Bức thư tình cuối - Phần III - Chương 20 - Phần 1
Chương 20
“Thưa bà? Bà có muốn uống gì không ạ?”
Jennifer mở mắt. Cô đã nắm chặt hai tay
ghế gần như một tiếng đồng hồ khi chiếc máy bay của hãng Hàng không Hải ngoại
Anh tìm cách bay tới Kenya. Cô chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi đi máy bay,
nhưng lần này chiếc máy bay liên tục bị dập lên dập xuống khiến sự căng thẳng
trong máy bay lên cao tới mức ngay cả những người châu Phi đi cùng cũng phải
nghiến chặt răng mỗi lần máy bay bị xóc. Cô nhăn mặt khi bị hất tung lên khỏi
ghế, từ phía cuối máy bay vọng lên tiếng khóc thét từ những người quá sợ hãi.
Những điếu thuốc được châm vội khiến khoang hành khách càng thêm ngột ngạt bởi
khói thuốc.
“Vâng, làm ơn,” cô trả lời.
“Tôi sẽ cho bà hai li,” nữ tiếp viên
nháy mắt. “Chặng đường sắp tới sẽ còn rất xóc.”
Cô làm một hơi hết nửa li nước. Mắt cô
vẫn tỉnh táo sau một chặng bay kéo dài tới gần bốn tám tiếng đồng hồ. Trước khi
bay cô đã có vài đêm thức trắng ở Luân Đôn, mải miết suy nghĩ, tự vấn bản thân
có thực là những ý định cô đang theo đuổi là một điều điên rồ như tất cả mọi
người đã nghĩ.
“Cô có muốn thử một chút không?” Một
doanh nhân ngồi cạnh giơ chiếc hộp bằng thiếc, nắp đã được mở mời cô. Bàn tay
của ông rất to, những ngón tay trông như chiếc xúc xích sấy khô.
“Cảm ơn ông. Cái gì vậy ạ? Kẹo bạc hà
à?” cô hỏi.
Ông mỉm cười dưới hàng ria mép trắng và
dày. “Ồ, không.” Giọng ông khá nặng, chắc hẳn ông là người gốc Phi. “Chúng giúp
ổn định thần kinh. Một lúc nữa thôi cô sẽ mừng vì đã dùng chúng.”
Cô rút tay lại. “Thế thì tôi không cần
đâu, cám ơn ông. Có người đã bảo tôi việc máy bay bị xóc không có gì là đáng sợ
cả.”
“Họ đã đúng. Cái cô cần tránh xa là
những xung đột trên mặt đất cơ.”
Khi thấy cô không cười, ông nhìn cô chăm
chú một lúc. “Cô định đi đâu vậy? Safari?”
“Không. Tôi cần nối chuyến tới
Stanleyville. Tôi thấy bảo không có chuyến bay thẳng từ Luân Đôn tới đó.”
“Congo? Cô tới đó làm gì, thưa cô?”
“Tôi tìm một người bạn.”
Giọng ông không giấu nổi sự hoài nghi. “Congo?”
“Vâng.”
Ông nhìn cô như thể cô bị điên. Cô ngồi
thẳng người, nới lỏng một chút tay nắm trên thành ghế.
“Cô không đọc báo à?”
“Tôi có, nhưng những ngày gần đây thì
không. Tôi đã... rất bận rộn.”
“Rất bận, hừ? Cô gái bé nhỏ, có thể cô
sẽ muốn quay về lại Anh.” Ông khẽ cười thầm. “Tôi không nghĩ cô sẽ tiếp tục tới
Congo đâu.”
Cô quay đi, nhìn vô định ra phía ngoài
cửa sổ với những đám mây và đỉnh núi phủ tuyết trắng đằng xa. Cô thoáng tự hỏi,
có khi nào, ngay tại giờ phút này, anh đang đứng cách cô mười ngàn dặm phía
dưới. Anh không thể biết được em đã phải đi bao xa để tới gặp anh, cô thầm thì.
