Bức thư tình cuối - Phần III - Chương 20 - Phần 2
Jennifer hạ giọng. “Xin hãy hiểu tớ. Chẳng có lí do gì vì sao tớ và Laurence không thể sống mỗi người một nơi. Xã hội đã thay đổi. Chúng ta không nhất thiết cứ phải chịu đựng... Tớ chắc chắn Laurence sẽ còn lấy làm vui sướng hơn khi không có tớ. Và điều đó chẳng ảnh hưởng đến ai cả. Thật đấy. Cậu và tớ vẫn thế. Tớ còn đang nghĩ có lẽ chúng mình có thể đưa bọn trẻ cùng đi chơi vào cuối tuần này. Bảo tàng Madame Tussauds chẳng hạn. Tớ biết Esme khát khao được nhiền thấy Dottie...”
“Madamen Tussauds?”
“Hay khu vườn Kew chẳng hạn. Chỉ mong thời –”
“Thôi đi.” Yvonne lịch sự giơ tay lên. “Đừng nói nữa. Tớ không thể nghe thêm một lời nào. Lạy Chúa tôi. Cậu thực sự là người đàn bà ích kỉ nhất mà tớ từng thấy.”
Cô dụi thuốc lá, đứng dậy và với lấy chiếc áo khoác. “Cậu nghĩ cuộc sống là gì hả Jennifer? Một câu chuyện thần tiên à? Cậu nghĩ những người khác cũng không chán chường những ông chồng của họ à? Vì sao cậu lại cư xử như thế và mong chờ những người khác tiếp tục sống như bình thường trong khi cậu bỏ đi lang thang như thể - như thể cậu là người tự do vậy? Nếu cậu muốn sống trong một xã hội tha hóa, thì được thôi. Nhưng cậu còn có một đứa con. Một người chồng và một đứa con. Và cậu không thể trông chờ những người khác tha thứ cho hành động của cậu.”
Jennifer há hốc miệng.
Yvonne quay đi, như thể cô không thể nhìn Jennifer thêm một lần nào nữa.
“Và tớ sẽ không phải là người duy nhất có cảm giác như thế. Tớ nghĩ cậu nên suy nghĩ thật cẩn thận về những việc cậu sẽ làm tiếp theo đây.”
Cô cầm chiếc áo khoác trên tay và đi.
Ba tiếng sau, Jennifer đưa ra quyết định của mình.
Sân bay Embakasi vào giữa trưa là một khu vực hỗn độn với các loại hoạt động. Sau khi lấy hành lí từ chiếc băng chuyền cũ kĩ chạy giật cục, Jennifer tìm đường tới khu vực vệ sinh, xối nước lạnh lên mặt và đổi một chiếc áo mới. Cô búi lại tóc, cổ cô nhớp nháp bởi cái nóng ở đây. Khi cô đứng dậy, chiếc áo mới dính chặt vào lưng trong một vài giây.
Sân bay chật ních người đứng lộn xộn trong hàng hay theo nhóm, í ới gọi nhau hay ồn ào nói chuyện. Cô đờ người ra một lúc, nhìn những người phụ nữ Châu Phi ăn mặc sặc sỡ đang chen lấy xô đẩy với những chiếc hành lí trên tay và những chiếc túi đựng quần áo to buộc bằng dây thừng đặt chông chênh trên đầu. Một vài doanh nhân người Nigeria tụ lại một góc hút thuốc, da họ bóng loáng trong khi những đứa trẻ chạy ra chạy vào. Một người phụ nữ với chiếc xe cút kít nhỏ bán đồ uống đẩy cô sang một bên. Sảnh đi vừa thông báo một vài chuyến bay bị trễ và không nói thêm bao giờ chúng có thể bay trở lại.
