Bức thư tình cuối - Phần III - Chương 19
Chương 19
Cô bước nhanh, đầu chúi xuống dưới trời
mưa nặng hạt, tự trách vì đã không lo xa mang theo một chiếc dù. Hàng dãy taxi
nối đuôi theo sau luồng khi phụt ra từ động cơ những chiếc xe buýt với cửa sổ
mờ hơi nước, thi thoảng bắn những vòng tròn nước duyên dáng lên vỉa hè. Cô đang
rảo bước trên đường St Johns Wood vào một buổi chiều thứ Bảy ướt át, cố không
nghĩ về biển xanh cát trắng ở Barbados, về đôi bàn tay to rám nắng đang thoa
kem chống nắng lên lưng của một người phụ nữ khác. Hình ảnh ấy cứ thường trực
hiện về ám ảnh cô trong suốt sáu ngày anh đi. Cái thời tiết đáng ghét này có vẻ
như là một trò đùa đồng lõa với cô.
Tòa biệt thự nổi bật với những tấm đá
phiến màu xám trên vỉa hè rộng có hàng cây thẳng tắp. Cô nhẹ bước lên những bậc
thềm đá, bấm chuông liên lạc mang số tám và đợi, bồn chồn đổi từ chân này sang
chân khác.
“Xin chào?” Một giọng nói rõ ràng, trẻ
hơn rất nhiều so với cô tưởng tượng. Cô cảm ơn Chúa vì Jennifer Stirling đề
nghị gặp ngày hôm nay: ý nghĩ phải ngồi ở nhà cả ngày thứ Bảy, không đi làm,
không gặp bạn bè vì dường như ai cũng bận rộn, thật là khủng khiếp. Và bàn tay
rám nắng.
“Tôi là Ellie Haworth. Tôi đến vì những
bức thư gửi cho bà.”
“Ồ. Mời lên. Tôi ở tầng bốn. Cô phải
kiên nhẫn một chút với thang máy ở đây. Nó chậm ghê gớm.”
Đó là kiểu nhà hiếm khi cô bước chân
vào; những người bạn của cô thường sống trong các căn hộ chung cư kiểu mới với
phòng được chia nhỏ, dưới có tầng hầm để xe hay sang hơn thì ở trong các căn hộ
hai tầng chồng lên nhau như những lớp bánh kem theo kiểu nhà mái hiên từ thời
Victoria. Còn tòa nhà này bản thân nó đã toát lên sự sang trọng, không bao giờ
lỗi mốt. Nó khiến cô nghĩ ngay tới cụm từ “bà già giàu có” - John chắc sẽ thích
từ này - và cô mỉm cười.
Hành lang được trang điểm bởi những tấm
thảm màu ngọc lam sẫm, một loại màu cũng chỉ có từ thời xưa. Tay vịn bằng đồng
của bốn bậc thang đá hoa cương sáng bóng do được lau chùi thường xuyên. Cô
thoáng nghĩ tới dãy hành lang của tòa nhà nơi cô ở với hàng chồng giấy lộn
quảng cáo chẳng ai thèm quẳng đi và những chiếc xe đạp bị vứt chỏng chơ không
ai quan tâm.
Chiếc thang máy cũ kẽo kẹt đưa cô lên
bốn tầng lầu một cách trịnh trọng. Cô bước ra dãy hành lang lát gạch.
“Xin chào?” Ellie nhìn thấy một chiếc
cửa để mở.
Cô đã tưởng tượng về bức tranh này: một
bà già còng lưng với đôi mắt nhấp nháy, có thể trùm chiếc khăn choàng trang nhã
trong một ngôi nhà được trang trí bởi rất nhiều các con thú bằng sứ. Jennifer
Stirling không phải như thế. Có thể bà cũng đã sáu mươi mấy, nhưng dáng bà vẫn
còn rất thon thả và thẳng băng, chỉ có mái tóc cắt ngang vai điểm vài sợi bạc
là có thể tố cáo tuổi thật của bà. Bà mặc một chiếc áo cashmere màu xanh dương
thẫm, choàng bên ngoài bằng một chiếc áo len thắt lưng ở giữa, chiếc quần được
may đo rất khéo léo, có vẻ của Dries van Noten hơn là M&S. Chiếc khăn
choàng xanh lục quấn quanh cổ.
“Cô Haworth?”
Cô cảm thấy bà đang dõi nhìn với ánh mắt
dò xét trước khi gọi tên cô.
“Dạ vâng.” Ellie đưa tay ra. “Cháu là Ellie, chào bà.”
Khuôn mặt người phụ nữ giãn ra một chút.
