Giao Lộ Sinh Tử - Chương 50 - 51
CHƯƠNG
50
Dù là một gã đã chết, không còn góp phần
vào các mưu đồ và trò săn đuổi của thế giới này, Robertson vẫn lây lất với vẻ
dữ tợn kì quặc, điên tiết hệt như lúc tôi quan sát gã từ tháp chuông của nhà
thờ St.Bart. Thân hình cây nấm béo ú giờ có vẻ sung sức, ngay cả với những chỗ
sưng phù. Khuôn mặt ngờ nghệch và những đường nét mờ mờ đã đanh lại và sắc nét
bởi cơn thịnh nộ.
Không lỗ đạn, vết cháy sém hay vết ố nào
làm bẩn áo gã. Khác với Tom Jedd, người lảng vảng ngoài chỗ Tire World mang
cánh tay đứt lìa và giả vờ dùng nó làm cây gãi lưng, Robertson phủ nhận cái
chết của gã và chọn cách không trưng ra vết thương chí mạng, hệt như Penny Kallisto
lúc đầu không để lộ dấu vết bị bóp cổ, những đường hằn của sợi dây hiện ra chỉ
khi có mặt Harlo Landerson, kẻ hãm hại em.
Trong tâm trạng kích động cao độ,
Robertson đảo quanh bếp. Gã nhìn tôi trừng trừng, cặp mắt dại đi và bồn chồn
hơn cả mắt bầy sói ở Nhà thờ Sao chổi Thì thầm.
Khi tôi bắt đầu điều tra gã, tôi không
cố ý biến gã thành của nợ của đồng bọn, đẩy gã vào đường chết và tôi không bóp
cò súng. Tuy nhiên, rõ ràng lòng căm thù gã dành cho tôi còn vượt hơn cả mức
dành cho kẻ giết chết gã; nếu không gã đã đi ám chỗ khác.
Từ lò hấp bánh đến tủ lạnh, đến bồn rửa,
quay lại lò hấp bánh, gã đảo quanh trong lúc tôi khom xuống nhặt điện thoại làm
rơi khi nãy. Đã chết queo, gã không còn khiến tôi bận tâm nhiều như lúc ở khu
đất nhà thờ, tôi tưởng gã còn sống.
Khi tôi kẹp điện thoại vào thắt lưng,
Robertson đến chỗ tôi. Lù lù trước mặt tôi. Mắt gã mang màu xám như lớp băng
dính bẩn, nhưng chúng chuyển tải sức nóng của cơn giận cực độ.
Tôi đón lấy ánh nhìn chòng chọc của gã
và không thoái lui. Tôi học được rằng tỏ ra sợ hãi trong những trường hợp thế
này chẳng khôn ngoan chút nào.
Khuôn mặt nặng ì của gã quả thực mang
đặc tính của nấm, loại nấm giống như thịt. Y chang nấm Portobello[48]. Cái môi
tái nhợt không còn giọt máu của gã nằm thụt lùi ra sau bộ răng rất ít khi được
chăm sóc.
[48]
Nấm Portobello có thớ giống như thịt.
Gã với tay qua mặt tôi và khum tay phải
chộp lên gáy tôi.
Bàn tay Penny Kallisto khô và ấm. Tay
Robertson ướt và lạnh.
Đó không phải bàn tay thật của gã, dĩ
nhiên, đó chỉ là bộ phận của một bóng ma, một oan hồn hiện hình mà chỉ mình tôi
mới cảm nhận được; trạng thái của sự đụng chạm ấy bộc lộ tính cách của linh
hồn.
Tuy không e dè kiểu tiếp xúc bí hiểm
nhưng tôi rúm người lại trước ý nghĩ bàn tay đó đã mân mê mười món đồ lưu niệm
trong ngăn ướp lạnh. Kính thích thị giác bằng những chiến lợi phẩm đông lạnh
kia chắc không phải lúc nào cũng tạo cảm giác thỏa mãn. Có thể thỉnh thoảng gã
ủ ấm chúng để gia tăng khoái cảm sờ mó và để gợi lại kí ức sống động hơn của
từng vụ sát hại - ngắt, véo, vuốt ve, mơn trớn, đặt những nụ hôn âu yếm lên các
vật kỷ niệm ấy.