Trái ngược với không khí ồn ào bên trong sân bay, bên ngoài lại khá yên tĩnh. Thời tiết xấu dường như đã qua đi, hơi nóng ngoài trời thổi tan sự ẩm ướt và Jennifer có thể nhìn rõ những đỉnh núi tím hồng phía xa. Đường băng trống trơn, chỉ có duy nhất chiếc máy bay vừa chở cô tới; dưới đó, một quân nhân đang cặm cụi kiểm tra trang thiết bị. Ở phía bên kia tòa nhà với kiến trúc khá hiện đại là một khu vườn đá nhỏ, điểm xuyết bởi những cây mọng nước và cây xương rồng. Cô ngắm nghĩa những tảng đá được sắp xếp một cách cầu kì và tự hỏi ai vẫn còn đủ tâm trí để chăm chút chúng tại một nơi hỗn loạn như thế này.
Quầy bán vé của hãng Hàng không Hải ngoại Anh và hãng Hàng không Đông Phi đã đóng cửa, buộc cô phải quay lại, len lỏi qua đám đông về phía quầy rượu. Cô chiếm một chiếc bàn, gọi li cà phê và ngồi xuống, vây quanh bởi rất nhiều hành lí, giỏ thúng và một con gà sặc sỡ với chiếc cánh đã bị buộc chặt vào người.
Cô sẽ nói gì với anh đây? Cô mường tượng cảnh anh đang ngồi trong một quầy bar chuyên dành cho cánh phóng viên nước ngoài, cách xa hàng dặm so với những gì đang diễn ra, nơi các nhà báo tụ tập uống bia rượu và bàn về chiến sự trong ngày. Anh còn uống rượu không? Thế giới này rất nhỏ bé, anh đã từng bảo cô. Nếu cô tới được Stanleyville chắc chắn sẽ có người biết anh. Sẽ có người có thể chỉ cho cô biết anh đang ở đâu. Cô mường tượng cuối cùng, sau một chặng đường vắt kiệt sức lực, cô cũng đứng trước quầy bar, và hình ảnh ngọt ngào này cứ trở đi trở lại trong tâm trí cô, giúp cô vững bước cho tới tận bây giờ. Cô có thể nhìn thấy anh một cách rõ ràng, anh đứng dưới chiếc quạt kêu vù vù, đang tán gẫu với một đồng nghiệp, anh sửng sốt khi nhìn thấy cô. Cô hiểu nét mặt của anh: trong vòng bốn mươi tám tiếng qua, cô hầu như không thể nhận ra cô.
Dù vậy, kể từ khoảnh khắc cô bước lên máy bay, mặc cho nỗi sợ hãi ngự trị, cô đã luôn cảm thấy phấn chấn một cách tò mò, như thể đó là: định mệnh cuộc sống. Và khi cái khoảnh khắc của cảm xúc mãnh liệt ấy qua đi, cô thấy mình thực sự là một phần của Anthony O’Hare.
Cô sẽ tìm ra anh. Cô đã chủ động chế ngự hoàn cảnh, thay vì để bản thân chìm đắm trong những đau khổ do hoàn cảnh gây ra. Cô sẽ tự quyết định tương lai của chính mình. Cô cố không nghĩ tới Esme, tự hiểu đấy là điều cần làm cho tới khi cô có thể mang Anthony tới giới thiệu với con bé.
Một nam nhân viên trẻ tuổi, trong đồng phục màu đỏ boọc-đô trang nhã, xuất hiện tại quầy bán vé của hãng Hàng không Hải ngoại Anh quốc. Cô bỏ dở li cà phê và chạy vội về phía đó.
“Tôi cần một vé đi Stanleyville,” cô nói, lục túi tìm ví tiền. “Chuyến bay sớm nhất có thể. Anh có cần xem hộ chiếu không?”
Người thanh niên nhìn cô chăm chú. “Không, thưa bà,” anh ta nói, đầu không ngừng lắc lư sang hai bên. “Không có chuyến bay nào tới Stanleyville.”
“Nhưng người ta nói hãng của anh có chuyến bay thẳng tới đó.”
“Tôi rất tiếc, toàn bộ chuyến bay tới Stanleyville đã bị hủy.”
