Tình sử Võ Tắc Thiên - Chương 09 - 10
Hồi 9
Những người kín miệng nhất
Từ ngày Cao Tôn mưu sự bất thành, tình trạng ông càng trở nên bi đát.
Chứng đau thần kinh hành hạ ông ghê gớm và dai dẳng hơn. Những cơn nhức đầu thường làm ông kiệt lực và khi tỉnh táo lại. Ông thẩn thờ, chán ngán. Ông thường cặm cụi nghịch những đồ dùng của thợ mộc như cưa đục, bào, v.v... Ông tự cưa những miếng gỗ bào, rồi đánh bóng, và có vẻ thích thú với công việc này lắm. Có lúc ông bày các thứ châu báu hay đồ cổ quý giá ra chơi với San San - con gái bà Công tước đã qua đời - cô này đã trở nên một thiếu nữ mười tám rất xinh đẹp.
Hiển nhiên ông không quan tâm gì đến việc triều chính, để mặc bà vợ lo.
Trong mười năm tiếp theo, sức khỏe ông trải qua mấy lần khủng hoảng. Ông thường bãi bỏ các buổi chầu sáng sớm, vì dù có lâm trào chưa chắc ông đã nghe thấy triều thần nói gì. Do đó, một thông lệ được đặt ra: Trong mỗi buổi chầu, Võ Hậu ngồi phía sau một bức mành giúp Vua đối đáp với quần thần. Dần dần các quan vào chầu quen chờ nghe tiếng đàn bà hơn là tiếng đàn ông.
Điều này không hay ho gì, nhưng Võ Hậu viện cớ phải giúp ông chồng bệnh hoạn, theo bà nghĩ, ông cũng muốn được giúp như vậy. Người ta thường gọi chế độ này là "Nhị Thánh lâm trào".
Bà Hoàng hậu hiếu động đã làm Vua mệt nhoài. Trong khi Cao Tôn chỉ thích thơ thẩn trong cung để cùng San San ngắm những con cá vàng hay những chậu thược dược thì Võ Hậu cứ bày trò bắt ông phải đi. Khi thì thăm cung điện mới ở Lạc Dương - tháng 3 năm 665 - khi thì đi dự lễ duyệt binh; và bà lại đang sắp sửa tổ chức một cuộc ngự giá vĩ đại ra tận Thiên Sơn, vừa đi vừa về phải mất sáu tháng. Cứ nghĩ đến quãng đường diệu vợi, phải ngồi trên xe la hơn một ngàn cây số, Vua đủ thấy sợ. Vua muốn thoái thác để ở nhà lắm mà không được. Đây là lễ Phong Sơn, Vua phải lên ngọn Núi Thánh để lễ trời. Chuyến đi vừa để hành hương vừa để kỉ niệm một triều đại lớn.
- Dĩ nhiên, Bệ Hạ phải đi.
- Nhưng Núi Thánh ở tận Sơn Đông, cách đây cả ngàn cây số làm sao trẫm đi nổi.
- Bệ Hạ đừng lo. Sẽ nghỉ nhiều lần ở dọc đường và có đủ tiện nghi cho Bệ Hạ.
- Phải rồi. Chúng ta sẽ đi diễu suối dọc đường cho thiên hạ ngó. À, khanh tổ chức lễ Phong Sơn để làm gì vậy?
- Để cảm tạ Thượng đế đã cho chúng ta thái bình và thịnh vượng. Ngày xưa Tiên đế cũng tổ chức lễ này, Bệ Hạ phải noi gương.
- Thái bình thịnh vượng gì. Vứt hết! Trẫm mang theo mấy con dế được không?
- Thôi đừng tầm xàm nữa.
- Trẫm nói thật mà. Khanh phải cắt mấy đứa trông dế cho trẫm. Có bao nhiêu người đi tất cả?
- Khoảng mấy trăm.
- Trời đất!
