Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 3) - Chương 04 - Phần 1
Chương 4
Điệp hạnh[9]
[9] Tương truyền
Đường Huyền Tông thường cho các nữ tử trong chốn hậu cung của mình cài hoa
trước cửa, bản thân thì thả một con bướm ra rồi đi theo, con bướm đậu lại ở cửa
phòng ai thì ông ta sẽ vào nghỉ đêm ở chỗ đó, việc này được gọi là điệp hạnh -
ND.
Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử dốc hết sức lực mới bắt được hai
mươi mấy con bướm ít ỏi trong thời điểm mùa đông lạnh lẽo sắp đến này, đó đều
là những con bướm có màu sắc vô cùng bắt mắt, con thì hồng phấn, con thì tím
nhạt, con thì xanh biếc, con lại vàng cam. Tôi tất nhiên rất hài lòng, nói:
“Trời lạnh rồi, hai ngày tới phủ Nội vụ sẽ đưa sang đây số than cần dùng trong
mùa đông. Ngươi đi nói với Khương Trung Mẫn, tất cả những thứ tơ lụa vải vóc
chúng ta đều không cần, đổi hết thành than và chậu đựng than, bảo y đưa tới đây
thêm một ít hoa thủy tiên và hoa mai nữa.”
May mà dạo trước tôi đã đề bạt Khương Trung Mẫn ở phủ Nội vụ,
do đó tuy bây giờ hoàng ân bạc bẽo, chẳng được sủng ái nhưng không tới mức như
lúc mới vào cung, bị người ta cắt xén tiêu chuẩn đáng được nhận, đến nỗi nếu
không nhờ có My Trang tiếp tế thì e là phải dùng loại than đen nhiều khói hết
sức khó chịu. Khương Trung Mẫn cũng là loại người biết báo ơn, trong cung của
tôi cần thứ gì, chỉ cần y làm chủ được thì đều cho người đưa tới.
Tôi sai Tiểu Doãn Tử đi làm việc rồi lại dặn dò Cận Tịch:
“Oánh Tâm điện bây giờ đang bỏ trống, ngươi hãy mang chỗ bướm bắt được tới thả
hết vào những chiếc lồng lưu ly trong noãn các mà nuôi, nhớ phải sử dụng nhiều
than cho noãn các một chút, nhất định phải khiến nơi đó ấm áp như mùa xuân. Mỗi
ngày ba lần ngươi nhớ tự mình đưa hoa tươi vào trong noãn các cho lũ bướm ăn
phấn hoa.” Dặn dò xong xuôi, tôi lại bổ sung một câu: “Ngươi nhất định phải tự
mình làm đấy, để người khác làm, ta không yên tâm.”
Cận Tịch thấy tôi tỏ ra nghiêm túc như thế, lại được tôi giao
cho nhiệm vụ quan trọng, tuy không hiểu rõ dụng ý của tôi nhưng nhất định sẽ
dốc sức tận tâm chăm sóc lũ bướm kia.
Có một hôm My Trang đến chơi, thấy tôi đang hào hứng sai
người may áo mới cho mình, trên khuôn mặt không kìm được lộ ra nét tươi cười.
Bởi từ sau cơn bệnh lần trước, tôi chẳng còn tâm trạng động tới son phấn nữa,
cả ngày đều để mặt mộc không trang điểm, tất cả những thứ quần áo màu mè và đồ
trang sức châu ngọc đều được bỏ hết vào trong tủ. Dù gì cũng không còn người
nào ngắm nhìn để tôi phải cất công trang điểm, tôi ăn mặc như vậy coi như là để
tang cho đứa bé đã qua đời khi còn ở trong bụng mình, tỏ chút lòng thành của
một người làm mẹ. My Trang mỉm cười, cất giọng thăm dò: “Có phải đã suy nghĩ
thông suốt rồi không?”
Tôi cầm miếng gấm Vân Nhạn màu lục nhạt ướm thử lên người,
khẽ mỉm cười, nói: “Đa tạ tỷ tỷ dạy dỗ, muội của hôm nay đã khác hẳn khi xưa
rồi!” Hai mắt My Trang sáng rực nhìn tôi, cười tủm tỉm. “Nếu đã có lòng này,
vậy việc không thể chậm trễ được nữa.”