Cô bàng hoàng, nhìn anh không thể thốt nên lời nào cho đến khi anh phải nhắc lại lần thứ hai. Cô nhanh chóng kéo hành lí sang quầy của hãng Hàng không Đông Phi. Nữ nhân viên ở đó cũng có cùng câu trả lời: “Không, thưa bà. Không có chuyến bay nào vì tình trạng bất ổn ở đó.” Cô ta nhấn mạnh từng âm trong từ bất ổn. “Chỉ có những chuyến bay từ đó về đây.”
“Vậy thì bao giờ họ sẽ cho bay trở lại? Tôi cần đến Congo gấp.”
Hai nhân viên tại quầy kín đáo nhìn sang nhau. “Không có chuyến bay nào tới Congo,” họ nhắc lại.
Cô không đi một chặng đường xa như thế chỉ để nhận những cái lắc đầu và những cái nhìn vô cảm như thế này. Mình không thể từ bỏ việc tìm anh ấy.
Ở bên ngoài, một người đàn ông đang làm sạch đường băng với chiếc chổi cùn xơ xác.
Đúng lúc đó cô nhìn thấy một người da trắng bước từng bước dứt khoát băng qua sảnh nhà ga, với dáng điệu nghiêm trang của một nhân viên đang trong ca làm việc, tay cầm một chiếc bìa bằng da. Ông đổi hướng và đi về phía cô. “Bà Ramsey?” ông giơ thay ra bắt. “Tôi là Alexander Frobisher, nhân viên lãnh sự quán. Các con bà đâu?”
“Không. Tôi là Jennifer Stirling.”
Ông vội mím chặt môi và dường như đang cố tự hỏi có phải cô đang nhầm lẫn không. Khuôn mặt ông béo mập, có thể do tuổi tác.
“Tôi rất cần sự giúp đỡ của ông, ông Frobisher,” cô níu ông lại. “Tôi cần phải tới Congo. Ông có biết có chuyến tàu hỏa nào tới đó không? Mọi người bảo tôi không có chuyến bay nào. Nhưng thực ra hình như mọi người không kể hết cho tôi nghe.” Cô cảm thấy mặt bắt đầu nóng lên, tóc rớt xuống mặt và cổ.
Khi ông cất lời, dường như ông đang cố giải thích cho một người mất trí. “Bà...”
“Stirling.”
“Bà Stirling, không ai tới Congo lúc này cả. Bà không biết ở đó có –”
“Có, tôi biết có bạo loạn ở đó. Nhưng tôi cần tìm một người, một nhà báo, hình như anh ấy tới đó cách đây hai tuần. Việc này cực kì quan trọng. Tên anh ấy là –”
“Thưa bà, không còn nhà báo nào lưu tại Congo nữa.” Ông bỏ mắt kính ra và kéo bà tới cửa sổ. “Bà có biết chuyện gì đã xảy ra không?”
“Một chút. Ồ, không, tôi đã đi một chặng đường dài từ Anh. Một chặng đường vòng vèo.”
“Cuộc chiến đã lan tỏa tới Mỹ và tới chính phủ Anh cũng như các nước khác. Tính tới thời điểm ba ngày trước đây, chúng tôi thực sự khủng hoảng với ba trăm năm mươi con tin da trắng, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em, những người có thể bị hành hình bởi quân phiến loạn Simba. Quân đội Bỉ tới giúp sức đánh lại chúng trên đường phố Stanleyville. Một trăm dân thường đã thiệt mạng.”
Cô hầu như không nghe thấy ông nói gì. “Nhưng tôi có thể trả tiền - tôi sẽ trả, bao nhiêu cũng được. Tôi cần tới đó.”
Ông nắm lấy tay cô. “Bà Stirling, tôi đã bảo là bà không thể tới Congo được. Không thể tới đó bằng tàu hỏa, bằng máy bay hay kể cả bằng đường bộ. Quân đội được thả xuống đó bằng cầu hàng không. Ngay cả khi có phương tiện, tôi cũng không thể phê chuẩn cho một công dân Anh - một quý bà Anh - đi vào vùng chiến sự.” Ông nguệch ngoạc viết vào sổ ghi chép. “Tôi sẽ kiếm chỗ cho bà nghỉ tạm và giúp bà đặt chuyến bay về lại Anh. Châu Phi không phải là nơi dành cho một người phụ nữ da trắng lang thang một mình.” Ông thở dài mệt mỏi, vì hình như cô vừa đặt thêm một gánh nặng trên vai ông.