- Các thượng thư và các triều thần đều muốn được hân hạnh tháp tùng chúng ta trong cuộc ngự giá vĩ đại này. Nếu kể cả bọn người hầu, con số sẽ khoảng một ngàn, như thế mới tưng bừng. Cả triều đình đều đi rước hết!
- San San có đi theo không?
- Nó đi để làm gì?
- Vậy trẫm cũng không đi.
San San được phong làm nữ Công tước từ khi mẹ nàng mất. Nàng là một cô bé vui tươi quen sống trong nhung lụa, hay cười và còn ngây thơ trước những trò quỷ quái của đàn ông. Tính tình nàng mềm mỏng đến nỗi nàng đã khóc hu hu khi một con dế của nàng bị thua dế của Vua và bị cắn gảy mất một giò.
Cao Tôn cũng làm bộ ôm mặt khóc theo, rồi bất chợt hai người nhìn nhau cười xòa. Hai người vẫn tự hào là không ai hiểu được họ.
Cả mấy năm nay San San ở trong cung mà không ai nói cho nàng hay về những điều mờ ám trong cái chết của mẹ nàng. Thực ra không ai dám rước họa vào thân. Tuy chính mắt nàng đã chứng kiến mẹ nàng chết, nhưng nàng cũng chỉ tưởng đó là một tai nạn tự nhiên. Vả lại Võ Hậu, dì ruột nàng, vẫn thường nhấn mạnh rằng các thức ăn trong cung đều được kiểm soát cẩn thận trước khi đem ra, vậy bà Công tước chết vì số mạng, nàng lại càng không nghi ngờ gì.
Vẻ hồn nhiên của San San làm Cao Tôn thích thú. Một hôm hai người đi dạo chơi trong vườn, nàng đưa tay choàng qua người ông. Đối với nàng, Cao Tôn là một người dượng nên cử chỉ nàng hết sức tự nhiêu, nhưng Cao Tôn vội nói:
- Đừng làm như vậy!
San San rút tay về, ngạc nhiên nói:
- Sao thế?
Cao Tôn ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Coi chừng dì cháu trông thấy!
San San càng ngạc nhiên:
- Trông thấy thì sao? Cháu không hiểu.
Cao Tôn hỏi lại:
- Cháu không hiểu thật sao?
Ông nhìn thật nghiêm nghị vào mặt cô bé một lát, rồi bất giác ông thở dài, đưa mắt nhìn về phía xa:
- Ta đã giết mẹ cháu. Thật ra, ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của mẹ cháu. Vì ta quá thân mật với bà mà bà bị giết.
San San có vẻ bàng hoàng. Những chuyện này vượt xa bộ óc ngây thơ của nàng.
Ngừng một chút. Cao Tôn nói tiếp:
- Chuyện này rất bí mật. Mẹ cháu chết vì bị đầu độc. Dì cháu dám làm bất cứ việc gì, vì vậy mà ta bảo cháu phải coi chừng, đừng bao giờ để lộ cho dì cháu biết là ta rất mến cháu. Nếu có chuyện gì xảy ra chắc ta sẽ ân hận suốt đời.
Cao Tôn không nói những chi tiết bí mật, những nguyên nhân sâu xa của câu chuyện vì ông không muốn đầu độc bộ óc non nớt của nàng.
San San được theo Cao Tôn và Võ Hậu đi Thái Sơn.
Lễ Phong Sơn là một lễ lớn vào tháng tám, chỉ được tổ chức vào những dịp thật đặc biệt. Trước kia vua Thái Tôn tổ chức lễ này sau khi ông lên ngôi được mười một năm để kỉ niệm cuộc vãn hồi hòa bình và thống nhất xứ sở. Đến năm 641, ông định tổ chức lễ này lần thứ hai để mừng thành quả trong chiến dịch Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng vào tháng sáu năm đó, sao Chổi xuất hiện nên đã bị hủy bỏ.
Võ Hậu đã được theo Thái Tôn xem lễ một lần từ hồi còn nhỏ. Bà đã say mê, không phải vì ý nghĩa tôn giáo mà vì vẻ huy hoàng rực rỡ của nó.
