Giao Lộ Sinh Tử - Chương 54 - 55
CHƯƠNG
54
Phóng nhanh hơn luật cho phép ra ngoại ô
thị trấn Pico Mundo, tôi đã cố nhưng không thể xua đuổi khỏi tâm trí mọi ý nghĩ
về bà ngoại tôi, bà Sugars.
Mẹ và bà tồn tại ở hai khu vực biệt lập
trong tâm trí tôi, ở những vùng kí ức có chủ quyền riêng không xâm phạm vào
nhau.
Vì thương bà ngoại Pearl Sugars nên tôi
luôn bất đắc dĩ nghĩ về bà trong bối cảnh liên quan đến người mẹ điên loạn của
tôi.
Cả hai ở cùng nhau làm dấy lên trong tôi
nhiều câu hỏi ghê gớm mà từ lâu tôi cố kìm chế không đi tìm đáp án.
Bà Pearl Sugars biết mẹ tôi tâm thần bất
ổn, nếu không nói là điên, và mẹ đã ngừng dùng thuốc từ năm mười tám tuổi. Bà chắc
chắn cũng biết việc mang thai và trách nhiệm nuôi dạy một đứa con sẽ khiến
người mẹ yếu đuối của tôi căng thẳng quá sức chịu đựng.
Vậy mà bà không ngăn cản vì lợi ích cho
tôi.
Chắc vì bà sợ con gái mình. Tôi đã vô số
lần nhìn thấy bằng chứng về chuyện đó. Kiểu thay đổi tâm trạng đột ngột và tính
tình nóng nảy của mẹ dọa nạt được bà cho dù bà tôi chẳng biết sợ ai và không hề
do dự đánh đấm một kẻ hung hăng to lớn gấp đôi bà.
Hơn nữa, bà Pearl Sugars thích cuộc sống
phóng khoáng không ràng buộc nên lí gì lại muốn suốt ngày ở nhà nuôi cháu. Sở
thích du lịch, sức cám dỗ của những ván bài béo bở tại những thành phố xa hoa -
Las Vegas, Reno, Phoenix, Albuquerque, Dallas, San Antonio, New Orleans,
Memphis - nhu cầu phiêu lưu và không khí náo động giữ bà xa rời thị trấn Pico
Mundo hơn nửa năm.
Trong hàng rào phòng thủ của mình, bà
Sugars không thể hình dung mức độ hay tính chất gay gắt trong hành động tàn
nhẫn của mẹ đối với tôi. Bà không biết về khẩu súng và những lời đe dọa đã vẽ
nên tuổi thơ tôi.
Khi tôi đang viết những dòng này, không
ai biết chuyện đó ngoài tôi và mẹ. Tuy kể hết cho Stormy nghe mọi bí mật của
mình nhưng tôi giấu chuyện này. Chỉ khi Ozzie “bé” đọc bản thảo này, cái mà anh
cứ cố nài tôi viết, tôi mới chia sẻ toàn bộ chuyện mẹ là thế nào với tôi và tôi
là gì đối với mẹ.
Cảm giác tội lỗi và hổ thẹn khiến tôi
giữ im lặng về việc này đến tận bây giờ. Tôi đã đủ già dặn, dù chỉ mới hai
mươi, để hiểu rằng tôi không lí gì phải cảm thấy tội lỗi hay hổ thẹn, rằng tôi
là nạn nhân, không phải tội đồ. Tuy vậy tôi đã bị tẩm ướp trong cả hai xúc cảm
ấy quá lâu đến mức chúng sẽ mãi mãi toát ra từ tôi.
Khi đưa bản thảo cho Ozzie, tôi sẽ xấu
hổ đến nóng ran cả người. Khi anh ấy đọc, tôi sẽ che mặt lại, lúng túng khi anh
nói đến những đoạn này trong câu chuyện.
Những tâm hồn bị đầu độc sẽ tuôn trào bí
mật với những cái gối vô tri.
Shakespeare. MacBeth, Hồi năm, Cảnh một.
Lời ám chỉ văn vẻ này được đưa vào đây
không chỉ để làm hài lòng anh đâu, Ozzie à.
Ẩn chứa trong đó là sự thật cay đắng của
tôi. Mẹ tiêm nhiễm đầu óc tôi bằng thứ virus đầy uy lực khiến tôi mất luôn khả
năng thú nhận sự ngược đãi đáng hổ thẹn ấy, thậm chí với cái gối, mà phải mang
nó vào giấc ngủ từng đêm, u uất không thể giải tỏa.