Jennifer suy nghĩ mông lung. “Bao nhiêu người đã chết?”
“Chúng tôi không biết.”
“Ông có tên của họ không?”
“Tôi chỉ có danh sách sơ bộ nhất. Còn thiếu rất nhiều.”
“Làm ơn.” Tim cô như ngừng đập. “Làm ơn cho tôi xem. Tôi muốn biết liệu anh ấy...”
Ông rút ra một mảnh giấy nhàu nát từ trong tập tài liệu. Cô nhìn lướt qua, mắt cô nhảy múa trước một danh sách quá nhiều tên xếp theo thứ tự chữ cái.Harper. Hambro. O”Keefe. Lewis. Tên anh không có trên đó.
Tên anh không có trên đó.
Cô liếc nhìn Frobisher. “Ông có danh sách những người bị bắt làm con tin không?”
“Bà Stirling, tôi thậm chí còn không biết có bao nhiêu công dân Anh trong thành phố. Nhìn này.” Ông tiếp tục lấy ra một mảnh giấy khác và đưa cô, tay còn lại đập mạnh một con muỗi đang đậu trên cổ. “Đây là thông cáo mới nhất gửi cho Tướng công Walston.”
Cô đọc, từng câu chữ nhảy ra trước mắt cô:
Năm ngàn người chết chỉ riêng ở Stanleyville... Chúng tôi tin rằng có khoảng hai mươi bảy công dân Anh vẫn đang ở trên lãnh thổ do quân phiến loạn cầm quyền... Chúng tôi không thể dự đoán khi nào những khu vực thuộc về người Anh sẽ nằm trong tầm kiểm soát của chúng tôi, dù chúng tôi có thể biết chắc vị trí của chúng.
“Quân đội Bỉ và quân đội Mỹ đã tới thành phố hỗ trợ. Họ đang cố lấy lại Stanleyville. Chúng tôi luôn có máy bay Beverley túc trực sẵn để giải cứu những ai muốn ra khỏi thành phố.”
“Làm sao tôi có thể chắc chắn anh ấy đã lên những chiếc máy bay đó?”
Ông vò đầu. “Cô không thể biết. Một vài người dường như không hề muốn được giải cứu. Họ thích ở lại Congo hơn. Có thể họ có lí do riêng của họ.”
Cô chợt nghĩ tới người biên tập béo mập ở tòa soạn. Ai biết được? Có thể cậu ta muốn trốn khỏi đây.
“Nếu bạn cô muốn ra khỏi thành phố, anh ấy chắc sẽ làm được,” ông nói và lấy khăn mùi xoa lau mồ hôi trên mặt. “Còn nếu anh ấy muốn ở lại, có rất nhiều khả năng anh ấy sẽ biến mất - một điều dễ dàng xảy ra ở Congo.”
Cô vừa định hỏi tiếp thì nghe thấy một tiếng rên to từ phía cửa sảnh đến vọng lại, theo sau đó là một gia đình. Đầu tiên là hai đứa trẻ bị băng bó kín cả hai tay, đầu và mặt. Một phụ nữ tóc vàng ẵm một đứa bé hơn trên tay, mắt mở to, tóc bết lại và mặt thể hiện rõ sự lo lắng. Vừa nhìn thấy họ, một phụ nữ già đứng đợi bên ngoài nhanh chóng vùng tay ra khỏi người chồng bà đang tựa vào và lao qua hàng rào kiểm soát ôm chồm lấy họ. Sự xúc động bao trùm cả gia đình. Rồi người mẹ trẻ quỳ sụp xuống, bắt đầu khóc rất to, nức nở đau đớn, đầu gục lên vai người phụ nữ già hơn.
