Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 4) - Chương 27 - Phần 2
Tôi đứng dậy, dắt tay Thư Quý thái phi đi tới trước bậc thềm
đá, chẳng buồn phủi bụi, ngồi thẳng xuống. “Trước đây, hồi còn ở trong nhà, con
từng đọc bài Thu tịch của Đỗ Mục,
thấy nói rằng “đêm thu đèn rọi họa bình, đuổi xua đom đóm phong phanh quạt là,
cảnh trời đêm mát vẩn vơ, Khiên Ngưu Chức Nữ ngồi chờ xem chơi[42]”.
Bây giờ cảnh trời đêm mát vẩn vơ, tuy không có sự hoa lệ khi đêm thu đèn rọi
họa bình, cũng không có sự tao nhã khi đuổi xua đom đóm phong phanh quạt là,
nhưng cái tâm trạng Khiên Ngưu Chức Nữ ngồi chờ xem chơi thì thực không có chút
nào khác biệt.” Tôi tươi cười, nói: “Ngồi trên bậc thềm ngắm cảnh thế này, tầm
nhìn đúng là thoáng đãng hơn ngồi trên ghế đá nhiều.”
[42] Nguyên văn Hán Việt: Ngân chúc
thu quang lãnh họa bình, khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh, thiên giai dạ sắc
lương như thủy, tọa khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh. Dịch thơ Trần Trọng Kim. Bài
thơ này tả về sự cô đơn và buồn bã của người cung nữ bị thất sủng, cô ta không
ngủ được ngồi trên bậc thềm nhìn sao Khiên Ngưu và Chức Nữ, đấng quân vương
không đến nữa, chỉ có đom đóm bay quanh mà thôi - ND.
Tích Vân bật cười khúc khích. “Thái phi thấy nô tỳ nói đúng
chưa nào? Nương tử vốn không phải loại nữ tử thích làm bộ làm tịch, cũng là một
người tính tình sảng khoái.”
Thái phi mỉm cười, gật đầu. “Cũng phải, bằng không sao có thể
khiến ta vừa gặp đã thấy quen thân như thế được”, sau đó lại quay sang nói với
tôi: “Bài con vừa đọc hình như là thơ cung đình thì phải.”
Tôi gật đầu thưa: “Thái phi nói đúng lắm.”
Bà cau mày suy nghĩ một lát, khẽ nói: “Trước đây khi còn ở trong
cung, ta cũng thường nghe các cung nữ ngâm thơ cung đình như vậy, có một bài
đương kim Thái hậu hay ngâm nhất, thời gian qua lâu rồi, ta cũng không nhớ rõ
lắm, hình như có câu “ơn vua như nước chảy về đông, đắc sủng lo khi lúc lạnh
phòng[43]” thì phải. Nữ tử Bãi Di bọn ta chỉ biết hát dân ca,
không được học về thi từ, mấy thứ này mãi về sau vào cung rồi, ta mới dần được
biết.”
[43] Trích Cung từ, Lý Thương Ẩn,
dịch thơ Lê Quang Trường. Toàn bài: Ơn vua như nước chảy về đông, đắc sủng lo
khi lúc lạnh phòng. Giữa tiệc chớ đàn Hoa lạc khúc, mé tây điện luống nổi thu
phong. Nguyên văn Hán Việt: Quân ân như thủy hướng đông lưu, đắc sủng ưu di thất sủng
sầu. Mạc hướng tôn tiền tấu Hoa lạc, lương phong chích tại điện tây đầu - ND.
Tôi thầm kinh ngạc, không ngờ Thái hậu lại ngâm một bài thơ
như thế, nhất định là đã từng thương tâm vô cùng. Chắc hẳn từ sau khi Thư Quý
thái phi vào cung, bà ta rơi vào cảnh cô quạnh, trống vắng, do đó mới sinh lòng
tự thương bản thân mình.
Nụ cười dần ẩn đi, tôi cất lời cảm khái: “Ơn vua nước chảy về
đông, được yêu lo ngại mà không lại sầu. Phàm là nữ tử trong cung, chắc ai cũng
từng có nỗi thương cảm như vậy.”