Không linh hồn nào, kể cả ma quỷ xấu xa,
có thể hãm hại một người sống chỉ bằng cách đụng chạm. Đây là thế giới của
chúng ta, không phải của chúng. Cú đấm của chúng trượt xuyên qua ta, cú ngoạm
của chúng không gây chảy máu.
Khi Robertson nhận ra không thể khiến
tôi khiếp hãi, gã bỏ tay ra khỏi cổ tôi. Cơn giận của gã tăng gấp đôi, gấp ba,
làm mặt gã méo như cái mặt nạ đầu người.
Có một cách để linh hồn hãm hại người
sống. Nếu bản chất của chúng đủ hiểm độc, nếu chúng dồn hết tâm can vào cái ác
cho đến khi ác tâm chín muồi thành khối u nan y trong linh hồn, chúng có thể
dồn năng lượng của cơn thịnh nộ quỷ quyệt và trút nó lên những vật vô tri vô
giác.
Ta gọi chúng
là yêu tinh. Tôi từng mất một dàn nhạc mới toanh cho thực thể loại đó, cũng như
tấm bằng đẹp đẽ khen thưởng khả năng sáng tác mà tôi giành được trong cuộc thi
viết văn thời phổ thông do anh Ozzie “bé” làm giám khảo.
Như đã làm
trong phòng để đồ thờ tại nhà thờ St. Bart, linh hồn phẫn nộ của Robertson càn
quét khắp gian bếp, và từ hai tay của gã tuôn ra những luồng năng lượng mà tôi
có thể nhìn thấy. Không khí rung chuyển cùng các xung lực ấy, một cảnh tượng
tương tự những gợn sóng đồng tâm loang khắp mặt nước từ điểm va chạm với hòn đá.
Cửa tủ bay
ra, ập vào, mở tung, đóng sầm, kêu la lớn tiếng hơn và vô nghĩa hơn cả quai hàm
của những tay chính khách huênh hoang. Đĩa ào ra khỏi kệ, từng cái chém phăng
không khí với tiếng vút của cú ném đĩa do vận động viên Olympic thực hiện.
Tôi thụp đầu
tránh một li rượu, nó đập vào cửa lò hấp vỡ bùm, phun ra khối mảnh vỡ lấp lánh.
Mấy cái li khác quay tròn cách xa tôi, tông vào tường, tủ, mặt kệ bếp.
Yêu tinh đều
là bọn tức giận mù quáng và thích đập phá, không nhằm mục tiêu cũng chẳng kiểm
soát. Chúng chỉ có thể hại bạn bằng một cú đấm may mắn lạc hướng. Thế nhưng cho
dù do lạc hướng và may mắn thì trò chém đầu cũng đủ sức hủy luôn đời bạn.
Phụ họa bằng
tiếng vỗ tay tán dương của hai cánh cửa tủ bằng gỗ, Robertson tung nguồn năng
lượng ra khỏi đôi tay. Hai cái ghế nhảy tưng tưng tại bàn ăn, nện xuống vải sơn
lót sàn, va lách cách vào chân bàn.
Trên bếp,
không ai đụng đến, bốn núm vặn điều khiển xoay tròn. Bốn vòng lửa bếp gas tỏa
thứ ánh sáng xanh rực ma quái trong gian bếp tăm tối.
Cảnh giác
với những thứ phụt ra có thể gây chết người, tôi né xa Robertson và hướng đến
cánh cửa đã đưa tôi vào nhà.
Một ngăn kéo
bật mở, tiếng khua khoắng chói tai của dao nĩa bùng ra, chúng lấp lóa và kêu
leng keng trong tình trạng sôi sục bay lên, như thể những hồn ma đói ngấu đang
cắt - xiên - múc bữa tối theo kiểu cũng vô hình như chính bọn chúng.
Tôi thấy
những đồ vật ấy tiến đến, chúng xuyên qua Robertson mà không ảnh hưởng gì đến
hình thể của gã, và tôi nghiêng sang bên, giơ hai cánh tay làm khiên che chắn
khuôn mặt. Bọn dao nĩa xem tôi như mẩu sắt, hút vào, quất tới tấp.
Một cây nĩa
phóng bay qua hàng phòng vệ, phập lên trán tôi và xước ngược một đường lên đầu
tôi.
Khi cơn mưa
thép không gỉ rào rào rơi dồn đống xuống sàn nhà phía sau lưng, tôi mới dám hạ
thấp cánh tay.
