Giao Lộ Sinh Tử - Chương 52 - 53

CHƯƠNG
52

Mẹ tôi sống trong ngôi nhà xinh xắn mang
kiến trúc thời Victoria tại một khu phố lịch sử của thị trấn Pico Mundo. Bố
được thừa kế nó từ ông bà nội.

Khi li dị, mẹ nhận được nơi ở đẹp đẽ này
cùng mọi thứ bên trong và khoản trợ cấp đáng kể điều chỉnh theo mức giá sinh
hoạt. Vì mẹ chưa bao giờ và gần như không bao giờ tái hôn nên sẽ không được trợ
cấp khoản tiền đó suốt đời.

Hào phóng không phải cơn bốc đồng thứ
nhất, thứ hai hay cuối cùng của bố. Bố dàn xếp một cuộc sống thoải mái cho mẹ
chỉ đơn thuần vì sợ mẹ. Bực tức trước việc phải chia bớt thu nhập hàng tháng từ
quỹ ủy thác cho mẹ nhưng bố không có can đảm để làm ngay cả chuyện thương lượng
với mẹ, thông qua luật sư. Mẹ nhận được khá nhiều mọi thứ bà yêu cầu.

Bố trả tiền để được yên thân và để có cơ
hội mới tìm hạnh phúc (như bố nói).

Và ông bỏ tôi lại sau lưng khi tôi mới
tròn một tuổi.

Trước khi bấm chuông, tôi quét tay quay
xích đu ngoài hiên để chắc chắn là nó sạch sẽ. Có thể trong lúc trò chuyện, mẹ
sẽ ngồi trên xích đu còn tôi ngồi lên hàng rào ngoài hiên.

Mẹ và tôi luôn gặp nhau ngoài trời. Tôi
tự hứa với lòng sẽ không bao giờ bước chân vào ngôi nhà đó lần nữa, cho dù tôi
sẽ sống lâu hơn mẹ.

Sau khi bấm chuông hai lần không ai trả
lời, tôi đi vòng ra sân sau.

Khu đất sâu vào trong. Hai câu sồi
California to lớn đứng sừng sững ngay sau nhà, cùng xòa bóng rộng khắp nhưng
không che phủ hết. Xa xa phía cuối khu đất, mặt trời chiếu thẳng xuống vườn
hồng.

Mẹ tôi đang lúi húi giữa mấy bụi hoa.
Như quý bà thời xưa, mẹ mặc đầm màu vàng và đội mũ rộng vành cùng tông.

Tuy vành mũ che mặt mẹ nhưng tôi có thể
thấy vẻ đẹp hiếm có của bà không lu mờ trong suốt bốn tháng qua, kể từ lần cuối
tôi ghé thăm.

Mẹ lấy bố khi bà mười chín, còn ông hai
mươi bốn tuổi.

Hiện giờ bà bốn mươi nhưng nhìn như mới
hơn ba mươi.

Bức ảnh chụp ngày cưới cho thấy một
thiếu nữ mười chín trông như mới mười sáu, đẹp mê hồn, cực kì dịu dàng trong
chiếc áo cô dâu. Những cô nàng sau này của bố không ai sánh kịp với vẻ đẹp của mẹ
tôi.

Thậm chí giờ đây, khi mẹ đã bốn mươi,
nếu để mẹ ở chung phòng với Britney, bà mặc đầm còn cô ả mặc đồ tắm thiếu vải
thì hầu hết đàn ông sẽ ùa đến chỗ mẹ trước tiên. Và nếu khi đó mẹ có tâm trạng,
bà sẽ khiến bọn họ mê mệt đến độ tưởng như bà là người phụ nữ duy nhất nơi ấy.

Tôi đến gần trước khi bà kịp nhận ra có
người. Bà ngẩng lên, đứng thẳng dậy và chớp mắt nhìn tôi giây lát như thể tôi
là ảo ảnh do sức nóng tạo ra.

Và rồi bà nói, “Odd, con trai cưng, kiếp
trước con hẳn là mèo mới rón rén đi khắp sân như vậy được.”

Tôi gắng gượng nặn ra một nụ cười thoáng
qua. “Chào mẹ. Mẹ đẹp tuyệt.”