Lễ Phong Sơn là một hành trình xa xôi, chậm chạp, làm tê liệt guồng máy chính quyền trong hàng năm trời và ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt các địa phương mà Vua ngự giá đi qua ít ra trong sáu tháng. Cuộc lễ lôi cuốn theo tất cả triều đình với hàng chục ngàn người, ngựa xe, trâu bò, các thị vệ của Vua cũng như các vương hầu.
Mỗi khi đoàn người dừng lại ở đâu là các quan địa phương lại bù đầu lo nơi ăn chốn ở cho Vua cùng các Vương, Công, Khanh, Tướng, và gia quyến họ. Vô phúc cho vị quan nào thiếu bổn phận chọc giận tới các ông đó!
Lệnh triệu lập các quan đã ban ra. Tất cả các Vương tước và Đại thần, trừ những người mắc việc quan binh trọng yếu, đều phải về tập trung tại Lạc Dương. Gần đến ngày khởi hành, ngoài đường luôn luôn tấp nập ngựa xe, lính tráng, vì ngoài gia đình của Triều thần còn có đủ mặt các Vương tước, Tù trưởng các bộ lạc và Sứ thần từ các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Vu Điền, Ấn Độ, Nhật Bản, Đại Hàn, Nam Cao Ly v.v... Mỗi vương tước và đám thuộc hạ hợp thành một đội riêng mang cờ xí, huy hiệu, tàn lọng, màu sắc phân biệt với các đội khác. Cả đoàn người dài bốn năm chục cây số di chuyển cùng một lúc đường xá chật ních những xe, ngựa, lạc đà.
Về ban đêm người ta có thể trông thấy những dãy lều tròn xung quanh các làng mạc và các khu đất rộng. Nói tóm lại, đất cát của ba tỉnh lớn bị đảo lộn dưới gót chân của đoàn người vĩ đại.
Tháng mười hai đoàn người tiến vào địa Phận tỉnh Sơn Đông và nghỉ lại Tế Châu Tế Nam mười ngày trước khi đi Thái Sơn.
Cuộc hành lễ được trù tính bắt đầu vào ngày mùng một Tết. Tất cả các quan lại có bổn phận sắp đặt chương trình đều phải tới chân núi từ mười ngày trước.
Ngày mồng một tháng giêng lễ rồi, ngày mồng hai Vua và một số người lên núi làm lễ đặt tên hiệu cho núi, và ngày mồng ba tất cả kéo xuống đồng bằng để làm lễ Đất. Vua và các người dự lễ phải tẩy uế và cữ sắc dục từ mấy ngày trước.
Môt điều đặc biệt và có vẻ khôi hài trong bữa lễ là sự có mặt của Võ Hậu. Theo lệ, đàn bà không được dự lễ, nhưng trước khi đi Võ Hậu đã nhấn mạnh với Vua là luật lệ này phải sửa đổi để bà tham dự. Vua biết làm như vậy là sai luật, là phạm vào điều cấm kị của tiền nhân, nhưng cũng chấp thuận, vì nếu không cuộc đi đã không thành.
Đoàn người đến Lạc Dương vào tháng tư. Vừa đi vừa về mất đúng sáu tháng.
Chuyện đáng nói nhất trong chuyến đi là chuyện về San San, cô gái ngây thơ con bá Công tước.
Không kể hai người anh cùng cha khác mẹ đã bị đày đi xa và chết vì tay bà. Võ Hậu còn có một số anh em họ và ba người chú.
Trong thời gian hành lễ tại Thái Sơn, hai người anh họ của bà là Vị Lương và Hoài Nguyên - một trong hai người làm Án Sát tại Sơn Đông - cũng tới dự.
Được gặp hai ông cậu, San San rất mừng rỡ, vui vẻ chuyện trò. Nàng không quên kể cho hai người nghe chuyện Võ Hậu mưu hại hai người anh cùng cha khác mẹ của bà và chuyện bà đã giết mẹ nàng bằng thuốc độc.