Hệt một tên
khổng lồ độc ác nhảy nhót theo điệu nhạc ám muội mà chỉ mình hắn nghe thấy,
Robertson đấm - cào - xoắn không khí, xem như muốn hú hét la ó, nhưng chỉ là
vẫy vùng trong sự thinh lặng tuyệt đối của một kẻ quá cố không còn nói nên lời.
Ngăn trên của
cái tủ lạnh lỗi thời bật mở, trào ra bia, nước ngọt, đĩa thịt hộp, miếng bánh
dâu, thức ăn bị tống tháo tung tóe và loảng xoảng khắp sàn. Khoen nổ bốp; bia
và nước ngọt tràn lan từ những cái lon xoay tròn.
Tủ lạnh cũng
bắt đầu rung bần bật, va đập dữ dội hết bên này đến bên kia, những ngăn rau quả
phía bên hông khua lách cách; khung kim loại trong tủ lạnh kêu ầm ĩ.
Đá mấy lon
bia lăn lông lốc và đống dao nĩa rơi vãi sang một bên, tôi tiếp tục hướng đến
cánh cửa dẫn ra nhà để xe.
Tôi lách
sang trái, trượt phải vũng nước bia sủi bọt và cái muỗng cong queo.
Với những bộ
phận thân thể đông lạnh rùng rợn vẫn còn nương náu trong ngăn ướp lạnh, cái tủ
lạnh trượt qua tôi và tông vào tường một cú mạnh đến mức khiến cột kèo sau lớp
vữa nứt răng rắc.
Tôi đâm đầu
ra ngoài, lao vào bóng mát trong nhà để xe và đóng sầm cánh cửa sau lưng.
Bên trong,
cuộc huyên náo còn tiếp tục, thình thịch và loảng xoảng, lách cách và rầm rầm.
Tôi không
mong linh hồn biến chất của Robertson bám theo, ít ra cũng đừng bám theo trong
một khoảng thời gian. Một khi dính vào cơn điên phá hoại, yêu tinh thường mất
kiểm soát đến khi chúng vắt kiệt sức mình và bỏ đi trong tình trạng rối bời để
lại trôi dạt đến một vùng ăn năn nằm giữa thế giới này và thế giới tiếp theo.
CHƯƠNG 51
Tại cửa hàng
nơi tôi đã mua No-Doz và Pepsi, tôi mua thêm một chai nước ngọt, thuốc sát
trùng Bactine và một hộp băng keo cá nhân loại miếng dán lớn.
Tay thu
ngân, một anh chàng mang khuôn mặt đầy vẻ ngạc nhiên, đặt mục thể thao trong tờ
Thời báo Los Angeles sang bên và lên tiếng. “Này, cậu đang bị chảy máu đấy.”
Tỏ ra lịch
sự không chỉ là cách đúng đắn để đáp trả người khác mà còn là cách dễ nhất.
Cuộc sống đã quá nhiều xung đột và tôi thấy không lí gì lại đi gây thù chuốc
oán thêm nữa.
Tuy nhiên
vào lúc đó, tôi đang trong tâm trạng khó chịu hiếm gặp. Thời gian đang trôi qua
vùn vụt với tốc độ khủng khiếp, giờ nổ súng nhanh chóng rút lại gần kề mà tôi
vẫn không có cái tên nào để gán cho đồng bọn của Robertson.
“Cậu có biết
cậu đang bị chảy máu không?” anh ta hỏi.
“Tôi đã nghi
là sẽ bị.”
“Trông khiếp
quá.”
“Tại tôi.”
“Trán cậu
sao thế?”
“Cái nĩa.”
“Cái nĩa ư?”
“Đúng vậy.
Phải chi tôi ăn bằng muỗng.”
“Cậu lấy nĩa
đâm mình à?”
“Nó bay
trượt lên.”
“Bay trượt
lên ư?”
“Cái nĩa
đó.”
“Cái nĩa bay
trượt lên à?”
“Nó phóng
lên trán tôi.”
Ngừng đếm
tiền trả lại, anh ta nheo mắt nhìn tôi.
“Đúng vậy,”
tôi nói. “Một cái nĩa trượt trúng trán tôi.”