Thái phi nở nụ cười rạng rỡ. “Ta thì chưa từng có tâm trạng
như vậy.” Thấy tôi có vẻ không tin lắm, bà liền nói: “Tuy lòng dạ của bậc đế
vương dễ đổi thay nhưng tiên đế đối xử với ta luôn trước sau như một.” Bà dừng
lại một chút rồi mới tiếp: “Tạm chưa xét tới việc ơn vua có như nước chảy về
đông hay không, cho dù thực sự có một ngày như thế, ta cũng sẽ không buồn bã
chút nào, vì trong lòng ta mãi chỉ có một mình tiên đế. Bất kể tiên đế có sủng
hạnh ta hay không, có còn yêu ta nữa không, trong lòng ta, ngài vẫn mãi là vị
thiên tử thiếu niên buổi đầu gặp gỡ. Mà tiên đế đối xử với ta cũng như vậy, do
đó ta mới có niềm tin sâu sắc vào câu tình cứng hơn vàng.”
Tôi thấy vẻ mặt bà như si như mê, trong lòng bỗng hoàn toàn
sáng tỏ.
Theo như lời đồn trong cung trước đây, Thư Quý thái phi được
tiên đế chuyên sủng, khắp hậu cung không ai sánh bằng. Ban đầu tôi cứ ngỡ đó
chỉ là thứ tình cảm bình thường giữa quân vương và phi tử, nhưng tới giờ mới
biết, thì ra Thư Quý thái phi và tiên đế đều có trái tim chân thành, coi nhau
như vợ chồng đích thực, vậy nên tình mới có thể cứng hơn vàng.
Nghĩ đến tình ý như vậy, tôi cảm động đến suýt rơi nước mắt,
liền hơi cúi đầu để che giấu ánh lệ, sau khi suy nghĩ một chút bèn tiếp lời của
Thái phi vừa rồi: “Câu thơ này hình như nằm trong bài Cung từ của Lý Nghĩa Sơn[44]. Câu kế tiếp là
“giữa tiệc chớ đàn Hoa lạc khúc, mé tây điện luống nổi thu phong”.”
[44] Tức Lý Thương Ẩn, Nghĩa Sơn là
tên tự - ND.
Trước đây khi còn ở trong cung, tôi đã từng được nghe người
ta hát khúc Hoa lạc, hình như người
hát là An Lăng Dung. Đó là một bữa tiệc nơi đại điện, ả ngồi bên cạnh Huyền
Lăng mà cất tiếng ca vang, nhưng đó rốt cuộc là bữa tiệc nào thì tôi thực sự
không nhớ nổi.
Mà cũng có thể không phải An Lăng Dung mà chính tôi ngồi
trong Đường Lê cung tự mình đàn khúc Hoa
lạc, hình như khi tôi gảy đàn, Huyền Lăng còn đang ngồi bên cạnh, mỉm cười
chăm chú nhìn tôi.
Hoa lạc còn có tên khác là Mai
hoa lạc, là khúc nhạc nổi tiếng trong Nhạc phủ, được rất nhiều người biết
đến. Trong thời đại thái bình thịnh trị như bây giờ, khúc nhạc ấy nhất định đã
từng được tấu không ít lần trước mặt kẻ đế vương.
Tôi buồn bã nghĩ lại, năm xưa khi xuân phong đắc ý tấu khúc Mai hoa lạc đó trước mặt kẻ đế vương, ai
mà ngờ được lại có ngày gió lạnh thổi tới, bản thân theo đó trở thành một trong
vô số bông hoa lụi tàn. Còn bây giờ, bông hoa đang xuân phong đắc ý, vẫn đậu
trên cành khoe sắc không phải ai khác mà chính là An Lăng Dung.
Ơn vua như dòng nước chảy dài bất định, khi đông khi tây,
việc đắc sủng, thất sủng của các phi tần cũng theo đó mà biến hóa, có lúc chỉ
trong khoảnh khắc mọi sự đã đổi thay. Hôm nay ơn vua như nước triều dâng, ngày
mai đã lại như hồ nước cạn; phi tử hôm nay còn đắc sủng, ngày mai lại thất sủng
ai hay; mà một khi thất sủng rồi, ơn vua sẽ chẳng bao giờ còn trở lại, nỗi sầu
thất sủng giống như dòng nước mùa xuân chảy mãi về đông. Do đó trong chốn cung
đình, bất kể là đắc sủng hay thất sủng, tương lai chờ đợi những kiếp hồng nhan
kia hầu như đều là một nỗi bất hạnh khôn cùng.
Còn tôi, tuy giờ phải ở nơi nhà tranh giậu trúc nhưng đã được
giải thoát.