Mẹ cần lời khen, nhưng thực tế chưa bao
giờ trông bà dưới mức tuyệt đẹp.

Nếu mẹ là người xa lạ, biết đâu tôi còn
thấy bà xinh đẹp hơn bội phần. Đối với tôi, quá khứ chung giữa hai mẹ con đã
làm giảm bớt vẻ lộng lẫy của bà.

“Đến đây nào, con yêu, nhìn những đóa
hoa rực rỡ này xem.”

Tôi bước vào vườn hồng, lối đi lát đá
phủ đầy bụi và kêu lạo xạo dưới chân.

Vài bông hoa trưng ra mấy cái cánh đỏ
chót. Các đóa hoa khác như những cái bát màu cam, cái tách màu vàng chứa đầy
nắng hè. Sắc hồng, sắc tím, hồng phớt, khu vườn không ngừng được trang hoàng
dành cho tiệc tùng.

Mẹ hôn lên má tôi. Môi bà không lạnh như
tôi luôn mong đợi.

Kể tên đủ loại, mẹ nói: “Đây là hoa hồng
John F. Kennedy. Cực đẹp đúng không?”

Dùng một tay, mẹ nhẹ nhàng nâng đóa hoa
nở rộ nặng đến mức nghiêng xuống thân cây oằn cong.

Trắng bệch như bộ xương bị mặt trời tẩy
rửa, thoáng chút sắc xanh mờ nhạt, những cánh hoa lớn này không mỏng manh mà
dày mịn khác thường.

“Chúng trông như nặn từ sáp,” tôi nói.

“Chính xác. Chúng thật hoàn hảo phải
không con? Mẹ yêu tất cả hoa hồng, nhưng mấy đóa này thì mẹ yêu hơn hẳn.”

Không phải vì mẹ yêu thích loại hoa hồng
này nên tôi thích chúng ít hơn so với những loại khác.

Sự hoàn hảo của chúng gây cho tôi cảm
giác giả tạo. Những nếp gấp của cánh hoa đập vào mắt hứa hẹn điều bí ẩn và vui
thích ẩn trong nhụy hoa bị che khuất chính giữa, nhưng có vẻ đó là lời hứa giả
dối, vì màu trắng bệch lạnh lùng cùng vẻ cứng nhắc như sáp kia, và thiếu hẳn
hương thơm, gợi nên không phải sự thuần khiết hay đam mê mà chỉ toàn là chết
chóc.

“Một cành cho con,” mẹ nói, rút ra khỏi
túi áo đầm một cây kéo nhỏ dùng để cắt hoa.

“Không, mẹ đừng cắt. Cứ để nó mọc ở đó
đi. Đưa cho con phí lắm.”

“Vớ vẩn. Con phải tặng nó cho bạn gái.
Nếu trao đúng lúc, một đóa hồng đơn lẻ có thể bày tỏ tình cảm của chàng trai rõ
ràng hơn cả một bó hoa.”

Bà cắt ra cành hoa dài hơn một tấc.

Tôi để tay bên dưới cách đế hoa không
bao xa, kẹp cành hoa bằng ngón cái và ngón trỏ, giữa những cái gai cao nhất.

Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, tôi thấy ánh
mặt trời tạm lắng và những bông hoa ngát hương chỉ khiến thời gian dường như
trôi qua lề mề, trong khi thực chất nó đang phóng vù vù.

Biết đâu thậm chí ngay lúc này, tên đồng
bọn của Robertson đang lái xe đến điểm hẹn tội ác.

Đi dọc vườn hoa với dáng yêu kiều như bà
hoàng và nụ cười hiền hậu vương giả, thích thú ngắm nhìn những cái đầu cúi chào
của đám thần dân đủ màu sắc, mẹ cất giọng, “Mẹ rất mừng con đã ghé chơi, con
yêu. Nhân dịp gì vậy?”

Đi lùi một bước sau lưng mẹ, tôi nói,
“Con không biết chính xác. Con có vấn đề này...”

“Chúng ta không cho phép vấn đề nào ở
đây,” bà nói bằng giọng phản đối dịu nhẹ. “Từ lối đi phía trước cho đến hàng
rào phía sau, ngôi nhà và mảnh đất này là vùng miễn lo âu.”