Không may, lúc ba người nói chuyện, có kẻ rình nghe và báo cáo lại cho Võ Hậu. Bà vẫn lặng lờ như không biết gì, ân cần mời hai người anh họ về kinh đô chơi.
Một ngày kia Vị Lương và Hoài Nguyên được mời tới cung dự yến. Theo lời dặn của Võ Hậu, hai người lựa vài món thật ngon đem đến để cùng ăn. Trong khi chờ đợi Cao Tôn, Võ Hậu bảo thị nữ mang mấy thứ mà hai người mới mang tới ra ăn thử.
San San cũng được chia phần, nhưng khi nàng vừa nuốt vào bụng được một chút thì ruột bỗng quặn đau, mặt nàng tái nhợt và lục phủ ngủ tạng như bị lửa đốt. Một lát sau máu từ mũi nàng trào ra. Mọi người sợ hãi, vội đưa nàng đi nằm. Có điều đáng chú ý là trừ nàng, những người khác đều không việc gì.
Khi Cao Tôn tới, ông la hoảng khi thấy cô bé đang lăn lộn, rên xiết. Chắc chắn cô phải chết. Cao Tôn nhớ trường hợp bà Công tước chết cũng y hệt như vậy.
Đêm hôm đó San San chết, Nàng ra đi giữa tuổi tươi đẹp nhất của người con gái.
Cao Tôn ruột gan tan nát. Lòng ông lại trải qua nhưng chua chát, đắng cay đối với một cô bé ngây thơ, vô tội, người ta lại có thể tàn ác như vậy sao?
Anh em Vị Lương cũng rất kinh hoảng.
Võ Hậu nước mắt như mưa, than:
- Trời ơi! Cháu tôi! Chị tôi mất đi để lại có mình nó, bây giờ trời cũng bắt nó đi nữa sao? Cũng tại hai tên sát nhân này!
Quay sang Cao Tôn, Võ Hậu tiếp:
- Thiếp biết chúng định tâm giết Bệ Hạ, nhưng không may San San ăn phải.
Thế là Vị Lương và Hoài Nguyên bi bắt quả tang giết người, có Võ Hậu làm chứng.
Hai người bị đem xử tử.
Cả ba người biết nhiều về chuyện Võ Hậu đã trở thành những người kín miệng nhất.
Hồi 10
Thành tích của bà nội
Cao
Tôn cảm thấy mình không khác một con chim bị nhốt trong lồng vàng, trong lồng
không còn con chim nào khác để ông bầu bạn. Các cơn đau hành hạ ông dữ dội và
bệnh tình càng trầm trọng hơn trước.
Tóc
ông đã bạc màu nhiều. Niềm an ủi của ông hiện giờ là Thái tử Hoằng, một vị Thái
tử có nhiều triển vọng thành công khi lên ngôi. Hoằng là một thanh niên trẻ
tuổi, hăng hái, luôn luôn giữ được phong cách của một Thái tử. Chàng là con
trai đầu lòng của Võ Hậu, dĩ nhiên chẳng ai dám mưu giết chàng.
Năm
673, Vua hoàn toàn suy yếu, Thái tử phải thay mặt Vua lo việc các bộ để Vua và
Hoàng Hậu về nghỉ tại Đông đô - Lạc Dương - Chỉ nhưng việc thật quan trọng, Thái
tử mới phải hỏi ý kiến Vua, hay nói đúng hơn, ý kiến Võ Hậu, vì Vua thường nằm
liệt giường.
Nói
tóm lại có ba giai đoạn trong thời kì Võ Tắc Thiên làm Hoàng hậu: Mười năm đầu,
việc lâm trào thường xuyên do Cao Tôn, thỉnh thoảng do Võ Hậu. Mười năm thứ nhì,
giai đoạn Nhị Thánh, hai người cùng lâm trào nghị sự. Và mười năm cuối cùng, giai
đoạn Thánh Hậu, Võ Hậu thường xuyên, còn Cao Tôn chỉ thỉnh thoảng.