Thái phi thấy tôi trầm ngâm, liền kéo tay tôi, nói: “Hoàn
Nhi, trước đây khi còn ở trong khuê các, con đón ngày Thất Tịch thế nào?”
Tôi cầm chùm nho trong tay, bóc từng quả, cười đáp: “Trước
đây khi còn ở trong nhà, nhũ mẫu thường hay kể chuyện cho con nghe, nhưng kỳ
thực vẫn là kể đi kể lại chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ gặp gỡ trên sông Ngân. Sau
đó dùng bữa tối, đợi khi trời tối hẳn thì cùng các tỷ muội thân thiết tụ hội.
Trước tiên, bọn con ăn bánh chẻo cầu may, những chiếc bánh chẻo ấy đã được gói
sẵn từ sáng sớm, trong đó có ba chiếc được nhét sẵn một đồng tiền, một cây kim
và một quả táo đỏ, ai ăn phải đồng tiền thì là có phúc, ăn phải cây kim thì sẽ
được khéo tay, còn ăn trúng quả táo thì sẽ thành hôn sớm. Kế đó bọn con lại
cúng Chức Nữ, đồ cúng đều là những loại hoa quả tươi đúng mùa, ví như bát sen,
ngó sen, ấu đỏ hay nho, tiếp đến thì thắp hương quỳ bái, thành tâm cầu khấn, hy
vọng sau này tìm được một vị lang quân như ý, đồng thời cũng xin Chức Nữ phù hộ
cho mình đầu óc thông minh, chân tay khéo léo, việc gì cũng được như ý nguyện.
Sau khi thắp hương xong, mấy cô gái bọn con lại cùng xâu kim dưới trăng để thi
xem ai khéo tay hơn, xin Chức Nữ ban phúc; hoặc cũng có lúc cầm chỉ màu đứng
dưới đèn xâu chỉ qua lỗ kim, ai có thể xâu liền một lúc qua bảy lỗ kim thì được
gọi là “Xảo thủ”, người nào không làm được thì bị gọi là “Thâu xảo”, còn bị mọi
người búng mũi nữa. Cũng có lúc bọn con đi bắt một con nhện bỏ vào trong hộp,
đến ngày thứ hai mở hộp ra, nếu nó đã nhả tơ chăng lưới thì gọi là “Đắc xảo”,
tức là đã được ban cho sự khéo léo.” Tôi cười hì hì, nói: “Có điều bắt nhện rất
khó, bọn con lại sợ bẩn, do đó rất ít khi làm việc này.”
Trước đây hồi còn chưa vào cung, mỗi năm tôi đều cùng My
Trang, Thái Nguyệt, Hoán Bích, Lưu Chu, Phân Nhi và mấy tỷ muội nhà khác cùng
nhau chơi những trò này, thường chưa tới tháng Sáu đã ngóng ngày Thất Tịch, hôm
nào cũng vạch ngón tay đếm ngày tính tháng. Tối hôm ấy chúng tôi có thể thoải
mái chơi đùa với nhau mà không sợ các nhũ mẫu thường ngày luôn nghiêm khắc bám
theo quản giáo hay răn dạy nữa.
Đúng rồi, trong ngày Thất Tịch, chúng tôi còn phải làm “quả
khéo tay”, người khéo nhất chính là Hoán Bích, muội ấy chỉ dùng những thứ dầu,
bột mì, đường, mật bình thường cũng có thể làm ra đủ loại quả xinh xắn đáng
yêu, vừa thơm vừa ngọt, ăn không ngấy chút nào.
Những quãng thời gian tươi đẹp ấy giờ đã trở thành quá khứ,
một đi không trở lại.
Còn có một điều tôi không kể, đó là năm xưa khi ở trong cung
đình, ngày Thất Tịch của tôi chẳng qua là bầu bạn bên cạnh kẻ đế vương, dự tiệc
và ca múa. Những ngày lễ như thế luôn ngợp trong tiếng đàn ca, lần nào cũng là
yến tiệc, xa hoa bất tận.
Nghĩ đến đây, lòng tôi bất giác có chút buồn bã, đồng thời
cũng nảy lòng thương cảm về chuyện ngày xưa.