Nhận thức được rủi ro nhưng dù sao tôi
đã đưa mẹ và tôi vào vùng nguy hiểm. Lớp đá dưới chân như biến thành cát lún
trì níu.

Tôi không biết cách nào khác để tiếp tục
câu chuyện. Tôi không có thời gian chơi đùa theo luật của bà.

“Có chuyện con cần nhớ ra hay một chuyện
lẽ ra con nên làm,” tôi nói, “nhưng con gặp vướng mắc. Trực giác đưa con đến
đây vì... con nghĩ bằng cách nào đó mẹ có thể giúp con phát hiện ra điều gì bỏ
sót.”

Về phần mẹ, những lời của tôi chỉ dễ
hiểu hơn những câu lắp bắp sai ngữ pháp. Giống như bố, mẹ chẳng biết gì về năng
lực siêu nhiên của tôi.

Khi còn nhỏ, tôi đã nhận ra rằng nếu
phức tạp hóa cuộc đời của mẹ bằng sự thật về tình trạng của tôi thì sự căng
thẳng quá mức của hiểu biết ấy sẽ là cái chết của mẹ. Hoặc cái chết của tôi.

Bao giờ cũng vậy, mẹ theo đuổi một cuộc
sống tuyệt đối không căng thẳng, không tranh cãi. Mẹ không thừa nhận bổn phận
đối với ai, không gánh vác trách nhiệm đối với ai khác ngoài bản thân mình.

Bà chẳng bao giờ gọi đó là ích kỉ. Với
bà, như thế là tự bảo vệ, vì bà thấy thế giới đòi hỏi khắt khe quá sức, hơn mức
bà có thể chịu đựng.

Nếu ôm trọn cuộc sống này với toàn bộ
những mâu thuẫn của nó, mẹ sẽ mắc chứng suy nhược. Thế nên, mẹ chế ngự thế giới
bằng mọi trù tính lạnh lùng của một người chuyên quyền nhẫn tâm, đồng thời gìn
giữ sự minh mẫn bấp bênh bằng cách bọc quanh mình cái kén thờ ơ lãnh đạm.

“Có thể nếu mẹ con ta nói chuyện một
lát,” tôi nói, “sau đó con có thể hiểu ra tại sao con đến đây, tại sao con lại
nghĩ mẹ có thể giúp con.”

Tâm trạng của bà chuyển biến nhanh trong
chớp mắt. Quý bà yêu hoa hồng quá yếu đuối đến mức không thể xử lí thách thức
này và nhân vật hớn hở rút lui nhường chỗ cho một nữ thần điên tiết.

Mẹ nhìn tôi với ánh mắt cay cú, đôi môi
mím chặt và tái mét, như thể chỉ cần một cái nhìn dữ tợn là có thể tống cổ tôi
đi.

Trong các tình huống thông thường, mỗi
cái nhìn đó thôi thật sự cũng khiến tôi chuồn gấp.

Thế nhưng ánh mặt trời gay gắt gần đứng
bóng, nhanh chóng đẩy chúng tôi đến gần hơn giờ nổ súng. Tôi không dám quay trở
ra đường phố oi nồng của thị trấn Pico Mundo mà không có một cái tên hay mục
đích nào để tập trung sức hút siêu linh.

Khi nhận thấy tôi sẽ không lập tức bỏ đi
để bà yên ổn hưởng thú điền viên, bà cất giọng lạnh tanh rôm rốp như nước đá,
“Ông ta bị bắn vào đầu, con biết mà.”

Lời tuyên bố này khiến tôi hoang mang,
nó hãy còn có cả mối liên kết thần bí với vụ thảm sát đang đến gần mà tôi mong
có thể chặn đứng.

“Ai cơ?” tôi hỏi.

“John F. Kennedy.” Mẹ đưa ra cái tên
trùng tên hoa hồng. “Chúng bắn vào đầu ông ấy làm não phọt ra.”

“Mẹ,” tôi lên tiếng, dù hiếm khi dùng
cụm từ đó trong cuộc trò chuyện với bà, “chuyện này khác. Lần này mẹ phải giúp
con. Nếu không mọi người sẽ chết.”

Có lẽ đó là điều tệ hại nhất mà tôi thốt
ra. Mẹ không động lòng trước việc phải có trách nhiệm với mạng sống của người
khác.