Anh ta quyết
định không dây dưa thêm với tôi. Anh ta trả tiền thừa, gói hàng và quay lại với
trang thể thao.
Trong phòng
vệ sinh nam tại trạm xăng kế bên, tôi rửa khuôn mặt máu me, lau vết thương, khử
trùng bằng chai xịt Bactine rồi đè miếng gạc giấy vệ sinh lên. Mấy lỗ thủng và
vết trầy không sâu, máu chẳng bao lâu đã ngừng chảy.
Đây không
phải lần đầu, cũng không phải lần cuối, tôi ước ao năng lực siêu nhiên của mình
bao hàm luôn cả sức mạnh tự chữa lành.
Dán băng keo
cá nhân xong, tôi về lại chỗ chiếc Chevy. Ngồi sau vô lăng, bật động cơ, máy
điều hòa phà ngay mặt, tôi nốc Pepsi mát lạnh.
Chỉ có tin
xấu trên đồng hồ đeo tay của tôi - 10:48.
Cơ bắp ê ẩm.
Mắt đau xốn. Tôi cảm thấy mệt mỏi, yếu đuối. Có thể mưu kế của tôi không chuyển
sang chế độ chạy chậm, như bề ngoài của nó, nhưng tôi không thích cơ hội đối
đầu một-một với đồng bọn của Robertson, kẻ chắc hẳn tận hưởng đêm ngon giấc hơn
hẳn tôi.
Tôi uống hai
viên caffeine cách đây chưa quá một tiếng, thế nên tôi không thể ực thêm hai
viên. Vả lại, axit có sẵn trong bao tử tôi đã lên men thành chất ăn mòn đủ sức
gặm nhấm cả thép, đồng thời tôi kiệt sức và hay giật mình, đây không phải tình
trạng có lợi cho việc đấu tranh để sống còn.
Tuy không có
đối tượng nào, không tên, không tướng mạo, làm điểm nhắm cho sức hút siêu linh,
nhưng tôi vẫn lái xe hú họa đi khắp thị trấn Pico Mundo, hi vọng đến một nơi
giúp khai sáng.
Sa mạc chói
lóa thiêu đốt đến tột độ. Đến không khí dường như cũng nằm trên đống lửa, như
thể mặt trời, theo vận tốc ánh sáng, cách Trái đất chưa đầy tám phút rưỡi, đã
cưỡi mô tô đua đến đây tám phút trước, trao cho chúng tôi không gì ngoài cái
nhìn trừng trừng làm hoa cả mắt như lời cảnh báo ngắn gọn về cái chết nhanh
chóng sắp xảy ra.
Từng tia
sáng lóe lên, lung linh vụt qua kính chắn gió như để đàn áp mắt tôi. Tôi không
mang mắt kính. Ánh mắt nung nấu ấy nhanh chóng gây ra cơn nhức đầu mà khi so
sánh thì vết nĩa trên trán có vẻ chỉ còn là cảm giác ngưa ngứa.
Rẽ bâng quơ
từ đường này sang đường khác, tin vào trực giác dẫn dắt, tôi thấy mình đến
Trang trại Shady, một trong những khu dân cư mới tại vùng đồi thị trấn Pico
Mundo mà cách đây một thập kỷ, nơi đây chứa chấp không thứ gì nguy hiểm hơn bọn
rắn chuông. Giờ dân chúng sống tại đây, và có lẽ một trong số đó là tên quái
biến thái đang bày mưu giết người hàng loạt trong thú vui cao cấp hơn mức trung
lưu ở vùng ngoại ô.
Trang trại
Shady chưa bao giờ là trại chăn nuôi loài nào; giờ cũng vậy, trừ khi bạn gộp
nhà ở lại thành một bầy. Về phần bóng mát, vùng đồi này có ít bóng mát hơn hầu
hết các khu lân cận trong trung tâm thị trấn vì cây cối còn lâu mới cao lớn.
Tôi đậu xe
trên lối vào nhà bố tôi nhưng không tắt máy ngay. Tôi cần thời gian lấy can đảm
cho lần đối mặt này.
Như những
ngôi nhà khác tại đây, ngôi nhà theo phong cách Địa Trung Hải có ít nét đặc
sắc. Thấp dưới mái nhà lợp ngói đỏ là mặt tiền không trang trí, trát vữa màu be
và kính gắn vào nhau tại những góc bình thường không cần nhờ đến kiến trúc sư
đại tài mà chỉ cần căn theo kích thước và hình dáng lô đất.