Về phần bà Sugars: Giờ đây tôi buộc phải
tự hỏi liệu lối sống rong ruổi và sự vắng mặt thường xuyên của bà, cộng với
tính mê cờ bạc và bản chất không lúc nào yên, có góp phần gây ra vấn đề tâm lí
của mẹ tôi không.
Tệ hơn nữa, tôi không thể tránh né mối
băn khoăn rằng bệnh tình của mẹ có lẽ không phải là hậu quả của việc thiếu sự
nuôi dạy đầy đủ, mà có lẽ hoàn toàn do kết quả di truyền. Chắc bà Pearl Sugars
cũng mắc chứng rối loạn tương tự nhưng nhẹ hơn, biểu hiện theo kiểu dễ chịu hơn
mẹ tôi.
Thôi thúc muốn sống ẩn dật của mẹ có lẽ
là phiên bản nghịch đảo lại sở thích du lịch của bà. Nhu cầu muốn được bảo đảm
về mặt tài chính, trả giá bằng việc mang cái thai không hề mong đợi, có lẽ là
sự lộn ngược của cơn sốt bài bạc nơi bà.
Điều này cho thấy phần nhiều, tuy không
hoàn toàn, trong những điểm tôi yêu quý ở bà Sugars chỉ là một khía cạnh khác
của chứng bệnh tâm thần đã biến mẹ tôi thành nỗi khiếp đảm. Việc đó làm tôi bối
rối vì những lí do tôi nghi ngờ chỉ rõ ràng chừng nào tôi sống thêm hai mươi
năm nữa, nếu có.
Khi tôi mười sáu tuổi, bà Pearl Sugars
muốn tôi lên đường với bà. Khi đó, tôi đã trở thành như bây giờ: thấy được hồn
người chết với những giới hạn, những trách nhiệm buộc phải hoàn thành. Tôi
không có chọn lựa nào ngoài việc từ chối đề nghị của bà. Nếu hoàn cảnh khi ấy
cho phép tôi chu du cùng bà từ ván bài này đến ván bài khác, cuộc phiêu lưu này
đến cuộc phiêu lưu khác, thì tình trạng căng thẳng của cuộc sống hàng ngày và
đối tượng gặp gỡ không đổi có thể để lộ ra một người phụ nữ khác hẳn, không
đáng quý như người tôi tưởng đã hiểu rõ.
Tôi buộc phải tin bà ngoại Sugars có
lòng yêu thương chân thực mà mẹ tôi không có, và buộc phải tin rằng bà thật
lòng thương yêu tôi. Nếu hai điều này không có thật thì tuổi thơ tôi sẽ là một
cuộc sống khô cằn tẻ nhạt.
Không tài nào dẹp bỏ được mớ suy nghĩ
phiền muộn này trên đường ra khỏi thị trấn Pico Mundo, tôi đến Nhà thờ Sao chổi
Thì thầm trong tâm trạng hợp với khung cảnh đám cây cọ chết khô, vùng đất cằn
cỗi và những tòa nhà hoang phế đang mục nát.
Tôi đỗ xe trước căn nhà tôn, nơi ba con
chó sói bao vây tôi. Chúng không còn ở đó.
Chúng thường chỉ đi săn đêm. Dưới cái
nóng giữa trưa, chúng ẩn náu trong những sào huyệt lạnh lẽo đen tối.
Cô gái điếm chết oan, người thu phục bọn
chó sói cũng không còn hiện hình nữa. Tôi hi vọng cô ấy đã tìm đường rời khỏi
thế giới này, nhưng tôi không chắc lời khuyên vụng về và sự nhàm chán của mình
có thuyết phục được cô ấy đi tiếp không.
Từ trong những thứ dưới đáy cái túi nhựa
mua sắm được dùng làm vali, tôi lôi ra đèn pin, kéo hộp khăn giấy ướt.
Trong căn hộ của mình, khi gói ghém đồ
đạc, hộp khăn giấy dường như là món đồ khác thường cần mang theo, cây kéo thậm
chí còn kì quặc hơn. Thế nhưng tôi trong tiềm thức đã biết chính xác lí do tôi
cần chúng.