Frobisher nhét giấy tờ lại vào cặp hồ sơ. “Gia đình Ramseys đây rồi. Xin lỗi cô. Tôi phải ra giúp đỡ họ.”
“Có phải họ vừa từ đấy về?” Cô hỏi, nhìn theo người đàn ông đang nhấc bổng đứa cháu bé nhỏ đặt lên vai. “Cuộc thảm sát ấy?” Khuôn mặt của những đứa trẻ, gần như bất động bởi sự chấn động kinh hoàng mà bọn nó không biết lí do vì sao, khiến tim cô như hóa đá.
Ông nhìn sang cô kiên quyết. “Bà Stirling, bà phải đi ngay bây giờ. Hãng Hàng không Đông Phi có chuyến bay về Anh và tối nay. Trừ khi cô có bạn bè tại thành phố này, còn không tôi khẩn thiết đề nghị cô bắt chuyến bay đó về ngay.”
Phải mất hai ngày cô mới về tới nhà. Kể từ thời điểm đó, cô bắt đầu một cuộc sống mới. Yvonne đã giữ đúng lời nói. Cô đã không hề liên lạc lại với cô dù chỉ một lần. Một lần tình cơ cô gặp Violet, người bạn này của cô cũng thể hiện rõ sự không thoải mái khi nhìn thấy cô nên cô cũng không chủ động nói chuyện nữa. Cô không bận tâm nhiều về chuyện này như cô tưởng: họ thuộc về cuộc sống cũ, mà đến chính cô cũng khó nhận ra cô đã từng thuộc về cuộc sống ấy.
Hầu như ngày nào bà Cordoza cũng tới căn hộ mới của mẹ con cô, tìm đủ lí do để có thời gian ở lại chơi với Esme hay giúp cô một vài việc lặt vặt. Jennifer nhận ra trong những lúc khó khăn như thế này, chính người giúp việc là người đã ở bên cạnh cô, động viên cô chứ không phải những người bạn cũ. Vào một buổi chiều ẩm ướt, khi Esme đang ngủ, cô kể cho bà Cordoza về Anthony và bà cũng kể với cô về người chồng của bà. Rồi, hơi một chút đỏ mặt, bà kể về một người đàn ông tao nhã làm cho một nhà hàng cách nhà bà hai dãy đã gửi cho bà những bó hoa. “Tôi không có ý định khuyến khích ông ấy,” bà nói khẽ, “nhưng kể từ khi tất cả...”
Laurence liên lạc với cô thông qua những mẩu giấy nhờ bà Cordoza chuyển hộ.
Tôi muốn đưa Esme tới dự buổi tiệc cưới ông anh họ tôi tại Winchester thứ Bảy này. Tôi sẽ trông chừng để con bé về trước bảy giờ tối.
Những câu từ lạnh lùng, xa cách và chừng mực. Thỉnh thoảng Jennifer đọc chúng và tự hỏi làm sao cô có thể cưới người đàn ông này.
Tuần nào cô cũng đi bộ tới bưu điện phố Langley để kiểm tra xem có bức thư nào gửi tới hòm thư của cô không. Tuần nào cô cũng trở về nhà, cố không để bản thân suy sụp mỗi khi nghe nhân viên bưu điện trả lời “Không có.”
Cô chuyển tới sống trong một căn hộ cho thuê, và khi Esme bắt đầu đi học, cô nhận một công việc không được trả công tại Phòng Tư vấn Công dân, tổ chức duy nhất có vẻ không quan tâm tới việc thiếu kinh nghiệm làm việc của cô. Cô sẽ học hỏi dần, người giám sát nói. “Và, tin tôi đi, cô sẽ học rất nhanh.” Chưa tới một năm sau đó, cô được đề nghị làm một công việc được trả lương đàng hoàng cho cùng tổ chức đó. Cô tư vấn về những vấn đề thực tiễn, như làm thế nào để quản lí tiền nong, để giải quyết những tranh chấp liên quan tới tiền thuê nhà - có rất nhiều chủ nhà cho thuê không đàng hoàng - và làm thế nào để vượt qua những khủng hoảng trong gia đình.