Trong
giai đoạn thứ ba, từ năm 674 trở đi, Võ Hậu toàn quyền hành động.
Kỉ
nguyên mới bắt đầu với một chương lệnh chính trị nghe rất kêu. Tài lãnh đạo và
khả năng chính trị của bà được biểu hiện qua một lá thư viết cho Cao Tôn với tư
cách của một người vợ khiêm nhượng.
Lá
thư này gồm mười hai điểm nhằm cải tổ xã hội và chính phủ một cách rộng lớn:
1.
Phát triển nông nghiệp và nghề tầm tang, giảm bớt công việc cho giới lao động.
2.
Miễn thuế cho các tỉnh phía Tây Bắc.
3.
Vãn hồi đạo đức để chung sống hòa bình.
4.
Cấm xa hoa lãng phí.
5.
Giảm thiểu đến mức tối đa việc trưng tập binh lính.
6.
Tự do phát biểu ý kiến.
7.
Không chấp nhận những quan lại bất chính và những quan lại chỉ biết nghe lệnh
một cách mù quáng.
8.
Tất cả quan tước từ Vương, Công trở xuống phải học Đạo Đức Kinh của Lão Tử - cũng
họ Lý với các vua đời Đường.
9.
Thời gian để tang mẹ là ba năm dù cha còn sống - tượng trưng sự bình đẳng giữa
nam và nữ.
10.
Những quan lại về hưu vẫn được giữ nguyên tước hiệu và phẩm trật.
11.
Các quan tại kinh đô từ bát phẩm trở lên đều được tăng lương.
12.
Các quan thâm niên đều được cứu xét và thăng trật nếu có công.
Ba
điểm sau cùng giúp Võ Hậu được lòng nhiều người trong giới quan lại toàn quốc.
Nói
một cách tổng quát, hầu hết các chính trị gia có một cái nhìn bao quát đều có
thể nghĩ ra những cải tổ trên. Toàn quốc không có ai phản đối những cải tổ này,
nhất là điểm vãn hồi đạo đức để chung sống hòa bình.
Những
chuyện bực mình dường như luôn luôn đeo đuổi Cao Tôn.
Năm
675, lại thêm một biến cố trong gia đình làm cho ông mất hết sinh thú.
Thái
tử Hoằng là một người học thức, hơi lí tưởng và nhạy cảm giống vua cha. Từ thời
thơ ấu, chàng đã được rèn luyện để sau này làm người kế vị. Các học giả uyên
bác được mời vào cung để chỉ dẫn chàng tất cả các môn, kể cả làm quen với việc
triều chính.
Hiện
chàng đã hai mươi ba tuổi và đang được trao quyền dần dần. Trong hai năm 671 và
672, chàng đã giữ trọn quyền tại Trường An để vua cha dưỡng bệnh ở Lạc Dương. Chàng
đã cưới con gái của một vị học giả nên vị học giả này cùng các bạn của ông hết
lòng phò tá chàng. Mọi việc tiến triển tốt đẹp.
Trong
thời gian nghiên cứu nghệ thuật cai trị, Hoằng đã học được rất nhiều đức tính
của ông nội - Vua Thái Tôn - là lòng nhân ái và sự lo lắng cho dân.
Chàng
rất cảm thông đời sống cơ cực của đám binh lính, nhưng vì chưa lên ngôi nên
chàng chỉ có thể giúp họ bằng cách bãi bỏ chế độ bắt vợ con các lính đào ngũ
làm nô lệ, tuy chế độ nghiêm khắc này giúp quân đội của Thái Tôn rất hùng mạnh.