Chúng tôi không lạ lẫm gì nhau; chỉ cố
tỏ ra như thế.
Khi tôi ra khỏi xe, cái nóng dữ dội của
sa mạc Mojave xứng với không khí u tịch của nó, một sự lặng im gần như hoàn hảo
có lẽ không thể tìm thấy đâu khác ngoài cảnh tuyết rơi ngập kín trong quả cầu
thủy tinh.
Đồng hồ cho thấy thời gian không đứng
yên - 11:57.
Hai cây cọ màu nâu khô quắt phơi cái
bóng hình lược ngang bãi đất đầy bụi phía trước nhà tôn, như thể mở đường không
phải cho tôi mà cho Đấng cứu tinh đến muộn. Tôi quay lại không phải để vực
người chết dậy mà chỉ để khám nghiệm hắn.
Khi bước vào trong, tôi cảm giác như
mình đã cùng chung số phận với Shadrach và Abednego[49] bị ném vào lò than của
nhà vua Nebuchadnezzar, dù cho đây chỉ là luồng hơi nóng bốc theo một thứ mùi
kinh khủng từ thứ mà ngay cả thiên thần cũng không thể xá tội cho tôi.
[49]
Shadrach, Meshach và Abednego, ba chàng thanh niên lưu vong Do Thái.
Ánh nắng sa mạc trắng đục len qua những
ô cửa sổ, nhưng quá yếu và cách xa đến mức tôi vẫn cần đèn pin.
Tôi theo hành lang vương vãi đầy rác đến
cánh cửa thứ tư. Tôi vào căn phòng màu hồng, nơi một thời là chốn hoan lạc kiếm
tiền, giờ là lò hỏa thiêu dành cho tay đầu bếp buồn tẻ.
CHƯƠNG
55
Không kẻ tọc mạch hay thú ăn xác nào đến
đây trong lúc tôi vắng mặt. Thi thể nằm đúng nơi tôi bỏ nó lại, một đầu tấm vải
mở bung, một chân đi giày ló ra, còn lại vẫn bị bọc trong tấm khăn trải giường
trắng.
Không khí buổi tối oi ả và buổi sáng
nắng cháy đã tạo điều kiện và đẩy nhanh tiến trình phân hủy. Mùi hôi thối ở đây
còn kinh tởm hơn nhiều so với những nơi khác trong căn nhà tôn.
Cái nóng đến nghẹt thở cộng với mùi thối
rữa có sức mạnh như hai cú đấm thụi nhanh vào bụng. Tôi vội ra khỏi phòng, trở
lại hành lang, vừa hớp lấy hớp để luồng khí sạch hơn vừa vật lộn đàn áp cảm
giác buồn nôn.
Tuy không mang hộp khăn giấy vì mục đích
này nhưng tôi rút một miếng ra, xé làm hai mảnh. Miếng khăn giấy ướt mang hương
chanh. Tôi cuốn hai mảnh thành nùi, nhét vào mũi.
Thở bằng miệng, tôi không phải ngửi cái
xác mục rữa kia.
Vậy mà khi trở vào phòng, tôi vẫn nôn
khan lần nữa.
Tôi có thể cắt đầu dây đã bị bung tối
qua ở phần chân thi thể, rồi lăn cái xác ra. Ý nghĩ người chết lăn trên sàn,
như thể sống lại, thuyết phục tôi tiếp cận vấn đề theo cách khác.
Miễn cưỡng, tôi quỳ xuống phía đầu xác
chết. Tôi chống đèn pin dựa vào nó theo hướng soi sáng rõ nhất cho công việc
của tôi.
Tôi lấy kéo cắt dây giày và ném sợi dây
sang bên. Cây kéo sắc đến mức đủ sức cùng lúc cắt xuyên qua cả ba lớp khăn trải
giường cuộn lại với nhau. Tôi kiên nhẫn và cẩn thận di chuyển lưỡi kéo, nản
lòng bởi viễn cảnh moi ra một kẻ đã chết.
Khi lớp vải tách ra hai bên, khuôn mặt
lộ ra đầu tiên. Tôi nhận ra một cách muộn màng rằng nếu cắt từ dưới lên, tôi
chỉ cần đi kéo làm rách bung tấm vải đến phần cổ để nhìn thấy vết thương của gã
và có thể tránh được cảnh tượng khủng khiếp này.