Bà chộp lấy cành hoa hồng đã cắt cho
tôi, tóm chặt vào bông hoa và tước nó khỏi tay tôi.

Vì không nhanh tay buông ra kịp nên cành
hoa cào xước giữa mấy ngón tay tôi và một cái gai chọc thủng mặt trong ngón
cái, lấy đi mẩu da.

Bà vò nát bông hoa rồi quẳng xuống đất,
quay đi và sải bước vào nhà.

Tôi không bỏ cuộc. Tôi đuổi kịp bà, đi
bên cạnh, nài xin vài phút trò chuyện để có thể làm đầu óc tôi sáng ra và giúp
tôi hiểu lí do đến đây, trong số mọi địa điểm, vào giờ phút nguy cấp này.

Mẹ vội vã, tôi vội vã theo. Lúc đến bậc
thềm ngoài hiên sau, bà bỏ chạy, phần váy đầm bay sột soạt như đôi cánh, một
tay bà giữ cái mũ trên đầu.

Cánh cửa lưới đóng sầm lại khi bà biến
mất vào nhà. Tôi dừng bước ngoài hiên, miễn cưỡng không muốn vào trong.

n hận đã làm phiền mẹ nhưng tôi cảm thấy
chính mình phiền muộn và tuyệt vọng.

Tôi nói vọng qua cửa lưới, “Con không đi
đâu. Lần này con không đi được. Con chẳng còn chỗ nào để đi.”

Mẹ không trả lời. Phía bên kia cửa lưới,
gian bếp có màn che nằm trong bóng tối, im ắng đến mức không thể che giấu người
mẹ đau khổ của tôi. Bà đã vào sâu hơn trong nhà.

“Con sẽ ở ngoài hiên này,” tôi hét to.
“Con sẽ đợi ở đây. Suốt cả ngày nếu buộc phải làm vậy.”

Tim đập thình thịch, tôi ngồi bệt xuống
dưới hiên, chân đặt lên bậc trên cùng, quay mặt khỏi cửa bếp.

Sau đó, tôi nhận ra ắt hẳn mình đến nhà
mẹ, trong tiềm thức chưa ý định khơi ra chính xác phản ứng này và nhanh chóng
dồn bà đến thái độ phòng thủ cơ bản trước trách nhiệm. Súng ống.

Thế nhưng giây phút ấy, cơn hỗn loạn là
bạn đồng hành của tôi còn sự tỉnh táo dường như đã vượt khỏi tầm tay.

CHƯƠNG
53

Cái gai nhú khỏi ngón cái. Tôi giật nó
ra nhưng lỗ thủng gây ra chảy máu vẫn nhói buốt như “tặng” tôi thêm một vết
nhiễm trùng.

Hổ thẹn, ngồi ngay thềm nhà mẹ mình, tôi
cảm thấy tủi thân như đó không phải là một cái gai mà là cả bụi gai nhọn.

Lúc nhỏ, khi bị đau răng, tôi không thể
trông đợi được mẹ dỗ dành.

Mẹ luôn gọi bố hay một người hàng xóm
nào đó đưa tôi đi nha sĩ, trong lúc ấy, bà rút vào phòng riêng và khóa trái cửa.
Bà ẩn náu ở đó một hai ngày cho đến lúc chắc rằng tôi không còn kêu ca bệnh tật
gì mà bà phải quan tâm nữa.

Cơn sốt nhẹ hay chứng viêm họng hành hạ
tôi là cơn khủng khoảng mà mẹ tôi không thể giải quyết. Năm lên bảy, đau đớn do
viêm ruột thừa, tôi gục ngã tại trường và được tức tốc đưa đến bệnh viện; nếu
tình trạng của tôi trở nặng khi ở nhà, chắc mẹ tôi để tôi đi đời trong phòng
khi bà còn đang bận rộn với chồng sách nội dung nhẹ nhàng, nhạc êm dịu và các
sở thích thượng lưu khác nhằm nặn ra một “thế giới hoàn hảo” của riêng bà.