Tôi xắn tay áo lên, đích thân cầm kéo cắt phần lưng áo cho
chiếc áo mới của mình, cúi đầu, nói: “Tỷ tỷ đừng nôn nóng, thời gian còn dài
mà.”
Tôi không hề rảnh rỗi, soi mình vào trong gương, tôi phát
hiện sự u uất và cơn đau bệnh bấy lâu khiến tôi gầy rộc đi, như biến hẳn thành
một con người khác. Khi thay quần áo trước lúc lên giường đi ngủ, tôi ngước mắt
nhìn thấy xương quai xanh của mình trong gương. Tôi gần như có chút kinh hãi,
trong lòng tràn đầy cảm giác khó tin, lại đưa tay phải lên, chiếc vòng bạc cơ
hồ có thể tuột xuống tận khuỷu tay rồi. Trước đây, chiếc vòng bạc này rất nhỏ
nhắn và hợp với tôi, độ vài tháng trước, khe hở giữa nó và cổ tay tôi chỉ đủ để
nhét một chiếc khăn tay, vậy mà bây giờ lại biến thành thế này. Đã rất lâu rồi
tôi không để ý tới bản thân, không ngờ mình lại gầy đến mức này, tựa như một
bông hoa đầu cành đang run rẩy giữa làn gió thu, xơ xác thân cò. Tuy đã gầy đi,
vẻ mặt cũng tiều tụy nhưng làn da tôi lại thấp thoáng ánh lên màu xanh ngọc, có
chút trong suốt, chỉ là không được mịn màng bóng loáng như ngọc, tựa như bị phủ
lên một lớp bụi. Cằm tôi càng trở nên nhọn hơn, đôi mắt trong veo đầy thần thái
ngày xưa nay dường như chỉ còn lại chút tro tàn sau khi rực cháy, mất hẳn vẻ
thông minh, lanh lợi. Tôi của bây giờ dù có bằng lòng xuất hiện trước mặt Huyền
Lăng chẳng qua cũng chỉ nhận được một chút thương hại của y, mà gặp nhiều rồi
thậm chí sẽ còn khiến y chán ghét, cho nên quyết không thể nôn nóng được.
Tôi tìm lại phương thuốc làm đẹp mà khi tôi mang thai, Ôn
Thực Sơ đã đưa cho tôi, sau đó liền tới Thái y viện lựa chọn loại ích mẫu thảo
to và lớn nhất, được hái vào đúng dịp Đoan Ngọ, hơn nữa bên trên còn phải sạch
sẽ không được dính bùn đất. Sau khi phơi nắng cho khô hẳn, Ôn Thực Sơ đích thân
mài chúng thành bột và sàng lọc kĩ càng, lại cho thêm một lượng nước và bột mì
vừa phải, nặn thành từng viên rồi phơi khô. Sau đó, y lại chọn dùng một loại lò
được làm bằng đất sét có ba tầng, tầng dưới cùng trải than, tầng giữa để những
viên thuốc đã được phơi khô, tầng trên cùng lại trải thêm một lớp than nữa, kế
đó thì châm lửa. Sau khi giữ cho ngọn lửa thật lớn trong gần nửa canh giờ, y
liền đổi sang dùng lửa nhỏ liu riu, sau chừng một ngày một đêm thì lấy những
viên thuốc đó ra để cho chúng nguội hẳn, mà chỉ có những viên thuốc thật trắng
và mịn mới được coi là thượng phẩm. Sau đó, những viên thuốc lại được bỏ vào
bát sứ, dùng chày ngọc giã thành bột, sau khi sàng lại giã tiếp, làm cho nó
càng mịn càng tốt, cuối cùng thì đựng vào một loại bình sứ thượng hạng, lúc nào
cần sẽ lấy ra dùng.