Thời gian đầu cô gần như kiệt sức với một loạt những vấn đề tưởng như không bao giờ chấm dứt, những mảnh đời và thân phận đau khổ cần cô tư vấn, nhưng dần dần cô thấy tự tin hơn và hiểu rằng cô không đơn độc trong cái thế giới phức tạp này. Cô tự nhìn lại mình và cảm ơn cuộc đời đã cho cô tới đây, làm ở đây, để cô thấy tự hào mỗi khi có ai đó quay lại và cám ơn vì cô đã giúp họ.
Hai năm sau, cô và Esme chuyển tới một căn hộ mới hai phòng ngủ ở đường St Johns Wood, mua bằng tiền của Laurence và tiền thừa kế của cô do một bà cô để lại. Ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, cô dần chấp nhận thực tế rằng Anthony O’Hare sẽ không quay trở lại. Anh sẽ không trả lời tin nhắn của cô. Một lần duy nhất cô tình cờ đọc trên các báo tường thuật chi tiết về vụ thảm sát ở khách sạn Victoria ở Stanleyville. Sau đó cô không đọc báo thêm một lần nào nữa.
Cô cũng thử gọi điện tới tờ Nation thêm một lần nữa. Một nữ thư kí nhấc máy, khi cô nói tên, hi vọng Anthony biết đâu đang ở đó, cô nghe thấy vọng trên điện thoại, “Có phải cái bà tên Stirling đó không?”
Và tiếp tục. “Có phải đó chính là người anh ấy không muốn nói chuyện với, đúng không?”
Cô đặt ống nghe xuống.
Phải tới bảy năm sau cô mới gặp lại chồng lần nữa. Esme nhập học vào một trường nội trú tại một khu vực mở rộng ở Hampshire với những ngôi nhà đồng quê xinh xắn. Jennifer xin nghỉ làm buổi chiều để đưa con bé tới trường và họ đi chiếc xe Mini mới mua của cô. Cô mặc một trang phục trang nhã màu rượu chát và hi vọng Laurence sẽ không có những lời nhận xét khiếm nhã về nó - ông không bao giờ thích cô mặc màu này. Làm ơn đừng làm thế trước mặt Esme, cô hi vọng. Làm ơn hãy lịch sự.
Nhưng người đàn ông đang ngồi ở sảnh chờ mẹ con cô không có vẻ gì giống Laurence mà cô biết. Thực tế là cô đã không nhận ra ông. Nước da tái xám, má lõm lại, dường như ông đã già đi hai chục tuổi.
“Chào bố.” Esme ôm hôn ông.
Ông gật đầu chào Jennifer nhưng không giơ tay ra.
“Jennifer,” ông chào.
“Laurence.” Cô cố giấu sự sửng sốt.
Cuộc gặp mặt diễn ra rất nhanh gọn. Hiệu trưởng của trường, một phụ nữ trẻ với cái nhìn dò xét, không thắc mắc gì về việc họ sống ở hai địa chỉ khác nhau. Có lẽ bây giờ chuyện này đã khá phổ biến, cô nghĩ. Trong tuần này, cô đã gặp tới bốn trường hợp tới Văn phòng của cô để tìm lời khuyên cho việc li dị chồng.
“Đừng lo, chúng tôi sẽ làm mọi thứ có thể để đảm bảo Esme có thời gian thú vị ở đây,” bà Browning nói. Bà có đôi mắt hiền hậu, Jennifer trộm nghĩ.
“Việc các cô bé chọn vào học trường nội trú là việc rất nên làm, tôi biết cô bé có thể đã có bạn ở đây nên sẽ nhanh chóng thích nghi thôi.”
“Con bé đọc rất nhiều truyện của Enid Blyton,” Jennifer nói. “Trong đầu nó chắc lúc nào cũng tơ tưởng tới những buổi dạ tiệc ban đêm.”