Dường như cô đã vượt qua được bài sát hạch đầu tiên - ít nhất là cho tới lúc
này. “Mời cô vào. Cô đi có xa không?”
Ellie theo bà vào trong. Một lần nữa cô
thấy phỏng đoán của mình sai lầm. Chẳng có những con vật trang trí bằng sứ. Căn
phòng rộng rãi, sáng sủa và khá ít đồ. Sàn gỗ nhạt màu được trang trí bởi tấm
thảm Ba Tư to và hai chiếc đi-văng bọc vải hoa đặt đối diện nhau, ở giữa có
chiếc bàn kính. Món đồ duy nhất còn lại trong phòng trông khá độc đáo và phóng
khoáng: một chiếc ghế hiện đại kiểu Đan Mạch mà cô đồ là rất đắt, và một chiếc
bàn nhỏ kiểu cổ làm bằng gỗ hồ đào. Rất nhiều khung ảnh gia đình và bọn trẻ nhỏ
được đặt trên đó.
“Thật là một căn hộ xinh xắn,” Ellie,
người trước đây hầu như không bao giờ để ý tới trang trí nội thất của một ngôi
nhà, bỗng hiểu đây chính là cuộc sống cô muốn có.
“Căn hộ thật dễ thương, đúng không? Tôi
chuyển tới đây năm... sáu mươi tám, hình như thế. Hồi đó đây là một tòa nhà cũ
kĩ tồi tàn nhưng tôi nghĩ có thể sẽ phù hợp cho cuộc sống của hai mẹ con vì tôi
muốn con gái sống gần trung tâm thành phố. Từ đây có thể nhìn thấy công viên
Regent”s Park. Vui lòng đưa áo khoác cho tôi. Cô có muốn uống một chút cà phê
không? Có vẻ cô bị ướt khá nhiều.”
Ellie ngồi đợi trong khi Jennifer
Stirling đi vào trong bếp. Bức tường màu kem nhạt treo những bức tranh nghệ
thuật đương đại cỡ lớn. Ellie nhìn theo Jennifer Stirling khi thấy bà quay lại
và nhận ra cô không quá ngạc nhiên vì sao cô lại bị thu hút bởi người viết lá
thư ẩn danh này như thế.
Trong số những bức hình để trên bàn có
hình một phụ nữ trẻ xinh đẹp lạ lùng, với tư thế chụp như thể dưới ống kính của
Cecil Beaton; rồi hình một phụ nữ, có thể vẫn là người phụ nữ ấy vài năm sau,
đang ngắm nhìn đứa trẻ mới sinh, mặt tràn đầy niềm vui sướng, hân hoan, tự hào
- và tóc bà, dù mới sinh, được chải chuốt rất trang nhã.
“Cô thật tử tế khi muốn tìm cho ra ngọn
ngành những chuyện này. Phải nói là lá thư của cô khiến tôi vô cùng tò mò.” Bà
đặt tách cà phê trước mặt cô ngồi xuống phía đối diện, khẽ khấy tách cà phê của
bà bằng một chiếc thìa bạc nhỏ xíu một đầu tráng men đó. Lạy Chúa, Ellie nghĩ
thầm. Eo của bà còn thon gọn hơn cả của mình.
“Tôi thực sự muốn biết đó là những lá
thư gì. Tôi không nghĩ tôi đã vứt bỏ tùy tiện một tài liệu nào, tôi luôn hủy
chúng khi muốn vứt đi. Kì Giáng sinh năm ngoái kế toán của tôi mua cho tôi một
máy hủy giấy.”
“Ồ, thật ra không phải cháu tìm được
những bức thư này. Là một người bạn của cháu, trong lúc dọn dẹp lại hồ sơ lưu
trữ tại tòa soạn báo Nation, đã tình cờ nhìn thấy chúng.”
Vẻ mặt của Jennifer Stirling đột ngột
thay đổi.
“Những lá thư đó đây.”
Ellie đưa tay vào túi và rút ra một cặp
tài liệu nhựa có ba lá thư tình. Cô nhìn bà Stirling khi đưa chúng. “Lẽ ra tôi
có thể gửi chúng lại cho bà qua hòm thư,” cô nói, “nhưng...”
Jennifer Stirling cầm những lá thư cẩn
thận bằng hai tay.
“Tôi không chắc... là - là bà có thực sự
muốn đọc lại chúng hay không.”
Jennifer không nói gì. Bỗng dưng cô cảm
thấy rất nhẹ lòng, Ellie nhấp một ngụm cà phê. Cô không biết cô đã ngồi ở đó và
uống cà phê trong bao lâu, cô cố tình đánh mắt đi nơi khác, cô cũng không biết
vì sao.