Theo
chàng biết có nhiều lính không đào ngũ mà lại bị ghép tội đào ngũ. Sau mỗi lần
đánh, luôn luôn có những kẻ thất lạc không về trình diện được vì những lí do
bất khả kháng. Ví dụ có người bơi qua sông bị chết đuối, có người bị đau ốm bất
ngờ hay bị quân thù bắt, v.v... Sẽ có sự lầm lẫn lớn nếu chỉ kiểm điểm xác chết
tại trận, còn những người mất tích đều coi là đào ngũ và đem vợ con họ ra trừng
trị.
Năm
672 - 673 trời hạn hán, nạn đói khủng khiếp xảy ra tại mấy tỉnh Tây Bắc Trung
Hoa, dân chúng chết vô số. Khi đi viếng thăm binh lính, Thái tử Hoằng thấy họ
chỉ ăn toàn vỏ và trái cây rừng, chàng bèn ra lệnh lấy gạo từ kho riêng ra phát
cho họ. Chàng còn xin phép Vua chia những đất công tại Đông Châu cho dân nghèo
để cày cấy.
Những
hành động trên đưa Thái tử Hoằng đến chỗ chống đối với Mẫu hậu.
Chàng
tán thành việc thi hành kỉ luật và công lí, nhưng chàng phản đối những hành vi
tàn ác, tư thù nhỏ nhen.
Một
hôm Hoằng đến Lạc Dương chơi và khám phá ra rằng hai người con gái của Triệu
phi là Nghi Dương và Cao An hiện sống cô độc nơi hậu cung. Họ đều đã luống tuổi
- trên dưới ba mươi - mà chưa hề tính chuyện chồng con. Thật ra họ bị giam lỏng,
không có cách gì lấy chồng được.
Thái
tử Hoằng tìm Võ Hậu và nói với bà:
-
Thưa mẹ, theo sách thánh hiền con gái lớn phải đi lấy chồng, sao con thấy hai
chị của con vẫn còn độc thân? Họ không thể làm hại triều đình được đâu, xin mẹ
hãy thu xếp cho họ.
Võ
Hậu không thể từ chối trước những lí lẽ hợp với công đạo này. Tuy nhiên, bà
nghĩ rằng đối xử với hai người như hiện thời đã là đặc biệt, dễ dãi rồi. Tất cả
thân quyến của Triệu phi đều bị gọi là bọn "kên kên" và đã bị đày đi
xa, nhưng bà để hai người con ruột của Triệu phi ở trong cung là để tránh tiếng
đồn đại ra ngoài. Bà trả lời với Hoằng là bà quên mất hai người và hứa sẽ cho
họ đi lấy chồng.
Sau
đó bà đem gả hai người cho hai tên thị vệ. Hành động này có vẻ bất nhân vì dù
sao họ cũng là con ruột của Cao Tôn.
Võ
Hậu làm những việc ngang trái nhưng không bao giờ bà muốn con bà đem những việc
đó ra phán đoán.
Một
tháng sau - tháng tư năm 672 - lại một chuyện nữa làm Thái tử giận điên người, và
vợ chàng cũng rất buồn.
Vợ
của Hoàng tử Triết là Đào phi một người đàn bà rất hiếu thuận. Mẹ của Đào phi
là Công chúa Trường Lạc hay ra vào nội cung và đã mấy lần Võ Hậu bắt gặp bà cặp
kè với Cao Tôn.
Võ
Hậu giận lắm nhưng không giết, chỉ đổi hai vợ chồng Công chúa đi xa và cấm lai
vãng về triều. Dĩ nhiên chuyện này không dính dáng tới Đào phi, nhưng Võ Hậu
cũng đem nàng nhốt vào một căn buồng và sai người ngày ngày đưa cơm cho nàng. Ít
lâu sau người ta phát giác nàng đã chết trong buồng vì đói.
Thái
tử Hoằng biết Võ Hậu đã ra lệnh bỏ đói nàng.
Hoàng
tử Triết cũng biết vậy, nhưng không dám đến thăm vợ hoặc có ý kiến gì. Triết im
lặng, nhưng Hoằng nhất định nói, và chàng đi tìm mẹ.
