.

Theo
tục lệ cổ truyền, chỉ đàn bà hay hoạn quan mới được ra vào nội cụng. Khi thấy Hoài
Nghĩa ra vào khu vực đàn bà, mọi người đều xầm xì bàn tán. Tuy gã là sư nhưng
chưa hoạn.

Một
pháp quan tên là Vương Châu thấy gai mắt bèn dâng sớ xin thiến Hoài Nghĩa, nếu
gã còn tiếp tục hiện diện tại nội cung, làm như vậy để bảo vệ tiết hạnh cho các
thị nữ và công nương trong cung.

Khi
xem sớ, Võ Hậu cười ngất và thầm nghĩ vị Pháp quan này quả có óc khôi hài.

Một
lần nữa Võ Hậu lại khôn ngoan ém nhẹm tờ sớ để mọi việc dần dần chìm vào quên
lãng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3