Cúi gần hơn
khe thoát hơi mát, tôi nhắm mắt đón luồng khí lạnh. Ánh sáng ma trơi trôi dạt
qua sau mi mắt tôi, những kí ức khắc vào võng mạc về cái nhìn trừng trừng của
sa mạc, sau đó lắng dịu một cách kì lạ trong giây lát đến khi vết thương trên
ngực Robertson trồi lên từ vùng kí ức sâu hơn.
Tôi tắt động
cơ, ra khỏi xe, đi đến ngôi nhà của bố và bấm chuông.
Buổi sáng
giờ này, rất nhiều khả năng ông có mặt tại nhà. Ông chưa bao giờ làm việc một
ngày nào trong đời và hiếm khi rời khỏi giường trước chín, mười giờ.
Bố mở cửa,
kinh ngạc khi thấy tôi. “Odd, con đâu có gọi điện báo là sẽ đến.”
“Dạ phải,”
tôi tán thành. “Con không gọi.”
Bố tôi bốn
mươi lăm tuổi, phong độ với mái tóc dày, phần đen vẫn còn nhiều hơn phần bạc.
Ông có thân hình lực lưỡng săn chắc mà ông tự hào đến mức kiêu căng.
Chân trần,
mặc độc cái quần đùi kaki xệ xuống ngang hông. Làn da rám nắng được cần mẫn
thoa dầu, lên màu nổi bật, giữ lâu nhờ kem dưỡng.
“Sao con đến
đây?” bố tôi hỏi.
“Con không
biết.”
“Trông con
không khỏe lắm.”
Bố tôi lùi
khỏi cửa một bước. Ông sợ bệnh tật.
“Con không
bị ốm,” tôi cam đoan với ông. “Chỉ mệt rã rời thôi. Mất ngủ. Con vào được
không?”
“Bố chẳng có
việc gì nhiều, chỉ mới ăn sáng xong, sắp đi bắt vài con cá đuối.”
Bất kể đó có
phải lời mời hay không, tôi cũng không để tâm, tôi cứ thế bước qua ngưỡng cửa,
đóng lại sau lưng.
“Britney
đang trong bếp,” bố nói và dẫn tôi ra đằng sau.
Màn cửa được
kéo kín mít, các căn phòng nằm thẳng hàng với bóng mát xa xỉ.
Tôi đã nhìn
thấy nơi này vào lúc sáng sủa hơn. Trang hoàng đẹp đẽ. Bố tôi có phong cách và
yêu sự an nhàn sung túc.
Ông thừa kế
một quỹ ủy thác dồi dào. Khoản tiền rủng rỉnh hàng tháng chu cấp cho lối sống
mà nhiều người phải ganh tị.
Tuy đã có
nhiều nhưng bố tôi khao khát nhiều hơn. Ông ao ước được sống sướng hơn hiện
tại. Và bực dọc trước những điều khoản của quỹ quy định ông phải sống bằng tiền
lời và không được phép đụng đến tiền vốn.
Ông bà nội
tôi đã sáng suốt khi để lại di sản cho bố theo các điều khoản trên. Nếu có thể
chạm tay vào khoản tiền vốn thì bố tôi đã thành kẻ bần hàn không nhà từ lâu
rồi.
Ông đầy ắp
các kế hoạch làm giàu nhanh, kế hoạch mới nhất là bán đất trên mặt trăng. Nếu
có thể tự tung tự tác quản lí mớ của cải, ông sẽ mất kiên nhẫn với số tiền lời
mười hay mười lăm phần trăm trong tổng vốn đầu tư và sẽ liều mạng đổ cả đống
tiền vào những dự án bấp bênh, hi vọng tiền sinh sôi gấp đôi gấp ba chỉ trong
một đêm.
Gian bếp
lớn, trang bị đồ dùng chất lượng nhà hàng và đủ loại dụng cụ làm bếp có trên
đời, dù rằng một tuần ông ra ngoài ăn tối hết sáu bảy ngày.
Sàn gỗ, tủ
gỗ theo phong cách trên tàu với bốn góc vạt tròn, kệ bếp lát đá granit và các
vật dụng thép không rỉ góp phần vào không gian bóng bẩy và lôi cuốn.