Quá trình chế tạo loại thuốc này vô cùng phức tạp, chỉ cần có
một chút sơ suất là thuốc sẽ mất đi hiệu lực. Ích mẫu thảo nhất định phải chọn
loại được hái vào tết Đoan Ngọ, mà phải là còn nguyên cây, không được dính chút
bùn đất nào, nếu không sẽ hoàn toàn không có hiệu quả; khi đun cũng phải chú ý
không được để cho sức lửa quá mạnh, bằng không viên thuốc sẽ biến thành màu
vàng hoặc thậm chí là màu đen, gần như không có công hiệu gì; quá trình giã
cũng không thể sơ suất, tốt nhất là dùng chày ngọc, kế đến là chày sừng hươu,
vì ngọc và sừng hươu đều có công hiệu bảo vệ làn da, loại bỏ nếp nhăn và sẹo,
trong quá trình giã có thể hòa vào thuốc một cách tự nhiên, vừa hay có tác dụng
phụ trợ. Mà loại thuốc này sau khi được mài thành bột mịn, cứ mỗi sáu mươi tiền
lại phải cho thêm sáu tiền hoạt thạch, sáu tiền son phấn rồi trộn đều, sáng tối
mỗi ngày dùng một lượng vừa phải để lau rửa mặt và hai tay, giúp điều trị da
sạm, xóa nếp nhăn và vết nứt nẻ, khiến làn da láng mịn như ngọc. Sau khi điều
chế thuốc xong, nhìn thấy gương mặt tươi tắn của tôi, Ôn Thực Sơ khá tự đắc
nói: “Tương truyền phương thuốc này là do Nữ hoàng Võ Tắc Thiên thời Đường sáng
tạo ra, có tên Thần Tiên Ngọc Nữ phấn, Nữ hoàng nhờ có nó mà khi tám mươi tuổi
nhìn vẫn chỉ như mười tám, đôi mươi.”
Lời này nghe có vẻ hơi khoa trương, hơn nữa việc từng được Nữ
hoàng Võ Tắc Thiên sử dụng cũng chỉ là truyền thuyết, nhưng quả thực sau khi
dùng, khuôn mặt tôi đã trắng mịn hơn rất nhiều.
Có một lần My Trang đến thăm tôi, vừa khéo nhìn thấy Ôn Thực
Sơ đang dốc lòng dốc sức chế thuốc cho tôi, bèn ngồi xuống một bên, lặng lẽ
quan sát. Tôi nói với tỷ ấy: “Thứ Thần Tiên Ngọc Nữ phấn này rất hiệu nghiệm,
muội đang định sai người mang tặng tỷ tỷ một ít.”
My Trang có vẻ dửng dưng, dường như đêm qua ngủ không được
ngon lắm. “Không cần đâu. Vật này sẽ giúp ích rất nhiều cho tương lai của muội,
còn ta có vẻ đẹp tự nhiên, không cần trang điểm gì thêm.” Tỷ ấy đột nhiên tươi
cười rạng rỡ, nói: “Huống chi, ta có trang điểm đẹp đẽ thì cũng để ai xem đây?”
Lời của My Trang hơi giống với vẻ giận dỗi ai đó, tính cách
của tỷ ấy càng ngày càng trở nên cổ quái, có lúc tôi không hiểu nổi tỷ ấy đang
nghĩ gì, mà tỷ ấy cũng không chịu nói với tôi. Có lần tôi tình cờ tới cung của
tỷ ấy, nhìn thấy tỷ ấy đang nằm ngủ, mơ gì đó mà đôi hàng mày nhíu chặt, trên
má còn vương đầy nước mắt.
Không biết tại sao, tôi lại ghi nhớ câu nói đó vào lòng. Nụ
cười của tỷ ấy thật rạng rỡ biết bao, nhưng giọng nói lại tràn đầy nỗi buồn
thương, thất vọng, như là tự hỏi, lại như là hỏi tôi: “Huống chi, ta có trang
điểm đẹp đẽ thì cũng để ai xem đây?”
Cận Tịch lấy bột trân châu hòa với hoa ngọc trâm, hấp chín
rồi lại trộn với nước sương để đắp mặt cho tôi. Tôi đột nhiên nhớ tới câu nói
đó của My Trang, tâm trạng bỗng trở nên phiền muộn. Tự đáy lòng tôi hiểu rằng
Huyền Lăng không phải là “người trong mộng” của tôi, mà “nữ tử làm đẹp vì người
mình yêu”, y đã lạnh lùng, tuyệt tình như vậy, lẽ nào còn là vì “người tôi yêu”
nữa? Tôi phí công phí sức trang điểm cho mình thêm đẹp thì có ý nghĩa gì?
Huống chi, biết rõ thứ y xem trọng là sắc đẹp bên ngoài nên
tôi chỉ có thể dùng sắp đẹp để thu hút y mà thôi, thật là thê lương biết chừng
nào!