Hai tuần trước đây, Jennifer Stirling
bước ra khỏi tòa soạn tờ Nation, đứng trên bậc thềm, nắm đôi tay mũm mĩm
của cô con gái nhỏ và không biết phải làm gì tiếp theo. Một ngọn gió mạnh tạt
qua người hai mẹ con, cuốn theo những chiếc lá rụng thành vòng xoáy trôi theo
dòng nước, vòng xoáy vô định của những chiếc lá ấy cũng giống hệt như tình cảnh
của cô lúc này. Làm sao Anthony có thể biến mất? Vì sao anh không để lại cho cô
dù chỉ một dòng tin nhắn. Cô nhớ lại vẻ mặt đau khổ của anh ở sảnh khách sạn và
cô sợ mình đã biết câu trả lời. Từng lời nói của người đàn ông mập mạp làm
trong tòa soạn nhảy múa trong đầu cô. Cả thế giới dường như chao đảo và cô sợ
mình sẽ ngất. Rồi cô nghe tiếng Esme mè nheo, cô hiểu mình cần làm gì đó. Đòi
hỏi của đứa trẻ nhỏ đã kéo cô trở về thực tại.
Cô thuê một phòng tại khách sạn Regent,
nơi anh đã thuê trước đó, như thể ở đâu đó trong cô vẫn tin rằng anh sẽ dễ dàng
tìm ra cô hơn nếu cô ở đúng khách sạn này. Cô cần tin rằng anh vẫn muốn quay
lại tìm cô, muốn biết cuối cùng cô có được tự do hay không.
Loại phòng duy nhất còn trống là loại
phòng to có phòng khách đi kèm trên tầng bốn và cô nhanh chóng đồng ý. Laurence
chắc sẽ không dám phản đối khi phải chi tiền. Esme cuối cùng cũng vui vẻ ngồi
trước màn hình ti vi, thỉnh thoảng lại nhảy tưng tưng trên chiếc giường khổng
lồ, còn cô đi đi lại lại trong phòng cả buổi tối, đầu óc rối bời, nghĩ đủ mọi
cách để có thể chuyển tin nhắn tới một người đang ở đâu đó giữa khu vực miền
trung Châu Phi rộng lớn.
Khi Esme đã chìm sâu vào giấc ngủ, quấn
tròn trong chiếc mền ấm áp cạnh cô, tay để trên miệng, Jennifer nằm đó và không
thể ngủ được, cô lắng nghe nhịp sống của thành phố bên ngoài, cố ngăn những
dòng nước mắt bất lực và tự hỏi, nếu cô cố suy nghĩ thêm, có thể cô sẽ tìm ra
cách để gửi một bức điện tín cho anh. Boot. Làm ơn hãy nghe em. Em cần anh
quay lại. Em không thể làm điều này một mình nếu không có anh.
Vào ngày thứ hai và thứ ba, cô dành trọn
thời gian cho Esme. Cô đưa con bé tới Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và tới uống trà
tại Fortnum & Mason. Họ cùng nhau đi mua sắm quần áo ở đường Regent - cô đã
không kịp chuẩn bị đủ quần áo để mang theo tới khách sạn. Rồi họ gọi món bánh
mì kẹp gà quay ngay tại khách sạn để ăn tối, món bánh được để trên chiếc mâm
bạc vô cùng sang trọng. Đôi lúc Esme hỏi bà Cordoza và Bố đâu, và Jennifer phải
nói chắc chắn với nó rằng hai mẹ con sẽ sớm gặp lại họ. Cô biết ơn vì con bé đã
không đòi hỏi quá nhiều, ngoại trừ một số việc nhỏ mà cô hoàn toàn có thể đáp
ứng được, chủ yếu là những việc hàng ngày như uống trà, tắm rửa và đi ngủ.
Nhưng khi cô con gái nhỏ đã chìm sâu vào giấc ngủ, cô đóng cửa phòng ngủ lại và
thấy tràn ngập một nỗi sợ hãi chỉ một màu đen. Cô đã làm gì vậy? Mỗi một
giờ trôi qua, những hành động đi quá xa và dường như vô ích này khiến cô thêm
sợ hãi. Cô đã từ bỏ cuộc sống của cô, đưa con gái tới ở tại khách sạn - để làm
gì chứ?
Cô gọi tới tòa soạn tờ Nation thêm
hai lần nữa. Cô nói chuyện với người đàn ông cộc cằn với cái bụng phệ, giờ thì
cô đã nhận ra giọng ông với cách nói chuyện rất thô lỗ. Ông nói với cô, được,
ông sẽ chuyển tin nhắn cho O’Hare bất cứ khi nào anh ta gọi điện về. Lần thứ
hai cô gọi tới, ngay lập tức cô có cảm giác ông đang nói dối.