Britney cũng
bóng bẩy và lôi cuốn theo kiểu khiến bạn sởn gai ốc.
Khi bố và
tôi vào bếp, cô ả đang đứng khuỵu một chân bên cửa sổ, nhấm nháp li rượu sâm
banh buổi sáng và dán mắt ra chỗ những tia nắng như bầy rắn uốn éo ngoằn ngoèo
giăng ngang mặt hồ bơi.
Bộ áo tắm
hai mảnh dây nhợ mỏng manh của ả nhỏ xíu đủ để kích thích mấy tay biên tập viên
chán ngắt của tạp chí Hustler, nhưng ả mặc đẹp đủ để làm bìa tạp chí Sports
Illustrated giới thiệu áo tắm.
Ả mười tám
nhưng trông trẻ hơn. Đây là tiêu chuẩn cơ bản của bố tôi về phụ nữ. Bọn họ
không bao giờ quá hai mươi và lúc nào cũng trông trẻ hơn tuổi thật.
Vài năm
trước, bố dính vào rắc rối khi ăn ở với một con bé mới mười sáu. Ông khẳng định
không hề biết tuổi thật của con bé. Vị luật sư biện hộ có mức giá ngất trời đã
nhét thêm tiền cho con bé và bố mẹ con bé tha cho bố tôi khỏi phải chịu nỗi sỉ
nhục của một tù nhân da xanh xao và tóc cắt ngắn.
Thay vì chào
hỏi, Britney tặng tôi vẻ mặt sưng sỉa và khó chịu. Ả hướng sự chú ý trở về hồ
bơi lốm đốm tia nắng.
Ả bực tức
với tôi vì nghĩ bố sẽ cho tôi khoản tiền mà lẽ ra bố cho ả. Mối bận tâm này
thật vô căn cứ. Bố sẽ không bao giờ chìa cho tôi một xu và tôi cũng sẽ không
bao giờ nhận một đồng nào hết.
Tốt hơn ả
nên lo về hai điều: thứ nhất, ả đã ở với bố tôi năm tháng; thứ hai, trung bình
một mối tình của bố kéo dài từ sáu đến chín tháng. Với sinh nhật thứ mười chín
đang lù lù tiến đến thì chẳng mấy chốc ả sẽ trông già hơn bố tôi.
Cà phê đã
pha. Tôi xin một cái tách, tự rót và ngồi xuống ghế ở quầy rượu nằm ngay giữa
bếp.
Luôn bồn
chồn với sự có mặt của tôi, bố đi quanh căn phòng, rửa li rượu của Britney khi
ả đã uống cạn, lau cái kệ bếp không cần lau, chỉnh sửa vị trí mấy cái ghế ở bàn
ăn sáng.
“Con sẽ làm
đám cưới vào thứ Bảy,” tôi thông báo.
Chuyện này
khiến bố kinh ngạc. Bố cưới mẹ chỉ một thời gian ngắn và hối tiếc về điều đó
trong suốt những giờ tuyên thệ. Hôn nhân không hợp với ông.
“Với con bé
Llewellin hả?” ông hỏi.
“Dạ phải.”
“Đó có phải
ý hay không?”
“Đó là ý
tưởng tuyệt nhất con từng nghĩ ra.”
Britney rời
mắt khỏi cửa sổ, quay lại nhìn tôi chăm chú với cặp mắt nhỏ và sáng mang vẻ xét
nét. Đối với cô ả, đám cưới đồng nghĩa với tặng phẩm, quà của bố mẹ, và cô ả
sẵn sang bảo vệ quyền lợi của mình.
Ả không làm
tôi giận chút nào. Ả khiến tôi buồn, vì tôi có thể nhìn thấy tương lai hết sức
khổn khổ của ả mà chẳng cần đến giác quan thứ sáu.
Thú thật, ả
còn khiến tôi sợ đôi chút, bởi ả ủ rũ và nhanh chóng nổi giận. Tệ hơn nữa, mức
độ trọn vẹn và dữ dội của lòng tự trọng nơi ả bảo đảm rằng ả chưa bao giờ e sợ,
rằng ả không thể tưởng tượng ra việc chịu đựng những hậu quả đau đớn về các
hành vi đã làm.
Bố tôi thích
phụ nữ ủ rũ, những người mang cơn giận kìm nén không nguôi ngay dưới vẻ mặt.