Thư Quý thái phi chỉ tay qua phía Tích Vân mà cười, nói:
“Trước đây khi bọn ta còn ở Bãi Di, nữ tử Bãi Di thích nhất là ca hát và nhảy múa,
mà ngày Thất Tịch kỳ thực cũng là ngày nam nữ trong tộc hát đối và thể hiện
tình cảm với nhau. Bọn ta thường đốt những đống lửa lớn bên bờ sông, rồi hai
bên nam nữ đứng ở hai bên bờ hát đối tình ca. Nếu có cặp đôi nào vừa ý nhau,
người con trai sẽ bơi qua sông tới dắt tay người con gái rồi cả hai cùng nhảy
múa trước mặt mọi người trong tộc, tỏ ý rằng tình cảm của hai bên vô cùng sâu
đậm, vĩnh viễn chẳng đổi thay.”
Nam nữ Bãi Di xưa nay luôn sắt son chung thủy, dân phong lại
thuần phác, bất kể già trẻ gái trai đều thẳng thắn hào sảng, có thể không chút
kiêng dè theo đuổi người mà mình yêu, do đó mới thích dùng cách hát đối để tỏ
tình, hoàn toàn khác với sự bảo thủ của người Trung Nguyên, luôn phải nghe theo
sự sắp đặt của cha mẹ.
Tôi khẽ “ồ” một tiếng, tò mò hỏi: “Vậy lỡ như hôm đó trời mưa
thì sao, há chẳng phải sẽ không thể đốt lửa và hát đối được nữa?”
Thư Quý thái phi dường như vô cùng hoài niệm những tháng năm
xưa cũ đó. “Người Bãi Di gọi cơn mưa trong ngày Thất Tịch là “mưa tương tư”
hoặc “lệ tương tư”, vì mưa này là do Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau mà ra, do đó
coi là mưa lành. Nếu hôm đó trời đổ mưa lành, việc đốt lửa tất nhiên phải tạm
thời lùi lại đến hôm sau. Ngoài ra trong ngày Thất Tịch, chim hỉ thước thường
rất ít xuất hiện, người già trong tộc nói bọn chúng đều đã bay lên trời để bắc
cầu rồi.”
Tôi cảm thấy rất thú vị, bèn hỏi: “Người Bãi Di cũng có
truyền thuyết về việc chim hỉ thước bắc cầu cho Ngưu Lang, Chức Nữ sao?”
“Ban đầu vốn không có, nhưng về sau Bãi Di và Trung Nguyên
qua lại với nhau, thế là truyền thuyết này mới dần xuất hiện.” Thư Quý thái phi
dường như nhớ tới chuyện gì thú vị, liền cười vui vẻ, nói: “Đêm ấy có rất nhiều
thiếu nữ còn chưa tới tuổi để hát đối, đa phần bọn họ đều một mình lén nấp vào
trong giàn bí ngô rậm rạp nào đó, nghe đồn giữa đêm khuya tĩnh lặng, nếu có thể
nghe thấy lời chuyện trò của Ngưu Lang, Chức Nữ lúc gặp nhau, sau này lớn lên,
thiếu nữ đó sẽ nhận được một tình yêu son sắt thủy chung, có thể sống với nam
tử mà mình yêu tới lúc răng long đầu bạc.”
Tôi mím môi cười, nói: “Chuyện này thì đúng là có chút hoang
đường, ai mà nghe lén được cuộc chuyện trò của Ngưu Lang, Chức Nữ chứ? Khi ấy
Ngưu Lang, Chức Nữ đang đoàn tụ trên cầu Hỉ Thước, làm gì có thời gian mà tới
nhân gian.”
Thư Quý thái phi bật cười. “Đâu phải là Ngưu Lang, Chức Nữ
thật sự, chỉ là những cặp nam nữ đã hát đối thành công đang trốn vào chỗ kín để
trò chuyện với nhau mà thôi.”
Tôi nghe thấy thú vị, bất giác bật cười theo. Tích Vân lúc
này cũng dừng việc giặt quần áo lại, ghé tới góp vui: “Còn chưa hết đâu, hôm
mùng Bảy tháng Bảy đó bọn ta đều phải dậy sớm, vì người già trong tộc nói hôm
đó bảy nàng tiên sẽ hạ phàm tắm rửa, nếu uống được nước tắm của bọn họ thì có
thể tránh khỏi tà ma bệnh tật, tuổi thọ tăng lên. Thứ nước ấy được gọi là “Song
thất thủy”, vì có nhiều lợi ích như thế nên vào ngày này, khi con chim đực vừa
mới cất tiếng hót vang, mọi người liền tranh nhau đến bên bờ sông lấy nước, sau
đó mang về đựng vào vò, để dành sau này từ từ uống.”