Thời gian và sức nóng tồi tệ đã làm công
việc bẩn thỉu của chúng. Khuôn mặt, nằm ngược bên dưới, sưng húp, sậm màu hơn
cả lần cuối cùng tôi nhìn thấy, và vằn vện màu xanh rêu. Cái miệng hé mở xéo
xệch. Những đường trắng đục mỏng manh bao trùm cặp mắt, tuy tôi vẫn phân biệt
rõ hình dạng tròng trắng tròng đen.
Khi tôi với qua khỏi khuôn mặt xác chết
để cắt phần vải bao trùm bộ ngực, hắn liếm cổ tay tôi.
Tôi hét toáng lên trong cơn hoảng loạn
và ghê tởm, giật lùi và đánh rơi kéo.
Từ cái miệng méo xệch của tử thi bùng ra
một đống đen đúa loằng ngoằng, một thực thể quá lạ lùng trong bối cảnh này đến
mức tôi không nhận biết được nó là gì đến khi nó chui ra nguyên hình. Trên
khuôn mặt không còn sự sống của Robertson, thứ đó ngoi lên trên bốn cái chân
đen đúa và khua khoắng không khí bằng bốn chân trước. Nhện vùng Nam u.
Tôi vung tay hất con nhện thật nhanh để
nó không có cơ hội cắn được tôi. Nó rơi xuống sàn nhà, nhổm dậy và co giò bò
vào góc đằng xa.
Khi nhặt cây kéo đã đánh rơi, tay tôi
run rẩy đến nỗi làm lưỡi kéo nhấp dữ dội, cắt phăng vào không khí trước khi tôi
bình tĩnh trở lại.
Lo sợ còn nhiều con vật kinh khiếp đang
lê la phía đầu kia tấm vải để khám phá món béo bở chứa bên trong, tôi trở lại
công việc cắt lớp khăn trải giường trong sự bồn chồn cẩn trọng. Cho đến khi
phần hông cái xác lộ ra, tôi vẫn chưa phải đụng độ thêm kẻ cướp phá tám chân
nào.
Lúc giật mình phản ứng lại con nhện, tôi
đã làm bay miếng khăn giấy nhét trong lỗ mũi bên phải. Khi hương chanh còn sót
lại tan biến, tôi lại ngửi thấy mùi tử thi, tuy không nồng nặc vì tôi vẫn thở
bằng miệng.
Liếc về phía xó xỉnh nơi con nhện lẩn
trốn, tôi phát hiện nó không còn ở đó nữa.
Tôi băn khoăn tìm kiếm giây lát. Sau đó,
dù ánh sáng yếu ớt, tôi thấy con quái lông lá ngay bên trái góc phòng, cách mặt
đất gần một mét, đang chầm chậm bò lên bức tường màu hồng.
Quá run rẩy và bị thời gian đuổi sát nút
đến mức không thể cởi áo xác chết như lúc ở nhà, tôi xé toạc cái áo, giật đứt
hàng nút. Một nút áo bật trúng mặt tôi, mấy cái khác văng khắp sàn.
Khi trong tâm trí tôi hiện lên hình ảnh
mẹ cầm súng chĩa vào ngực, tôi rọi đèn pin xem vết thương. Đủ cứng rắn để khám
nghiệm gần hơn, tôi nhận thấy lí do nó có vẻ kì lạ.
Tôi lại tựa đèn pin vào cái xác và xé ba
bao khăn giấy. Tôi kẹp chúng thành một miếng dày và từ tốn lau lớp nước đục
ngầu rỉ ra trên mặt vết thương.
Viên đạn chọc thủng hình xăm trên ngực
Robertson, ngay phía trên tim gã.
Hình chữ nhật đen này có cùng kích cỡ và
hình dáng với tấm thẻ suy tưởng tôi tìm thấy trong ví gã. Ở giữa hình chữ nhật
là ba kí hiệu màu đỏ.
Mắt lờ mờ, tâm trạng sợ sệt, người căng
cứng chất caffeine, tôi không thể nhanh chóng hiểu hình vẽ khi nó nằm lộn
ngược.
Lúc tôi chuyển vị trí từ phía trên đầu
sang bên hông Robertson, cặp mắt vô hồn kia như động đậy, dõi theo tôi dưới một
lớp trắng sữa gần như mờ đục.