Khi
thấy chàng, Võ Hậu đã biết ý. Bà giữ vẻ mặt cực kì nghiêm nghị.
Trong
hoàng tộc, dù là mẹ con cũng phải giữ đủ lễ nghi. Thái tử đến trước mặt Hoàng
hậu, nói bằng một giọng dõng dạc, tự tin. Chàng không gọi mẹ xưng con mà dùng
tiếng: "Muôn tâu mẫu Hậu" rất trịnh trọng.
Chàng
nói:
-
Muôn tâu Mẫu Hậu, hài nhi trộm nghĩ Mẫu Hậu đã viết một cuốn sách tán dương
những người đàn bà đạo đức, vậy mà nay trong nhà mình lại có một người đàn bà
đạo đức bị bỏ chết đói thì thật đáng buồn.
Câu
nói như một tiếng sét lớn giáng xuống đầu Võ Hậu.
Bà
giận run. Gã con trai của bà dám nói với bà như vậy sao? Hắn muốn ám chỉ gì? Từ
khi bà đổi bố mẹ Đào thị đi xa. Đào thị dám tỏ vẻ bất mãn, mấy ngày liền không
thèm mở miệng nói năng. Như vậy không đáng tội sao? Một người con dâu "đạo
đức" là như vậy sao?
Bà
nghiến răng:
-
Thị vô lễ, ta trừng phạt thì không được hay sao? Còn thị muốn nhịn đói là quyền
của thị, sao lại đổ lỗi cho ta? Còn ngươi nữa, đừng quên bổn phận làm con, đừng
lên mặt dạy ta.
Thái
Tử vẫn bình tĩnh:
-
Tâu Mẫu Hậu, vậy mà hài nhi lại tưởng Mẫu Hậu muốn nghe những lời phân trần, cởi
mở. Nếu hài nhi không lầm thì tự do phát biểu ý kiến là một trong mười hai điều
mà Mẫu Hậu đã đưa ra để tránh bất công. Hài nhi vào đây chỉ muốn cản ngăn, giúp
đỡ Mẫu Hậu. Nếu hôm nọ hài nhi không nhắc nhở Mẫu Hậu thì chắc hai chị của hài
nhi sẽ thành gái già mất. Nhưng sao Mẫu Hậu không gả họ cho người tử tế mà lại
gả cho bọn thị vệ. Dù sao họ cũng là con của một vị Hoàng đế...
Võ
Hậu ngắt lời, giọng bà nghiêm nghị đầy vẻ hăm dọa, mắt bà nheo lại lạnh lùng:
-
Đủ rồi. Ngươi có thể lui.
Mười
tám ngày sau, Thái tử Hoằng chết trong một cuộc đi chơi cùng Vua cha và Hoàng
hậu. Chàng ăn phải một món ăn "khó tiêu" nào đó, dù chàng là người
con ruột đầu lòng của Võ Hậu!
Nếu
đem lòng người thường ra để đo lòng bà nội, người ta sẽ thất bại. Cha tôi Hoàng
tử Hiền - còn bị đối xử tàn tệ hơn thế nữa.
Tôi
thường nghĩ rằng các Hoàng tử trong thời nay đều là những quân cờ để bà nội
mang ra chơi. Vì không thiếu quân, bà sẵn sàng đem thí khi gặp nước. Đám con
cháu chỉ còn biết tự an ủi rằng khi sinh ra mỗi người một tính. Chẳng may bà
nội tính tình quả khác thường. Hay nói đúng hơn, độc nhất vô nhị thì con cháu
phải chịu vậy.
Sau
đây là tổng kết thành tích của bà nội:
Ông
nội Cao Tôn - có chín người còn trai, một người chết non. Bà nội giết năm người
- kể cả hai người con ruột, còn lại hai người bị bà giam cầm mười mấy năm trời,
đó là chưa kể đứa con gái sơ sinh mà bà bóp chết.
Thái
tử Hoằng chết làm mọi người náo loạn.
Ngay
tối hôm đó, Vua và Hoàng hậu trở về cung.