Trạng thái buồn rầu biểu thị rối loạn tâm lí càng nhiều bao nhiêu, chúng càng
kích thích bố tôi bấy nhiêu. Tình dục không đi kèm hiểm nguy đối với ông chẳng
còn hứng thú gì.
Tất cả nhân
tình của bố đều đáp ứng tiêu chí này. Ông không bỏ nhiều công sức tìm kiếm họ;
như thể cảm nhận được nhu cầu của ông, bị thu hút bởi mùi hương và rung động,
họ tìm thấy ông với mức độ đều đặn đáng tin cậy.
Bố từng nói
với tôi rằng một phụ nữ càng ủ ê bao nhiêu thì khi lên giường sẽ càng nóng bỏng
bấy nhiêu. Đó là kiểu lời khuyên của bố mà tôi có thể sống không cần đến nó.
Bây giờ,
trong lúc tôi rót cà phê vào chai Pepsi, bố cất giọng, “Con bé Llewellin có
thai đúng không?”
“Dạ không.”
“Con còn quá
trẻ để kết hôn,” bố nói. “Tuổi của bố, đó mới là lúc để ổn định.”
Bố nói điều
này vì lợi ích của Britney. Bố sẽ không bao giờ cưới ả. Về sau, ả sẽ nhớ điều
đó như một lời hứa. Khi bố bỏ rơi ả, cuộc chiến sẽ còn bi tráng hơn cả trận đấu
giữa Godzilla với Mothra.
Sớm muộn gì,
một trong những cô nàng nóng bỏng của bố, trong cơn đau khổ, cũng sẽ làm bị
thương hoặc giết chết bố. Tôi tin rằng trong sâu thẳm, dù theo tiềm thức, bố
cũng biết điều đó.
“Cái gì trên
trán đấy?” Britney
hỏi.
“Băng cá nhân.”
“Say rượu té ngã hay do cái khác?”
“Cái khác.”
“Đánh nhau
à?”
“Không. Một
vết thương nghề nghiệp do nĩa gây ra.”
“Một cái
gì?”
“Nĩa trượt
trúng trán.”
Sự điệp âm
có vẻ khiến người ta khó chịu. Vẻ mặt cô ả đanh lại. “Ăn trúng cái quái quỷ gì
thế hả?”
“Đầy ngập
caffeine,” tôi tự nhận.
“Caffeine,
ôi trời.”
“Pepsi cà
phê và No-Doz. Sôcôla nữa. Sôcôla chứa caffeine. Vài cái bánh quy sôcôla. Bánh
rán sôcôla.”
Bố lên
tiếng. “Thứ Bảy không được rồi. Bố không thể thu xếp vào ngày thứ Bảy. Bố và cô
ấy có những kế hoạch khác không hoãn được.”
“Được rồi,”
tôi nói, “con hiểu mà.”
“Giá như con
báo sớm hơn.”
“Không sao.
Con không mong bố có thể thu xếp đến dự được.”
“Dở hơi mà
đi báo tin đám cưới chỉ ba ngày trước bữa tiệc,” Britney lầm bầm.
“Bình tĩnh
nào,” bố khuyên can ả.
Guồng máy
tâm lí của ả không còn chạy ung dung nữa. “Ôi, khỉ thật, đúng là đồ quái gở.”
“Làm vậy
thật sự chẳng ích gì đâu,” bố khiển trách nhưng bằng giọng ngọt như mía lùi.
“Thật là vậy
mà,” ả khăng khăng. “Chúng ta chẳng đã nói về chuyện này cả trăm ngàn lần rồi
sao. Không có xe hơi, sống trong ga ra...”
“Trên
ga-ra,” tôi chỉnh lại.
“... ngày
nào cũng mặc đúng một thứ đồ, làm bạn với hết thảy lũ bất tài trong thị trấn,
một kẻ mong muốn trở thành cảnh sát giống như thằng bưng nước lăng xăng, chạy
quanh đội cầu thủ bóng đá, và đúng là quái gở hết mức...”
“Đừng gây gổ
vì con,” tôi lên tiếng.
“... hết mức
quái gở, cái cách đi đến đây mở miệng nói chuyện, nào là đám cưới, rồi vết
thương nghề nghiệp do nĩa gây ra. Xin phép đi.”