“Ồ, tôi rất muốn.”
Khi cô nhìn lên, có điều gì đó đã thay
đổi trong cách biểu lộ của Jennifer. Không hẳn là bà đã khóc, nhưng trong mắt bà
ẩn chứa một sự xúc động mạnh mẽ. “Chắc hẳn cô đã đọc chúng rồi, đúng không.”
Ellie thấy xấu hổ. “Xin lỗi bác, chúng
được tìm thấy trong một tập hồ sơ dường như chẳng liên quan gì. Cháu không bao
giờ nghĩ rằng có thể tìm ra chủ nhân của nó. Cháu thấy những lá thư thật trữ
tình,” cô nói thêm.
“Đúng vậy. Ồ, Ellie Haworth à, ở vào cái
tuổi như của tôi rất ít sự việc có thể khiến tôi ngạc nhiên, nhưng cô đã làm
được điều đó ngày hôm nay.”
“Bác không định đọc những lá thư ư?”
“Tôi không cần vì tôi vẫn nhớ từng câu
chữ trong những lá thư.”
Đã từ lâu Ellie luôn biết rằng kĩ năng
quan trọng nhất của nghề làm báo là biết lúc nào cần phải im lặng. Nhưng lúc
này đây, trước người phụ nữ lớn tuổi ngồi trước mặt cô nhưng như không tồn tại
trong căn phòng, cô thấy không thoải mái chút nào. “Cháu xin lỗi,” cô thận
trọng nói khi thấy sự im lặng ngày càng trở nên nặng nề, “nếu chuyện này đã làm
bác buồn. Chỉ vì cháu không biết phải làm gì, và không biết hiện tại bác -”
“– tình trạng hôn nhân của tôi chứ gì,”
bà tiếp lời. Bà cười mỉm và Ellie một lần nữa nhận ra bà có khuôn mặt rất xinh.
“Cô thật ý tứ quá. Nhưng thực sự không có gì phải bối rối cả. Chồng tôi đã mất
cách đây rất lâu rồi. Khi tuổi già tới có những việc không ai nói trước được.”
Bà mỉm cười hơi một chút châm biếm. “Con người thường chết sớm hơn họ tưởng.”
Họ lại im lặng chìm trong tiếng mưa rơi
và tiếng phanh của xe buýt ngoài đường.
“Ellie, nói tôi nghe một điều,” cuối
cùng bà cũng lên tiếng. “Điều gì đã khiến cô bỏ công sức để trả lại những bức
thư này cho tôi?”
Ellie tự hỏi có nên nhắc tới bài phóng
sự của mình không. Bản năng trong cô nói không nên.
“Bởi vì cháu chưa bao giờ được đọc những
bức thư như thế.”
Jennifer Stirling vẫn không rời mắt khỏi
cô.
“Và... cháu cũng có một người yêu,” cô
nói, không hiểu vì sao mình lại nói ra điều này.
“Một ‘người yêu’?”
“Anh ấy đã có vợ.”
“À. Vậy là những lá thư nói lên đúng tâm
trạng của cô.”
“Dạ vâng. Toàn bộ câu chuyện chứ không
phải chỉ những lá thư. Đó là về những điều bác muốn nhưng không thể có được. Và
không bao giờ có thể nói bác thực sự cảm thấy thế nào.” Cô nhìn xuống, như thể
đang nói với chính mình. “Người đàn ông cháu yêu, John... Cháu không biết anh
ấy nghĩ gì. Chúng cháu không bao giờ chia sẻ những gì xảy ra giữa hai người.”
“Tôi không nghĩ chuyện đó là bất thường,”
bà Stirling nhận xét.
“Nhưng người yêu của bác làm thế. Boot
đã làm thế.”
“Đúng vậy.” Bà lại như rơi vào một thế
giới khác. “Ông ấy kể cho tôi về tất cả mọi chuyện. Thật bất ngờ khi nhận được
những bức thư như vậy, ngay cả ở thế hệ của tôi. Để biết rằng cô được yêu hết
mình. Ông ấy luôn rất giỏi trong việc truyền tải lời nói qua những dòng chữ.”
Mưa bắt đầu rơi nặng hạt, tiếng sấm ầm
ầm gõ vào cửa sổ và mọi người hối hả hò nhau ngoài đường.
“Mối tình của hai bác ám ảnh cháu, mặc
dù có thể nó cũng không có gì quá lạ lẫm với cháu. Cháu thực sự mong muốn hai
bác đoàn tụ. Cháu muốn hỏi, bác đã... đã bao giờ hai bác gặp lại nhau chưa ạ?”