“Ồ, chúng tôi cũng tổ chức khá nhiều những bữa tiệc như thế. Cửa hàng bánh kẹo trong trường mở cửa vào chiều thứ Sáu cũng chủ yếu cho mục đích đó. Chúng tôi sẽ nới lỏng cho học sinh, miễn là chúng không làm quá ồn ào. Chúng tôi muốn các cô gái cảm thấy thích thú khi được học nội trú.”
Jennifer thấy nhẹ nhõm. Đây là trường Laurence chọn và cô luôn lo sợ một nỗi lo vô hình. Vài tuần tới sẽ là một quãng thời gian khó khăn cho cô, nhưng cô đã quen với sự vắng mặt của Esme mỗi khi con bé tới ở với bố, bản thân cô cũng bận rộn với công việc của mình.
Bà hiệu trưởng đứng dậy và giơ tay ra bắt. “Cám ơn ông bà. Chúng tôi sẽ gọi điện nếu có bất kì chuyện gì xảy ra, chắc chắn thế.”
Khi cánh cửa văn phòng đóng lại sau lưng họ, Laurence bắt đầu ho dữ dội, từng tràng ho khan nặng nề khiến Jennifer nghiến quai hàm. Cô muốn nói một điều gì đó nhưng ông giơ tay ra hiệu không phải làm thế. Họ dìu nhau từng bước chậm rãi xuống cầu thang, như thể không phải họ đang xa lánh nhau. Cô có thể bước với tốc độ nhanh gấp đôi nhưng thấy như thế thật không phải, khi cô thấy ông thở nặng nhọc và mệt mỏi. Cuối cùng, khi không chịu được nữa, cô gọi một cô bé vừa đi ngang qua và nhờ cô bé kiếm cho họ một li nước. Laurence nặng nhọc ngồi xuống chiếc ghế gụ dài để dọc hành lang và nhấp từng ngụm nước.
Giờ thì Jennifer đã đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào mắt ông. “Có phải vì...?” cô hỏi.
“Không.” Ông thở ra một cách đau đớn. “Là do hút thuốc. Tôi luôn hiểu hậu quả cay đắng của thói quen đó.”
Cô ngồi xuống cạnh ông.
“Cô nên biết rằng tôi sẽ luôn đảm bảo để mẹ con cô có một cuộc sống tốt nhất.”
Cô liếc nhìn sang ông, còn ông có vẻ vẫn đắm chìm trong suy nghĩ.
“Chúng ta đã nuôi dạy một đứa con ngoan,” cuối cùng ông nói.
Ở bên ngoài cửa sổ, họ thấy Esme đang đùa giỡn cùng hai cô bạn trên bãi cỏ. Cả ba chạy ngang qua bãi cỏ, váy bồng bềnh trong gió.
“Em xin lỗi,” cô nói, quay về phía ông. “Về tất cả mọi thứ.”
Ông đặt li nước sang bên cạnh và vất vả đứng dậy. Ông đứng đó một lúc, quay lưng về phía cô và nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm các cô bé, rồi ông quay về phía cô, không nhìn thẳng vào mắt cô ông khẽ gật đầu.
Cô nhìn ông lê từng bước ra cánh cửa chính về phía bãi cỏ nơi bồ ông đang đợi trong xe và con gái ông đang nhảy chân sáo bên cạnh. Cô vẫy tay theo khi chiếc Daimler với tài xế riêng dần chạy khuất.
Hai tháng sau đó Laurence mất.
Tớ căm thù cậu và tớ biết cậu vẫn thích tớ nhưng tớ không thích cậu nữa, tớ không cần biết những người bạn ngu ngốc của cậu nói gì, cậu làm mọi cách để tớ chạm vào tay cậu vì những lí do ngốc nghếch, rồi cậu ôm tớ. Tớ sẽ không bao giờ thích cậu nữa. TỚ CĂM THÙ CẬU TỚ CĂM THÙ CẬU HƠN BẤT KÌ CÁI GÌ TRONG CÁI THẾ GIỚI CHẾT TIỆT NÀY, tớ thà hẹn hò với một con nhện hay một con chuột còn hơn với cậu.
Cậu quáaaaaa xấu và mập!
Thư một cô gái gửi một chàng trai.