“Tôi quái
gở,” tôi nói một cách chân thành. “Tôi thừa nhận, chấp thuận điều đó. Chẳng lí
do gì để gây gổ. Bình tâm đi.”
Bố tôi không
thể giả vờ như thật khiến người khác tin lời khi ông nói, “Đừng nói vậy. Con
không phải kẻ quái gở.”
Bố không
biết năng lực siêu nhiên của tôi. Lên bảy tuổi, khi giác quan thứ sáu yếu kém
và chập chờn lúc trước đó của tôi trở nên mạnh mẽ và bền bỉ, tôi đã không chạy
đến chỗ ông xin lời khuyên.
Tôi giấu
biến bố về sự khác biệt của mình một phần vì tôi nghĩ ông sẽ liên tục ép tôi
chọn ra những tấm vé số trúng thưởng, điều tôi không thể làm được. Tôi nghĩ ông
sẽ khoe tôi trước giới truyền thông, đánh cược năng lực của tôi trên chương
trình TV, hay thậm chí bán cổ phiếu về tôi cho những tay đầu cơ sẵn lòng tài
trợ chương trình tự giới thiệu và một tên đồng bóng.
Ra khỏi ghế,
tôi nói. “Con nghĩ giờ có lẽ con biết tại sao mình đến đây rồi.”
Khi tôi bắt
đầu hướng đến cửa bếp, bố đi theo. “Bố thật lòng ước gì con chọn ngày thứ Bảy
khác.”
Quay lại
nhìn mặt ông, tôi nói, “Con nghĩ con đến đây vì con sợ đến chỗ mẹ.”
Britney bước
đến sau bố, áp sát thân hình gần như khỏa thân của ả vào người bố. Ả vòng tay
quanh người ông, bàn tay đặt trên ngực ông. Ông không cố đẩy ả ra.
“Có một
chuyện con đang vướng mắc,” tôi lên tiếng, đúng ra là nói với chính mình nhiều
hơn với hai người kia. “Một chuyện con cực kì, cần biết… hoặc cần làm. Và vì lí
do nào đó, theo cách nào đó, nó liên quan đến mẹ. Biết đâu mẹ có câu trả lời.”
“Câu trả lời
ư?” bố lên giọng hoài nghi. “Con biết quá rõ mẹ con là nơi khó tìm thấy câu trả
lời nhất mà.”
Đứng sau vai
trái của bố cười ranh mãnh, Britney trượt bàn tay chầm chậm lên, xuống bộ ngực
vạm vỡ và vòng bụng phẳng lì của ông.
“Ngồi đi,”
ông nói. “Bố sẽ rót cho con một li cà phê khác. Con có vấn đề gì cần nói thì
nói đi.”
Bàn tay phải
của Briney di chuyển từ từ trên bụng bố, mấy ngón tay đùa nghịch bên dưới cạp
quần đùi kéo trễ xuống hông của ông.
Bố muốn tôi
thấy sự thèm muốn mà ông khơi lên được ở cô nàng trẻ trung căng tràn sức sống
ấy.
Bố tự hào về
sinh lực của mình và niềm tự hào ấy dữ dội đến mức lấp đầy tâm trí ông, khiến
ông hoàn toàn không nhận ra sự bẽ mặt của con trai mình.
“Hôm qua là
ngày giỗ của Gladys Presley,” tôi nói. “Con trai bà ấy khóc như mưa suốt nhiều
ngày sau khi mất mẹ, và ông đau buồn ra mặt cả năm trời.”
Thoáng khó
chịu tạo ra vết hằn mờ nhạt trên vầng trán tiêm Botox của bố, thế nhưng Britney
quá mải mê với trò chơi của ả nên không chú ý đến những lời tôi nói. Cặp mắt ả
sáng rực bởi cái gọi là nô đùa hay niềm vui chiến thắng trong lúc tay phải của
ả dần tuột sâu hơn trên chiếc quần đùi kaki của bố.
“Ông ta cũng
thương bố mình. Mai là ngày giỗ của Elvis. Con nghĩ con sẽ cố đến thăm và nói
cho ông biết ông ấy đã may mắn biết bao ngay từ ngày được sinh ra.”
Tôi bước ra
khỏi bếp, ra khỏi nhà.
Bố không đi theo. Tôi không mong bố đi
theo.