Những nhu cầu tình cảm, niềm vui nỗi
buồn, hoài nghi và hi vọng, khổ sở và lo âu của tôi là việc của riêng của mình
tôi khám phá và giải quyết, không hề có sự chỉ bảo hay cảm thông của mẹ. Hai mẹ
con chỉ nói về những điều không khiến mẹ tôi bối rối hoặc không tạo cho mẹ cảm
giác buộc phải hướng dẫn dìu dắt.

Mười sáu năm sống chung một mái nhà mà
như sống tại hai thế giới song song hiếm khi giao thoa. Đặc trưng nổi bật thời
thơ ấu của tôi là nỗi cô đơn giày vò và hàng ngày vật lộn để tránh né cảm giác
trong tâm hồn mà nỗi cô đơn tẻ nhạt gây ra.

Vào những thời điểm dữ dội, khi sự việc
buộc hai thế giới song song kia phải giao nhau trong các cơn khủng hoảng mà mẹ
tôi không thể chịu nổi và không dễ thoái lui, mẹ chắc chắn cầu viện đến cùng
một công cụ kiểm soát. Khẩu súng. Mối kinh hãi về những cuộc chạm trán đen tối
ấy và tội lỗi sau đó khiến tôi thà chọn nỗi cô đơn còn hơn bất cứ sự tiếp xúc
nào đưa mẹ vào trạng thái khốn cùng.

Hiện giờ, trong lúc đang ấn chặt ngón
tay cái và ngón trỏ vào với nhau để ngăn máu chảy, tôi nghe tiếng cửa lưới bật
mở phát ra tiếng “tưng tưng”.

Tôi không dám quay lại nhìn mẹ. Nghi
thức cũ chẳng mấy chốc sẽ được tiến hành.

Sau lưng tôi mẹ cất giọng, “Đi đi.”

Nhìn chằm chằm vào những cái bóng đan
nhau của cây sồi vào vườn hồng sáng rực xa kia, tôi đáp, “Con không thể. Lần
này thì không.”

Tôi xem đồng hồ - 11:32. Mức độ căng
thẳng của tôi không thể xoắn chặt thêm chút nào nữa, từng phút phải từng phút
trôi qua, như đồng hồ chứa bom nằm trên cổ tay tôi.

Giọng mẹ đã trở nên chán nản và gượng
gạo dưới trọng lượng của gánh nặng tôi đặt lên bà, gánh nặng về lòng tốt và sự
quan tâm đơn giản của con người, điều bà không có. “Mẹ không chịu nổi chuyện
này đâu.”

“Con biết. Nhưng có một việc... con
không chắc là... một việc mẹ có thể thật sự giúp được con.”

Mẹ ngồi xuống cạnh tôi ở đầu bậc thềm
trước nhà. Bà cầm khẩu súng bằng hai tay, nhắm vào mảnh sân râm mát bóng cây
tối.

Bà không xài đồ giả. Khẩu súng đã nạp
đạn.

“Mẹ sẽ không sống kiểu đó. Không đâu. Mẹ
không thể. Người ta luôn luôn muốn cái này cái kia, rút cạn sức mẹ. Tất cả mọi
người muốn, muốn, muốn, tham lam vô độ. Nhu cầu của con... như đống sắt đối với
mẹ, sức nặng như bị chôn sống.”

Đã nhiều năm, cũng có lẽ chưa bao giờ
tôi dồn ép bà nặng nề như trong ngày thứ Tư định mệnh ấy: “Mẹ à, điều điên rồ
là sau hơn hai mươi năm gánh chịu chuyện tào lao này, sâu thẳm trái tim con,
nơi có lẽ đen tối nhất, con nghĩ vẫn còn le lói tình yêu thương dành cho mẹ. Có
thể đó là lòng thương hại, con không chắc, nhưng nó đủ sức gây đau đớn như tình
yêu thương.”

Bà không muốn tình yêu thương từ tôi hay
bất kì ai. Bà không muốn có nó để phải cho đi. Bà không tin tình yêu. Bà sợ tin
vào nó và những nhu cầu kèm theo nó. Bà chỉ muốn sự ăn ý không đòi hỏi, các mối
quan hệ kiệm lời ngọt ngào. Thế giới hoàn hảo của mẹ tôi chỉ có một cư dân, và
nếu bà không thể yêu bản thân, chí ít bà cũng dành sự trìu mến dịu dàng nhất
cho chính mình và van nài được ở một mình khi buộc phải có mặt cùng người khác.