“Nhưng giờ này chắc chắn là anh ấy đã
tới nơi rồi. Chẳng lẽ các phóng viên không tập trung ở một nơi à? Không ai có
thể chuyển tin nhắn cho anh ấy ư?”
“Tôi không phải là thư kí của cô. Tôi đã
bảo là tôi sẽ chuyển tin nhắn của cô và tôi sẽ làm, nhưng cô biết đấy, ở đó
đang là vùng chiến sự. Tôi nghĩ anh ta cũng còn có những mối quan tâm khác ở
đó.”
Và rồi ông dập máy.
Căn phòng cô thuê ở khách sạn giống như
một ốc đảo, khách viếng thăm duy nhất của mẹ con cô là người đưa báo hàng ngày
và cậu bé phục vụ phòng. Cô không dám gọi điện cho ai, bố mẹ cô, bạn bè cô, cô
chưa biết phải giải thích với họ thế nào. Cô cố ăn, hầu như không thể chợp mắt.
Khi sự tự tìn trong cô bắt đầu lung lay, nỗi lo lắng cũng dần dâng lên.
Dường như cô bắt đầu ân hận rằng cô
không thể cô lập mình mãi thế này được. Làm sao cô có thể tồn tại qua ngày? Cô
chưa từng bao giờ tự làm gì cả. Laurence chắc chắn sẽ cách li cô với tất cả. Bố
mẹ cô sẽ từ bỏ cô. Cô bỗng muốn gọi một li rượu mạnh để uống cho quên đi nỗi sợ
hãi. Mỗi ngày trôi qua, tiếng thì thầm trong cô ngày càng trở nên rõ ràng: Hãy
quay trở lại với Laurence. Đối với một người đàn bà như cô, mà kĩ năng duy
nhất là trang trí nhà cửa, cô còn có lựa chọn nào khác?
Từng ngày của cô đã trôi qua với tâm
trạng thất thường và những ý nghĩ kì quái. Tới ngày thứ sáu cô gọi điện về nhà,
đoán rằng Laurence giờ này chưa về. Bà Cordoza nhấc máy sau đúng hai hồi chuông
và cô bỗng thấy ân hận khi nhận ra sự đau khổ hiển hiện trong giọng nói của bà.
“Bà đang ở đâu vậy, bà Stirling? Để tôi
mang đồ tới cho bà. Cho tôi gặp Esme. Tôi đã rất lo lắng.”
Có cái gì đó trong Jennifer chùng xuống
với một chút nhẹ nhõm.
Người giúp việc mang tới khách sạn một
va li đồ đạc chỉ trong vòng một giờ. Ông Stirling, bà Cordoza kể, không nói gì
chỉ dặn bà không đón tiếp bất kì một ai vào nhà trong mấy ngày. “Ông yêu cầu
tôi vào dọn phòng đọc sách. Và khi tôi nhìn vào trong đó...” tay bà khẽ đưa lên
che mặt “... tôi không biết nên nghĩ gì.”
“Rồi sẽ ổn thôi.” Jennifer vẫn chưa thể
giải thích điều gì đã xảy ra.
“Tôi rất vui nếu có thể làm gì đó giúp
bà,” bà Cordoza nói tiếp, “nhưng tôi không nghĩ ông ấy –”
Jennifer đặt tay lên tay bà. “Chúng tôi
sẽ ổn thôi, bà Cordoza. Hãy tin tôi, mẹ con tôi vẫn luôn muốn có bà bên cạnh.
Nhưng tôi nghĩ điều ấy sẽ khó. Esme sẽ quay về nhà để thăm bố nó sớm thôi, khi
mọi việc đã ổn định hơn, lúc đó chắc chắn chúng tôi cần có bà ở nhà để bà trông
nom Esme.”
Esme cho bà Cordoza xem những đồ chơi
mới của nó và trèo lên lòng bà nũng nịu. Jennifer gọi trà và hai người phụ nữ
nhìn nhau cười ngượng ngịu khi cô rót trà cho bà bởi sự đảo lộn trong vai trò
của mỗi người.
“Cám ơn bà đã tới đây,” Jennifer nói khi
bà Cordoza đứng dậy ra về. Cô buồn với cảm giác mất mát trước sự ra đi của bà.