Tích Vân quay sang nhìn Thư Quý thái phi, cười nói: “Hồi nhỏ,
Thái phi rất nghịch ngợm, sáng hôm ấy thường dậy sớm nhất, kéo ta đến bên bờ
sông lấy nước đầu tiên.”
Thư Quý thái phi khẽ mỉm cười. “Chuyện từ bao năm trước rồi,
không ngờ ngươi còn nhớ rõ như thế, bây giờ mới mang ra trêu ta.”
Tích Vân cất tiếng cười vang. “Hồi nhỏ là quãng thời gian vui
vẻ nhất, không có điều gì vướng bận. Về sau vào cung rồi, đâu còn được tự do tự
tại như vậy nữa.”
Thư Quý thái phi có chút ngẩn ngơ, thần sắc như vui vẻ mà lại
như buồn bã. Có điều, tất cả đều chỉ thoáng qua, tựa như chút sương mù buổi sớm
khi mặt trời còn chưa ló dạng, rồi bà trầm giọng nói: “Về sau, mỗi dịp Thất
Tịch, trong cung đều là tiên đế bầu bạn bên ta, hai người bọn ta thường ngồi
uống trà với nhau, thỉnh thoảng trò chuyện đôi câu. Cũng có lúc ta đàn Trường
tương tư, tiên đế thổi Trường tương thủ, hợp tấu một khúc nhạc, rồi hai bên
lặng lẽ nhìn nhau, cảm thấy vô cùng thư thái. Chỉ là... tiên đế đã qua đời, giờ
chỉ còn lại mình ta lê kiếp sống tàn giữa chốn nhân gian. Chẳng biết ở dưới
suối vàng, tiên đế có cảm thấy cô đơn, buồn bã vì không có ta bầu bạn cạnh bên
không nữa?”
Tôi biết Thư Quý thái phi đang thương tâm vì cái chết của
tiên đế, liền an ủi: “Nếu khi tiên đế qua đời, Thái phi lấy thân tuẫn tình,
tiên đế ở dưới suối vàng lại càng chẳng thể yên nghỉ. Tiên đế yêu Thái phi sâu
sắc như thế, tất nhiên hy vọng sau khi mình qua đời, Thái phi và Thanh có thể
tiếp tục sống thật tốt, thật vui vẻ, không bị vướng bận điều gì.”
Thư Quý thái phi ngước nhìn bầu trời tối mịt mà ngơ ngẩn, hồi
lâu sau mới thở ra một hơi dài, cất giọng thê lương: “Nếu không vì có nỗi khổ
bất đắc dĩ, chỉ e tấm thân tàn này của ta đã sớm đi theo tiên đế rồi.”
Tôi suy nghĩ một chút, đoạn nghiêm túc nói: “Thái phi đã có
nỗi khổ bất đắc dĩ, vậy xin hãy vì nỗi khổ bất đắc dĩ này, cũng là vì Thanh, mà
sống tiếp cho thật tốt. Hoàn Nhi biết, nếu không còn Thái phi ở bên, dù Thanh
có được cuộc sống yên vui, an nhàn thế nào, rốt cuộc vẫn sẽ cả đời day dứt.”
Thư Quý thái phi đột nhiên xoay người lại, chăm chú nhìn tôi,
sắc mặt dần trở nên hiền từ, dịu giọng nói: “Hoàn Nhi, Thanh có được con chính
là cái phúc lớn nhất của nó rồi.”
Trái tim tôi nhảy dựng lên, khuôn mặt nóng bừng, vội vàng
khom người hành lễ, cất giọng chân thành: “Có thể gặp được Thanh, ấy cũng là
cái phúc lớn nhất của Hoàn Nhi.”
Thư Quý thái phi vội đỡ tôi dậy, lại thở phào một hơi, trong
mắt tràn ngập nét trìu mến, hiền từ.
Tôi thấy trăng đã lên cao, thời gian không còn sớm nữa, bèn
đứng dậy cáo từ.
Vầng trăng tuy rất sáng nhưng các vì sao vẫn rạng rỡ vô cùng.
Có điều, nói cho cùng đây vẫn chỉ là trăng đầu tháng, không đủ để soi tỏ đường
đi, thế nên tôi vẫn phải xách theo một chiếc đèn lồng nhỏ, bước đi chậm rãi.