Lời tuyên bố ngập ngừng về tình yêu
thương của tôi khiến mẹ quay khẩu súng về phía mình.

Mẹ ấn họng súng lên cổ họng, hơi nghiêng
về phía cằm, như vậy dễ bắn vỡ sọ.

Bằng lời lẽ nặng nề và thái độ thờ ơ
lạnh lùng, mẹ có thể tống cổ bất cứ ai mẹ chọn, nhưng thỉnh thoảng những vũ khí
ấy không đủ sức mang lại kết quả như mong muốn trong mối quan hệ bất thường của
chúng tôi. Cho dù không cảm nhận được thì mẹ cũng nhận thấy sự hiện diện của
mối dây ràng buộc đặc biệt giữa mẹ và con, và mẹ biết đôi khi nó không bị đứt
đoạn bởi vất cứ thứ gì ngoại trừ những biện pháp tàn nhẫn nhất.

“Con muốn bóp cò giùm mẹ không?” bà hỏi.

Như mọi khi, tôi quay mặt đi. Như thể
tôi hít bóng cây sồi cùng không khí, như thể phổi tôi đẩy nó trôi tuột vào máu,
tôi cảm giác một bóng tối lạnh lẽo dâng lên trong tâm thất.

Như mọi khi lúc tôi ngoảnh đi, bà nói,
“Nhìn này, nhìn tao này, bằng không tao sẽ bắn lòi ruột tao ra và chết từ từ,
kêu la ngay đây trước mặt mày.”

Rợn người, run rẩy, tôi hướng sự chú ý
trở về mẹ như bà muốn.

“Mày cũng có thể bóp cò, thằng khỉ ạ. Để
tao bóp cũng chẳng khác gì đâu.”

Tôi không thể đếm và cũng không muốn nhớ
từ trước đến giờ tôi đã nghe thấy thách thức này bao nhiêu lần rồi.

Mẹ tôi bị điên. Các nhà tâm lí học có
thể dùng hàng loạt thuật ngữ đặc trưng hơn và ít mang tính phê phán hơn nhưng
trong Từ điển của Odd, hành vi của mẹ là định nghĩa về chứng điên.

Tôi nghe kể không phải lúc nào mẹ cũng
như vậy. Khi còn nhỏ, mẹ dễ thương, vui tươi, tình cảm.

Thay đổi khủng khiếp diễn ra năm mẹ mười
sáu tuổi. Mẹ bắt đầu có những chuyển biến tâm trạng đột ngột. Sự dễ thương thay
bằng cơn giậm ầm ĩ mà mẹ chỉ có thể kiểm soát tốt nhất khi ở một mình.

Liệu pháp chữa trị và hàng loạt thuốc
men không thể khôi phục lại bản chất tốt đẹp trước kia của mẹ.

Năm mười tám, khi mẹ cự tuyệt không điều
trị thêm nữa, không ai khăng khăng ép mẹ tiếp tục áp dụng tâm lí liệu pháp hay
dùng thuốc, vì lúc ấy mẹ không bất thường, duy ngã và đầy đe dọa như khi vừa
bước qua độ tuổi hai mươi.

Khi bố gặp mẹ, mẹ chỉ rầu rĩ vừa phải và
nguy hiểm vừa phải, để khiến ông cuồng si. Khi tình trạng của mẹ nặng lên, ông
cao chạy xa bay.

Mẹ không bao giờ bị đưa vào trại tâm
thần vì khả năng tự chủ của bà thật tuyệt vời khi không có chuyện phải tiếp xúc
với người khác, điều vượt quá khả năng của bà.

Vì mẹ có thu nhập rủng rỉnh mà không cần
làm việc, và vì mẹ thích cuộc sống như người ẩn dật nên tình trạng thật sự của
mẹ không có mấy ai trong thị trấn Pico Mundo nhận ra.

Vẻ đẹp đặc biệt cũng giúp mẹ giữ bí mật.
Hầu hết mọi người thường nghĩ những người tốt nhất là những người được ban cho
sắc đẹp; chúng ta khó hình dung một vẻ bề ngoài hoàn hảo lại che đậy cảm xúc
méo mó hoặc tâm hồn mục nát.