“Chỉ cần cho tôi biết cô quyết định thế
nào.” Bà Cordoza khoác áo lên người. Bà nhìn sâu vào mắt Jennifer, miệng bà mím
lại đầy lo lắng và Jennifer, không kìm được, đã bước về phía trước và ôm ghì
lấy bà. Bà Cordoza vòng tay ôm cô và ghì cô thật chặt, như thể bà cố truyền cho
cô sức mạnh và hiểu cô cần điều ấy như thế nào. Họ đứng giữa phòng như thế một
lúc. Rồi, với hơi chút bối rối, bà giúp việc buông cô ra. Mũi cô ửng đỏ.
“Tôi sẽ không quay lại nữa,” Jennifer
nói, nghe giọng cô vang vọng trong không trung. “Tôi sẽ tìm một nơi để sống.
Nhưng tôi sẽ không quay trở lại.”
Người phụ nữ già gật đầu.
“Tôi sẽ gọi cho bà vào ngày mai.” Cô
nguệch ngoạc viết vài chữ lên tờ giấy của khách sạn. “Bà có thể nói với ông ấy
chúng tôi đang ở đâu. Đó có thể là điều duy nhất tôi cho ông ấy biết.”
Tối hôm đó, sau khi cho Esme đi ngủ, cô
đã gọi tới tất cả các tòa soạn báo trên đường Fleet để hỏi liệu cô có thể gửi
tin nhắn cho các phóng viên chiến trường của họ nếu tình cờ họ gặp Anthony ở
miền Trung Châu Phi. Cô gọi điện cho một ông chú mà cô nhớ đã từng làm ở đó và
hỏi xem ông có nhớ tên bất kì khách sạn nào ở đó không. Cô dùng đường dây quốc
tế gọi tới hai khách sạn, một ở Brazzaville và một ở Stanleyville, để lại tin
nhắn tại quầy tiếp tân khách sạn, một trong số đó đã bảo cô một cách đau buồn:
“Thưa bà, khách sạn chúng tôi không có bất kì người da trắng nào tới ở. Đang có
biến động ở đây.”
“Làm ơn,” cô van nài, “chỉ cần ghi lại
tên anh ấy. Anthony O’Hare. Gọi anh ấy là “Boot”. Anh ấy sẽ biết điều ấy có
nghĩa gì.”
Rồi cô gửi một lá thư nữa tới tòa soạn
để họ chuyển cho anh.
Em xin lỗi. Hay quay về với em. Em đã tự
do và em đang chờ đợi anh.
Cô đưa bức thư cho quầy Tiếp tân, tự nhủ
khi cô đã làm thế là cô đã nỗ lực hết sức. Cô không nên nghĩ quá nhiều về kết
quả, không nên mơ tưởng trong những ngày và tuần tiếp theo. Cô đã làm bất kì
điều gì có thể và giờ là lúc cô cần tập trung để gây dựng một cuộc sống mới,
sẵn sàng cho cái khoảnh khắc khi một trong rất nhiều tin nhắn tới được với anh.
Ông Grosvenor cười toe toét. Đúng hơn đó là cái cười nhăn nhở
và cô cố tảng lờ nó đi. Đã là ngày thứ mười một.
“Cô làm ơn kí giùm vào chỗ này,” ông chỉ bằng một ngón tay
được cắt tỉa cẩn thận, “và chỗ này nữa. Sau đó, tất nhiên tôi sẽ cần cả chữ kí
của chồng cô vào đây.” Ông lại mỉm cười, nói hơi một chút ngập ngừng.
“Ồ, có lẽ ông phải gửi trực tiếp tới chỗ ông ấy,” cô nói.
Xung quanh họ, sảnh uống trà của khách sạn Regent tấp nập các quý bà, quý ông
đã nghỉ hưu, những người không thể đi ra ngoài mua sắm vào buổi chiều thứ Tư
ướt nhẹp.
“Xin lỗi cô vừa nói gì ạ?”
“Tôi đã không còn sống với chồng nữa. Chúng tôi liên lạc chủ
yếu qua thư từ.”
Tin này làm ông choáng váng. Nụ cười trên mặt ông biến mất,
ông giữ chặt tập giấy tờ trên đùi như thể cố tập trung suy nghĩ thấu đáo.