Trong lúc tâm tư tôi đang thổn thức, bên ngoài chợt vang lên
tiếng bước chân dồn dập. Tôi đưa mắt nhìn Tiểu Doãn Tử, hắn lập tức hiểu ý,
chạy ra ngoài một lúc rồi quay về bẩm báo: “Ôi, nô tài còn tưởng là có chuyện
gì quan trọng... Thì ra mấy ngày trước, An Tiểu viện nói là nhớ tới việc theo
di nương trồng dâu nuôi tằm hồi nhỏ, Hoàng thượng bèn sai người xuống miền Nam
lấy lá dâu tươi về cho Tiểu viện tiểu chủ, nghe nói do dùng khoái mã đi suốt
ngày đêm nên khi về đến nơi, lá dâu còn chưa khô cơ đấy!”
Lưu Chu mau miệng nói chen vào: “Hoàng thượng bây giờ sủng ái
An Tiểu viện quá đi!”
Hoán Bích hơi cau mày, thoáng liếc nhìn qua phía tôi rồi thấp
giọng nói: “Tình hình bây giờ bỗng khiến nô tỳ nhớ tới câu chuyện Đường Minh
Hoàng sai người mang vải về cho Dương Quý Phi.”
Tôi mỉm cười lơ đễnh, chẳng buồn để tâm xem Huyền Lăng sủng
ái Lăng Dung thế nào, cứ nghĩ mãi về mấy câu thơ trong Kinh Thi: Thuở chưa rụng cây dâu lả lướt, lá trên cành
trơn mướt mỹ miều. Cưu ơi ta bảo mấy điều, trái dâu chớ có ăn nhiều mà say. Gái
kia hỡi nghe đây ta dặn, chớ mê trai lòng nặng tình duyên. Trai mà mê gái đảo
điên, cũng còn giải thoát cho yên mọi bề. Gái theo trai lòng mê đắm đuối, không
thể nào còn lối thoát đâu[10].
[10] Trích Kinh Thi - Quốc phong - Vệ phong - Manh, dịch thơ:
Tạ Quang Phát. Phiên âm Hán Việt: Tang chi vị lạc, kỳ diệp ốc nhược. Vu ta cưu
hề, vô thực tang thậm. Vu ta nữ hề, vô dữ sĩ đam. Sĩ chi đam hề, vưu khả thuyết
dã. Nữ chi đam hề, bất khả thuyết dã - ND.
Tôi khẽ thở dài một tiếng, lời của tiền nhân thì ra cũng có nguồn
gốc từ những cơn cảm khái như thế, phải là một kinh nghiệm đau thương đến
nhường nào mới có thể khiến nữ tử ấy nói ra câu “chớ mê trai lòng nặng tình
duyên” kia đây? Tình yêu của một nam tử bình dân mà còn chẳng thể dựa vào,
huống chi là kẻ quân vương. Tôi bật cười ngơ ngẩn, những chuyện quá khứ kia chỉ
là một chút ngây thơ đến khờ dại của tôi mà thôi! Tất cả đều đã kết thúc rồi!
Thế là tôi lại tiếp tục phấn chấn tinh thần, bảo nhà bếp hầm
một nồi gà ác với táo đỏ để bồi bổ thân thể.
May mà tôi còn trẻ, lại mang lòng quyết chí tự cường, do đó
thân thể hồi phục rất nhanh. Có điều, đến khi dung mạo tôi trở lại như xưa thì
cũng đã là tiết lập đông rồi.
Nghe nói mấy ngày trước, Mộ Dung Phi đã lại một lần nữa dâng
biểu thỉnh tội, ngôn từ khẩn thiết, Huyền Lăng xem xong thì khá chấn động, có
điều tạm thời chưa tỏ ý kiến gì. Tôi thầm lo lắng, quyền thế của Nhữ Nam Vương
dường như có dấu hiệu phục hồi trở lại, nếu cứ tiếp tục thế này, chưa biết
chừng Mộ Dung Thế Lan sẽ có ngày được trở về bên kẻ quân vương, như thế thì
thực không hay chút nào.
Tôi ngẩng đầu nhìn sắc trời u ám bên ngoài, hít một hơi thật
sâu, cố gắng kìm nén trái tim đang hoảng loạn của mình. Mọi việc đều đã đầy đủ,
chỉ thiếu một trận tuyết lớn mà thôi.