Giọng mẹ trở nên chua ngoa và chống đối
hơn, “Tao nguyền rủa cái đêm để cho thằng cha ngu ngốc của mày phụt mày vào
người tao.”

Câu nói không khiến tôi sốc. Trước đây
tôi đã nghe rồi, và còn tệ hơn nữa.

Mẹ nói, “Lẽ ra tao phải nạo mày ra và
quẳng vào sọt rác. Nhưng tao sẽ được gì khi li dị? Mày chính là tấm vé.”

Khi nhìn mẹ trong tình thế này, tôi
không hờn ghét và mà đau khổ và tuyệt vọng, thậm chí khiếp đảm. Tôi không thể
tưởng tượng làm sao tôi có thể chịu đựng được nỗi đau và lòng căm thù nếu tôi
là mẹ.

Duy nhất một điều khiến tôi thấy an ủi
là khi mẹ ở một mình, khi mẹ không bị ép buộc cho đi thứ gì, mẹ hài lòng, nếu
không nói là hạnh phúc. Tôi muốn mẹ ít nhất cũng ở trong tâm trạng hài lòng.

Mẹ la lên, “Ngừng làm tao sôi máu hoặc
bóp cò đi, thằng quỷ nhỏ.”

Một trong những kí ức đầu tiên sống động
nhất của tôi là vào đêm mưa tháng Giêng khi tôi lên năm tuổi và đang bị cúm.
Khi không ho, tôi khóc đòi quan tâm dỗ dành, và mẹ không thể tìm ra xó xỉnh nào
trong ngôi nhà để có thể trốn biệt âm thanh của nỗi khổ sở phát ra từ tôi.

Mẹ vào phòng tôi và nằm dài lên giường
cạnh tôi, như bất kì bà mẹ nào nằm dỗ đứa con bị ốm, nhưng mẹ mang theo khẩu
súng. Phương pháp dọa tự tử luôn thu được sự im lặng của tôi, sự vâng lời của
tôi, sự miễn thứ bổn phận làm mẹ cho bà.

Đêm đó, tôi cố hết sức nuốt cơn đau và
kìm nước mắt nhưng tôi không thể quên đi được cái cổ họng đau đớn và rát buốt.
Đối với mẹ, cơn ho của tôi là hành động đòi hỏi tình mẫu tử, và sự dai dẳng của
nó đưa bà đến cực điểm cảm xúc.

Khi lời đe dọa tự tử không chặn dứt được
cơn ho, mẹ chĩa họng súng vào mắt phải của tôi. Bà thúc tôi ráng nhìn thấy điểm
sáng của viên đạn trong nòng súng hẹp đen ngòm kia.

Mẹ con tôi nằm đó rất lâu, bên ngoài mưa
rơi lộp độp, đập vào cửa sổ vào phòng ngủ. Từ đó về sau, tôi biết rất nhiều thứ
kinh hoảng nhưng không thứ nào thuần túy như cái tôi nếm trải vào đêm ấy.

Với tầm nhìn của một thanh niên hai mươi
tuổi, tôi không tin mẹ giết tôi hay sẽ có lúc làm như thế. Nếu mẹ gây hại cho
tôi, hay bất kì ai khác, mẹ đã tự đẩy mình vào mối tương tác với người khác mà
mẹ sợ nhất. Bà biết người ta sẽ đòi bà trả lời và giải thích. Người ta đòi sự
thật, sự ăn năn và công lí. Người ta còn đòi hỏi nhiều hơn nữa, vì họ sẽ không
bao giờ ngừng đòi hỏi.

Tôi không biết tại bậc thềm này, mẹ có
chĩa súng vào tôi lần nữa không, và tôi không biết chính xác mình sẽ phản ứng
ra sao nếu bà làm thế. Tôi đến tìm sự đối đầu giúp tôi sáng trí dù rằng tôi
không hiểu cần nó để làm gì và tôi học được gì từ điều đó để tìm ra tên đồng
bọn của Robertson.

Và rồi mẹ hạ khẩu súng khỏi cổ họng, dời
xuống ngực trái, như mọi khi, vì hình ảnh viên đạn xuyên qua não sẽ không tác
động mạnh đến đứa con trai của một bà mẹ nhiều như hình ảnh phát đạn xuyên qua
tim.