“Tôi tin là đã đưa cho ông địa chỉ nhà tôi. Ở đằng kia.” Cô
chỉ vào một trong những bức thư để trong tập hồ sơ. “Vậy là chúng tôi có thể
chuyển đến vào thứ Hai tuần sau, đúng không? Tôi và con gái đã khá mệt mỏi với
việc sống trong khách sạn.”
Ở bên ngoài bà Cordoza đang cho Esme chơi đu quay. Ngày nào
bà cũng tới, vào giờ Laurence đi làm: “Không có mẹ con cô ở nhà tôi cũng không
có nhiều việc để làm,” bà nói. Jennifer nhận thấy vẻ mặt của bà giúp việc sáng
bừng mỗi khi bà bế Esme và cảm thấy hình như bà thích ở bên mẹ con cô trong khách
sạn hơn là ở trong ngôi nhà trống vắng trong khu quảng trường đó.
Ông Grosvenor nhíu mày. “À, bà Stirling, liệu tôi có thể hiểu
là... Bà vừa nói là bà sẽ không sống trong căn hộ này cùng ông Stirling?
Chỉ vì chủ nhà cho thuê là một quý ông đáng kính. Ông ấy nghĩ rằng ông đang cho
một gia đình thuê.”
“Đúng là ông ấy cho một gia đình thuê.”
“Nhưng bà vừa nói –”
“Ông Grosvenor, tôi sẽ trả hai mươi tư bảng một tuần cho việc
thuê ngắn hạn này. Tôi là một phụ nữ đã có chồng. Tôi tin là một quý ông như
ông sẽ đồng ý ràng việc chồng tôi có đến ở thường xuyên với tôi hay không, hay có
thực sự đến ở với tôi hay không, không phải là điều ông cần quan tâm.”
Ông ngửa lòng bàn tay, chỉnh lại cổ áo và lắp bắp xin lỗi:
“Chỉ vì –”
Câu nói của ông bị cắt đứt bởi tiếng một người phụ nữ gấp gáp
gọi tên cô. Jennifer nhấp nhỏm trên ghế khi thấy Yvonne Moncrieff bước từng
bước kiên quyết qua đám đông về phía cô với chiếc dù ướt sũng. “Hóa ra cậu ở
đây!”
“Yvonne, tớ –”
“Cậu đã ở đâu vậy? Tớ chẳng biết có chuyện gì đang xảy ra
nữa. Tớ mới ra viện tuần trước và bà giúp việc chết tiệt nhà cậu nhất định
không hé với tớ nửa lời. Và rồi Francis kể cho tớ –”. Cô dừng lại, nhận thấy
hình như cô đang cao giọng. Sảnh uống trà im phăng phắc, mọi người bắt đầu xôn
xao.
“Xin lỗi ông Grosvenor. Tôi nghĩ chúng ta đã xong việc rồi
đúng không?” Jennifer hỏi.
Ông Grosvenor đứng dậy, sửa soạn cặp đựng tài liệu và đậy nắp
dứt khoát. “Tôi sẽ chuyển những hồ sơ này tới ông Stirling chiều nay. Tôi sẽ
liên lạc với cô sau.” Ông đi về phía sảnh khách sạn.
Khi ông đi khuất, Jennifer đặt tay lên tay bạn. “Tớ xin lỗi,”
cô nói. “Có rất nhiều điều để kể cho cậu. Cậu có thời gian không, mình lên
phòng nói chuyện nhé?”
Yvonne Moncrieff phải nằm viện tới bốn tuần: hai tuần trước
khi sinh và hai tuần sau khi sinh bé Alice. Cô mệt tới mức phải tới một tuần
sau khi trở về nhà cô mới sực nhớ đã lâu rồi cô chưa gặp Jennifer. Cô đã gọi
điện hai lần, nhưng chỉ được trả lời rằng bà Jennifer không có nhà. Một tuần
sau cô quyết định tự tới xem có chuyện gì đang xảy ra. “Người giúp việc nhà cậu
chỉ lắc đầu, bảo tớ cần gì thì nói chuyện với Larry.”
“Chắc ông ấy dặn bà không được nói gì.”
“Nói cái gì cơ?” Yvonne quẳng chiếc áo khoác lên giường và
ngồi vào chiếc ghế bọc da. “Cậu làm cái quái quỷ gì ở khách sạn thế này. Cậu và
Larry cãi nhau à?”