Đưa mắt liếc xéo qua bên cạnh, tôi nhìn thấy bên trong chiếc
gương đồng u ám mà lạnh lẽo kia, trong đôi mắt long lanh như nước của tôi đã
xuất hiện một tia sắc bén trước giờ chưa từng có.
Ngày ấy rất nhanh đã tới. Đó là ngày Mười hai tháng Mười hai,
tuyết lớn vừa dừng. Suốt ba ngày ba đêm trời đổ tuyết lớn, khắp hoàng cung ngập
tràn trong một màu trắng thuần khiết, mênh mang. Huyền Lăng và các phi tần đang
uống rượu ngắm tuyết trong Thượng Lâm uyển, tôi sớm đã lấy cớ thân thể không
khỏe để không phải đi.
Chiếc áo mới của tôi được may bằng gấm Vân Nhạn, mang màu lục
nhạt cực kỳ thanh tao và lạnh lẽo, như được nhuộm bằng nước sương. Tôi cố ý
chọn thứ màu này, lại may vừa người theo kiểu dáng đơn giản nhất, làm tôn lên
vóc người gầy guộc của tôi bây giờ. Trên chiếc áo ấy có thêu hoa mai và hoa
thủy tiên, hai loại hoa cánh trắng nhụy vàng, kích thước và màu sắc đều giống
hệt hoa thật. Rồi tôi lại cho hấp hoa thật để xông hơi vào chiếc áo đó suốt một
đêm, sau đó mới khoác lên người, lúc này tôi dường như đã trở thành một bông
hoa thực sự.
Tôi vẽ cho mình đôi hàng mày hình núi xa mà y ưa thích, lại
quét một lớp phấn hồng mỏng lên mặt và phủ thêm phấn trắng bên ngoài, chính là
lối trang điểm Phi hà trang thanh nhã, vừa hay có thể điểm xuyết cho nỗi ưu sầu
dịu nhẹ của tôi, vô cùng động lòng người.
Thế rồi tôi rời cung, mang theo tâm ý quyết liệt, vừa có bi
vừa có sầu. Thế nhưng đi được nửa đường, tôi cảm thấy những sự sầu bi ấy đều
không cần thiết, một khi đã quyết ý muốn làm, hà tất phải mang theo tâm trạng
mà ước thúc bản thân.
Lần này, tôi quay trở lại chốn xưa, thứ nhất là để tiện hành
sự, mà quan trọng hơn là khi trùng phùng tại nơi lần đầu gặp nhau, trái tim y
sẽ càng dễ xao động.
Tôi đi vào Ỷ Mai viên, khung cảnh rất tĩnh lặng, bàn chân
bước đi trên mặt tuyết phát ra những tiếng “lộp bộp” nhẹ nhàng, khiến trái tim
tôi thầm căng thẳng.
Sự lạnh lẽo của không khí khiến những ký ức trong đầu tôi trở
nên rõ ràng mà sâu sắc, cảnh cũ như vẫn đâu đây, mai đỏ phả hương khoe nhụy, nở
rộ như làn ráng chiều. Tôi hít sâu một hơi, dường như ngay đến sự ngọt ngào và
giá lạnh trong không khí cũng mang mùi vị của ngày xưa, chưa từng thay đổi. Tôi
nhẹ nhàng cất bước, rất nhanh đã tìm được gốc mai mà mình từng treo bức hình
nhỏ để cầu phúc năm xưa, đoạn bật cười ngơ ngẩn. Dường như đó là đêm Giao thừa
ngay năm đầu tiên tôi vào cung, cũng vào một ngày tuyết rơi giá lạnh thế này,
trong Ỷ Mai viên tăm tối, lần đầu tiên tôi nói chuyện với y qua những bóng mai
trùng trùng. Sự đeo bám của vận mệnh khiến người ta không thể nào trốn tránh,
dù có Dư Canh y mận chết thay đào, nhưng đến cuối cùng tôi vẫn không thoát
được.
Ba tâm nguyện mà tôi thầm ước ngày đó vẫn còn khắc trong
lòng, bao nhiêu năm nay, thứ mà tôi mong cầu cũng chỉ có thế này thôi: Thứ nhất
mong cha mẹ an khang, huynh muội yên bình; thứ hai mong có thể sống yên ổn
trong cung suốt đời suốt kiếp; thứ ba “mong
người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau”.