Cao
Tôn thương Hoằng hơn tất cả mọi thứ trên đời. Ông lảm nhảm tính những người bị
giết trong gia đình: Vương hậu, Triệu phi, bà Công tước, San San, Đào phi, Lý
Trung - người con cả - và bây giờ là Hoằng.
Suốt
đêm đó, Cao Tôn run rẩy bên xác con. Ông thực sự khóc nức nở vì thương.
Hôm
sau ông không chịu đi ăn cơm; khi mọi người ép vào phòng, ông cũng chỉ ngồi vào
bàn chứ không ăn. Trông ông thực tiều tụy, mắt ông đăm đăm nhìn Võ Hậu.
Thấy
vẻ khác lạ của ông, Võ Hậu nói:
-
Bệ hạ đừng buồn rầu thái quá. Nên ăn một chút cho khỏe.
Bất
thình lình Cao Tôn đứng vùng dậy, đưa tay gạt hết bát đỉa trên bàn xuống đất, người
ông run run, tóc xõa ra. Ông chỉ mặt Võ Hậu, giọng ông lạc hẳn đi vì xúc động:
-
Mi! Chính mi đã giết con ta!
Võ
Hậu tái mặt.
Cao
Tôn lầm bầm:
-
Ta với mi đến đây là hết. Mi không thể tha thứ cho bất cứ ai trên đời này trừ
mi. Tại sao mi lại bắt mẹ Đào thị phải đi xa để ta không được gặp bà? Tại sao
mi lại bỏ đói Đào thị?
Nói
đến đây, Cao Tôn bỗng sấn lại Võ Hậu:
-
Tại sao San San lại chết? Hãy nói cho ta biết mi đã làm gì nó? Mi giết nó vì nó
biết nhiều chuyện về mi quá phải không?
Mặt
Võ Hậu xanh lè trông gớm khiếp.
Cao
Tôn giơ tay định xô bà xuống đất thì ông bỗng cảm thấy bao nhiêu hơi sức biến
đâu mất hết, tay ông mềm nhủn, đã đưa lên nửa chừng lại bỏ thõng xuống, và Hoàng
tử Hiền chạy lại vừa kịp đỡ ông khỏi té xuống đất. Chàng dìu ông về phòng. Mắt
ông vẫn tóe lửa, hơi thở dồn dập.
Võ
Hậu bỏ ra ngoài và không trở lại thăm Cao Tôn.
Chưa
bao giờ trong cung lại xảy ra một chuyện như vậy.
Hoàng
tử Hiền ở lại săn sóc Cao Tôn.
Đêm
hôm đó ông thều thào nói với chàng:
-
Ta trao tất cả cho con đó. Ta không muốn làm vua nữa, ta muốn được yên. Sơn hà,
xã tắc mà làm gì... Hãy để cho ta yên.
Quan
thái y hết sức săn sóc Cao Tôn mà ông vẫn mê man. Suốt đêm ông cứ lẩm bẩm nhắc
đi nhắc lại mãi câu: Hãy để cho ta yên.
Ngày
hôm sau, Cao Tôn cho gọi một số triều thần vào và tỏ ý định nhường ngôi lại cho
Hiền, nhưng mọi người đều can ngăn, khuyên ông nên suy nghĩ kĩ.
Cao
Tôn nghĩ lại và đã đổi ý: Ông không nhường ngôi cho Hiền mà truy phong cho
Hoằng làm Hoàng đế và ra lệnh tổ chức đám tang theo đúng lễ nghi dành cho vua, tuy
nhiên thời gian cả nước để tang rút ngắn lại còn ba mươi sáu ngày. Ông ra lệnh
xây cho Thái tử một lăng mộ rất vĩ đại. Công việc xây thật khó nhọc, đến nỗi đã
có vài bọn nhân công nổi loạn ném đá vào các quan giám thị rồi bỏ chạy.
Một
năm sau, vợ của Hoằng cũng buồn rầu sinh bệnh mà chết.