Tôi kiểm tra con nhện, nó đã biến mất
khỏi bức tường xa kia. Dùng đèn pin, tôi định vị nó nằm trên trần nhà, đang
tiến về phía tôi. Nó trông ghê rợn dưới ánh sáng thẳng chiếu.
Tôi quay đèn hướng vào hình xăm và vỡ lẽ
rằng ba kí hiệu màu đỏ thật ra là ba chữ cái viết kiểu bay bướm. C... C...
Chữ thứ ba bị mất một phần do viên đạn
xé toạc da, nhưng tôi chắc chắn đó là chữ D.
CCD. Không phải một từ. Những chữ cái
đầu của một từ. Nhờ bác Shamus Cocobolo mà tôi biết chúng mang nghĩa gì; Cha đẻ
Của Dối trá.
Robertson đã xăm tên của chúa tể hắc ám
lên tim.
Ba chữ cái: CCD. Ba chữ khác, bắt gặp ở
đâu đó, mới đây thôi...
Thình lình tôi nhìn thấy sĩ quan Simon
Varner hiện rõ mồn một trong trí nhớ: ngồi sau tay lái chiếc xe tuần tra trong
bãi đậu xe ở sân bowling, chồm ra cửa sổ để mở, khuôn mặt dễ thương đến mức đủ
sức trở thành người dẫn chương trình thiếu nhi trên tivi, mi mắt dày như con
gấu ngái ngủ, cẳng tay lực lưỡng tì lên cửa xe, “hình xăm giang hồ” mà theo anh
ta quả quyết, nó khiến anh xấu hổ. Không tinh vi như hình xăm của Robertson,
kiểu dáng không gì tương tự. Không có hình chữ nhật màu đen khảm dòng chữ đỏ
cầu kì. Chỉ là một từ viết tắt khác với những chữ cái rời nhau màu đen: T... gì
đó. Hình như là TSQ.
Chẳng lẽ sĩ quan Simon Varner, trực
thuộc Sở cảnh sát thị trấn Pico Mundo, lại mang cái tên của cùng vị chủ nhân ấy
trên cánh tay trái?
Nếu hình xăm của Robertson biểu lộ một
trong nhiều cái tên của quỷ dữ thì Simon Varner cũng cùng hội cùng thuyền.
Những cái tên của quỷ dữ ùa qua tâm trí
tôi: Sa Tăng, Ác ma, Quỷ sứ, Quỷ Sa Tăng, Cha đẻ của Quỷ, Đấng Ma vương...
Tôi không thể nhớ cụm từ nào giải thích
chữ viết tắt trên cánh tay Varner, nhưng tôi không nghi ngờ chuyện đã tìm ra
đồng bọn của Robertson.
Tại sân bowling, không hề có bóng dáng
ông kẹ vây quanh Varner như kiểu chúng đã đeo bám Robertson. Nếu thấy hắn có
ông kẹ “trông nom”, chắc tôi đã nhận ra bản chất quái thú trong hắn.
Vì có thể để lại dấu vân tay nên tôi vội
vã gom mấy vỏ bao khăn giấy và nhét vào túi quần jeans. Tôi chộp lấy cây kéo,
đứng dậy, quét đèn pin qua trần nhà và thấy con nhện ngay trên đầu mình.
Nhện vùng Nam u nhút nhát. Chúng không
săn đuổi người sống.
Tôi chạy nước rút ra khỏi phòng, nghe
tiếng con nhện đáp xuống sàn một cách khẽ khàng. Sau đó tôi đóng sầm cửa phòng
lại, lau dấu vết trên tay nắm cửa bằng vạt áo sơ mi, và lau luôn tay nắm cửa
chính khi đi khỏi.
Vì nhện vùng Nam u nhút nhát và vì tôi
tin không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nên tôi phóng ra chiếc Chevy, quẳng kéo và
đèn pin vào túi mua sắm, nổ máy rồi nhấn mạnh chân ga. Tôi rời khỏi khu đất của
Nhà thờ Sao chổi Thì thầm với tiếng rít của cao su biến dạng, cát văng tung tóe
và nhựa đường vỡ vụn, khát khao tới được đường cao tốc trước khi bị bao vây bởi
binh đoàn nhện Nam Âu, đội quân sói đồng cỏ và bè lũ rắn chuông cùng tụ họp
lại.