“Nếu mày không để tao yên, nếu mày không
ngừng vĩnh viễn cái trò bòn rút, hút cạn sức lực của tao như con đỉa thì vì
Chúa, bóp cò đi, cho tao chút thanh thản đi.”

Đập vào tâm trí tôi là vết thương trên
ngực của Robertson, nó cứ quấy phá tôi gần suốt mười hai tiếng đồng hồ.

Tôi cố dìm hình ảnh bất di bất dịch ấy
vào đầm lầy kí ức mà nó đã ngoi lên. Đó là một đầm lầy sâu, chất đầy những ương
ngạnh và không chịu chìm xuống như cũ.

Thình lình tôi nhận ra đó chính là lí do
tôi đến đây: để buộc mẹ thực hiện cái nghi thức dọa tự tử đáng ghét nằm ở cốt
lõi mối quan hệ của chúng tôi, để đương đầu với cảnh tượng khẩu súng ấn vào
ngực bà, để bỏ chạy như tôi vẫn luôn làm, để nghe bà ra lệnh tôi phải chú ý...
sau đó, chán nản và run rẩy, tìm dũng khí để giương mắt nhìn.

Đêm trước, trong phòng tắm nhà tôi, tôi
không đủ mạnh mẽ để khám nghiệm vết thương trên ngực Robertson.

Khi đó, tôi cảm thấy vết thương có điều
lạ, vết thương có thể cho biết điều gì đó. Thế nhưng, kinh tởm và buồn nôn, tôi
đã ngoảnh đi và cài nút áo hắn lại.

Dúi khẩu súng về phía tôi, mẹ giận dữ
khăng khăng. “Nào, thằng khỉ vô ơn, cầm lấy, cầm lấy, bắn tao đi cho xong
chuyện hoặc để tao yên!”

Tới lúc này, bao giờ giọng mẹ tôi cũng
đổi sang hằn học và cuồng nộ, “Tao mơ, mơ hoài là khi đẻ ra, mày chết ngắc.”

Run rẩy, tôi nhổm dậy và thận trọng bước
xuống mấy bậc thềm.

Phía sau, mẹ lôi ra con dao ghét bỏ mà
chỉ mẹ mới dùng nó cứa vào lòng tôi được. “Suốt thời gian mang thai mày, tao
toàn nghĩ đến chuyện mày chết trong bụng tao, chết và thối rữa.”

Mặt trời, người mẹ nuôi nấng trái đất,
rót dòng sữa nóng bỏng xuống đun sôi vài máng xanh bầu trời và để thiên đường
phai mờ. Ngay cả dưới bóng cây sồi giờ đây cũng nói lên sức nóng và khi rời xa
mẹ, tôi nóng bừng cảm giác tủi hổ đến mức không ngạc nhiên nếu cỏ dưới chân
bỗng dưng bốc cháy.

“Chết trong bụng tao,” mẹ lặp lại.
“Tháng này nối tiếp tháng kia dài vô tận, tao cảm giác bào thai mục nát mưng mủ
trong bụng, chất độc lan tràn thấm khắp người tao.”

Đến góc ngôi nhà, tôi dừng chân, quay
lại và nhìn mẹ vì tôi nghĩ đây sẽ là lần cuối.

Mẹ bước xuống bậc thềm nhưng không đi
theo tôi. Cánh tay phải của bà lủng lẳng bên hông, họng súng chĩa xuống đất.

Tôi không hề đòi hỏi được sinh ra. Chỉ
mong được yêu thương.

“Tao chẳng có gì để cho đi hết. Mày có
nghe không? Chẳng có gì chẳng có gì cả. Mày đầu độc tao, đổ đầy mủ và cái thai
mục rữa vào người tao, và giờ tao tàn tạ thế này đây.”

Quay lưng lại mẹ vì cái cảm giác mãi mãi
không bao giờ thay đổi, tôi vội vã chạy khỏi nhà hướng ra ngoài phố.

Căn cứ theo di truyền và quá trình thử
thách trong những năm ấu thơ, đôi lúc tôi cứ tự hỏi sao mình không bị điên.
Biết đâu tôi đã điên rồi cũng nên.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3