Yvonne phủ lớp phấn mắt màu hoa cà, mái tóc gọn gàng. Cô như
tới từ một thế giới khác, trở nên xa cách hơn, Jennifer thầm nghĩ. “Tớ đã bỏ
anh ấy,” cô nói.
Yvonne mở to mắt nhìn cô. “Larry đã rất say khi tới nhà bọn
tớ tối hôm trước. Rất say. Tớ lại nghĩ ông gặp rắc rối trong công việc và đi
lên lầu với đứa bé, để hai ông lại nói chuyện với nhau. Khi Francis lên nhà, tớ
đã mơ màng ngủ nhưng vẫn nghe anh ấy nói lại là Larry bảo cậu có bồ và cậu đi
theo tiếng gọi trái tim. Tớ nghĩ chắc lúc đấy tớ đang mơ màng nên nghe nhầm.”
“Thực ra,” cô nói chậm rãi, “chuyện ấy là đúng.”
Yvonne đưa tay lên che miệng. “Ôi, Chúa ơi, không phải Reggie
chứ.”
Jennifer mỉm cười lắc đầu. “Không.” Cô thở dài “Yvonne, tớ
nhớ cậu kinh khủng. Tớ đã rất muốn nói chuyện với cậu...” Cô kể lại cho bạn
nghe toàn bộ cậu chuyện, có bỏ qua một vài chi tiết nhỏ nhưng phần lớn sự thật
đều được cô nói ra. Suy cho cùng, đó là Yvonne. Những câu từ đơn giản, vang
vọng trong căn phòng im ắng, dường như giảm bớt sự nghiêm trọng và khổ đau cô
đã trải qua trong những tuần vừa rồi. Mọi thứ đã thay đổi; tất cả mọi thứ. Cô
kết thúc câu chuyện với một cái khoát tay mạnh mẽ: “Tớ sẽ tìm ra anh ấy. Tớ
biết tớ sẽ làm được. Tớ chỉ cần giải thích cho anh ấy hiểu.”
Yvonne nghe rất chăm chú, Jennifer chợt nhận ra cô nhớ làm
sao phong cách nói thẳng có phần chua chát của cô bạn mà hôm nay cô đã không
thấy.
Cuối cùng Yvonne cũng mỉm cười một cách ngập ngừng. “Tớ nghĩ
anh ấy sẽ tha thứ cho cậu,” cô nói.
“Ý cậu là gì?”
“Larry. Tớ chắc chắn anh ấy sẽ tha thứ
cho cậu.”
“Larry?” Jennifer ngồi xuống.
“Đúng vậy.”
“Nhưng tớ không cần được tha thứ.”
“Cậu không thể làm thế, Jenny.”
“Anh ấy có tình nhân.”
“Ồ, cậu quên cô ta đi! Cô ta chỉ là thư
kí của anh ấy, không hơn không kém. Bảo với anh ấy cậu muốn bắt đầu lại từ đầu.
Và anh ấy cũng phải làm như thế.”
Jennifer gần như không thể kiềm chế lời
nói. “Nhưng tớ không muốn có anh ta, Yvonne. Tớ không muốn là vợ anh ta.”
“Thế cậu muốn đợi một tay phóng viên
chơi bời không đồng xu dính túi, người có thể chẳng bao giờ trở về với cậu ư?”
“Đúng vậy.”
Yvonne thò tay vào túi, châm thuốc và
thả một vòng khói dài trong phòng.
“Thế Esme thì sao?”
“Esme thì sao là sao?”
“Làm sao con bé có thể lớn lên nếu không
có bố?”
“Con bé vẫn có bố. Nó sẽ thường xuyên
được tới thăm bố. Anh ấy sẽ ở nhà cuối tuần này. Tớ đã viết thư và anh ấy đã
viết lại khẳng định điều đó.”
“Cậu biết những đứa trẻ có bố mẹ li dị
thường hay bị chọc ghẹo ở trường. Những cô cậu bé đó thường xuyên ở trong tâm
trạng rất rồi tệ.”
“Chúng tớ không định li dị. Sẽ không có
bạn bè nào của Esme biết gì cả.”
Yvonne vẫn thể hiện vẻ mặt rất kiên
quyết với điếu thuốc trên tay.