Ánh trăng phủ xuống như một làn khói sương trắng lóa, đường
núi gồ ghề, lại nhiều đá lớn nên tôi phải đi rất cẩn thận, thỉnh thoảng lại
nghe có tiếng con chim nào đó bay vút qua, giữa vùng núi non tịch mịch, âm
thanh ấy thực chói tai vô cùng.
Tuy tôi đã đi qua con đường này rất nhiều lần nhưng dù sao
cũng không dám sơ suất. Đang lúc tập trung tinh thần, chợt vang lên một tiếng
“bộp”, có bàn tay ai đó vỗ vào vai tôi. Bốn phía bóng núi trập trùng, những
tảng đá lớn nhìn như quái thú, trái tim tôi đập rộn lên, không kìm được thất
thanh kêu lớn: “Ai đó?”
Lọt vào mắt tôi là một đôi mắt ngợp nét cười, trông thật quen
thuộc và ấm áp xiết bao. Tôi dần bình tĩnh trở lại, vừa ngạc nhiên vừa vui
mừng, nhào thẳng vào lòng y, tò mò hỏi: “Sao huynh lại tới đây?”
A Tấn đứng bên cạnh cười hì hì, đáp thay: “Vốn trong cung mở
tiệc nhưng được nửa chừng thì Vương gia giả vờ uống say, thế là Hoàng thượng
mới vội sai người đưa ngài về phủ. Nào ngờ vừa mới vào phủ, thấy người trong
cung đã rời đi, Vương gia liền lập tức tỉnh rượu, vội vàng chạy tới nơi này.”
Thấy A Tấn cũng ở đây, tôi vội rời khỏi lòng Huyền Thanh,
chỉnh sửa lại quần áo. Lòng đang vô cùng hoan hỉ nhưng ngoài miệng tôi lại
trách: “Huynh điên rồi, ban đêm đường núi khó đi lắm đấy!”
Y bước lại gần, ghé tai tôi, khẽ nói: “Ta muốn gặp nàng mà.”
Hai má tôi đỏ bừng, vội ngoảnh đầu đi, phỉ phui một tiếng:
“Muốn gặp muội thì phải tới ngay hay sao, không tới thì có vấn đề gì chắc? Có
ai đang đợi huynh à?”
Y khẽ nhéo tai tôi, cười nói: “Tất nhiên là nàng không đợi ta
rồi... Đến nói dối cũng không biết, tai nóng hết cả lên rồi này.”
Tôi đang định biện bạch, chợt nhớ tới việc vừa rồi, liền đấm
nhẹ lên vai y. “Vừa rồi tại sao lại dọa muội như vậy? Làm muội sợ chết mất.”
Y cười hà hà, đáp: “Làm gì có ai đi đường mà tập trung tinh
thần quá thể như nàng, chỉ biết cắm cúi nhìn đường thôi, ngay cả việc ta đi
theo sau cũng không biết.”
Tôi không thèm để ý đến y, quay sang nói với A Tấn: “Ngươi
cũng chẳng ra gì, chỉ biết đi theo chủ nhân nhà ngươi mà làm bừa thôi.”
A Tấn cười hì hì, nói: “Nương tử đừng giận mà, hãy nể tình
Vương gia đêm hôm khuya khoắt mà còn tới đây đi.”
Tôi khẽ cười một tiếng, nói: “Có ai giận đâu nào.”
Tới lúc này, Huyền Thanh mới lên tiếng: “Nàng đi một mình, ta
không yên tâm, vì thế mới đi theo nàng.”
Tôi không kìm được hơi nhếch khóe môi, khẽ nói: “Tất nhiên
muội biết chứ!”, rồi lại hỏi: “Huynh còn phải tới An Tê quán đúng không? Mau đi
thỉnh an Thái phi trước đi!”
Y “ừm” một tiếng, giao chiếc đèn lồng trong tay cho A Tấn,
nói: “Ngươi hãy đích thân đưa nương tử về, ta đi thỉnh an Thái phi trước.” Y
chăm chú nhìn tôi, khuôn mặt ngợp nét vui mừng, khẽ nói: “Nàng đợi ta nhé!”
Tôi thẹn thùng cúi đầu, lí nhí đáp lời y: “Được!” Rồi y một
mình đi về hướng An Tê quán. Đợi sau khi y đã đi xa, tôi mới cùng A Tấn chậm
rãi quay về.