Cách đi thẳng vào vấn đề có vẻ không
thích hợp lắm, Ellie nghĩ và bỗng cảm thấy ngượng ngùng. Hình như còn hơi khiếm
nhã. Có thể cô đã đi quá xa.
Vừa lúc Ellie định xin lỗi và xin phép
ra về thì bà cất tiếng. “Cô có muốn uống một li cà phê nữa không, Ellie?” bà
hỏi. “Tôi không nghĩ cô nên về lúc trời mưa như thế này.”
Jennifer Stirling ngồi trên chiếc ghế
bành phủ vải tơ tằm, tách cà phê để trên lòng và bà chậm rãi kể về câu chuyện
diễn ra ở miền nam nước Pháp, một cô vợ trẻ với một anh chồng, mà theo lời bà,
có lẽ chẳng thể tìm ai tốt hơn ở thế hệ ấy. Một người đàn ông nổi tiếng trong
giới doanh nhân, người hiếm khi biểu lộ cảm xúc - vì theo ông đó là biểu hiện
của sự yếu đuối và không xứng tầm. Và rồi cô gặp một người đàn ông khác, người
có tính cách hoàn toàn trái ngược, rất nhiệt tình nhưng cứng đầu cứng cổ, dễ
nổi nóng, người đã làm đảo lộn cuộc sống của nó ngay từ buổi tối đầu tiên cô
gặp anh tại bữa tiệc tối dưới ánh trăng.
Ellie say mê lắng nghe, những hình ảnh
dần hiện lên trong đầu cô, và cô hoàn toàn quên mất cuộn băng ghi âm đang chạy
trong túi xách. Cô không còn cảm thấy khiếm nhã nữa. Bà Stirling hào hứng kể
như thể bà đã chờ hàng chục năm trời chỉ để có cơ hội kể lại câu chuyện này. Bà
kể đây là câu chuyện đã hằn sâu trong trí nhớ bà bao năm qua và Ellie, dù có
lúc không hoàn toàn hiểu những gì bà kể, cũng không muốn ngắt lời bà.
Jennifer Stirling kể cuộc sống phong lưu
nhàn nhã của bà bỗng chốc xáo trộn, những đêm mất ngủ, cảm giác tội lỗi, sức
hút khủng khiếp, không cưỡng lại được của một mối tình bị cấm đoán, đau khổ
nhận ra từ trước đến giờ có thể mình đang sống một cuộc sống không dành cho
mình. Khi nghe bà kể, Ellie cắn móng tay tự hỏi, ở một bãi biển xa xôi nào đó
John có đang nghĩ điều tương tự hay không. Làm sao anh vẫn có thể vừa yêu vợ và
yêu cô? Sao anh không thể cảm nhận sức hút không thể cưỡng lại được ấy?”
Câu chuyện ngày càng trở nên đau buồn,
giọng bà cũng trầm lại. Bà kể về tai nạn xe hơi trên khúc đường mưa trơn trượt,
một người đàn ông vô tội bị chết và bốn năm trời bà sống như người mộng du nhờ
sự trợ giúp của những viên thuốc và bà cũng sinh được một đứa trẻ.
Bà đứng dậy, quay ra đằng sau và đưa cho
Ellie một tấm hình đóng khung. Một thiếu nữ tóc vàng cao lớn trong chiếc quần
sọc, khoác tay người đàn ông đứng bên cạnh. Ngồi cạnh họ là hai đứa trẻ và một
chú chó. Giống hệt một cảnh quảng cáo cho Calvin Klein. “Esme hình như cũng
trạc tuổi cô,” bà nói. “Nó sống ở San Francisco cùng người chồng làm bác sĩ.
Chúng rất hạnh phúc.” Bà nói thêm với nụ cười hóm hỉnh. “Đấy là tôi thấy thế.”
“Cô ấy có biết về những bức thư không?”
Ellie cẩn thận để trả lại tấm ảnh trên bàn, cố gắng không ghen tị với cô gái Esme
nào đó rất xinh đẹp với một gia đình hạnh phúc.
Lần này bà Stirling có vẻ lưỡng lự trước
khi nói. “Tôi chưa hề kể chuyện này cho bất kì một linh hồn sống nào. Liệu một
cô con gái có muốn nghe chuyện mẹ cô ấy yêu người khác không phải là bố mình
không?”
Rồi bà kể về lần gặp mặt tình cờ, nhiều
năm sau đó, choáng váng khi phát hiện ra định mệnh dành cho bà. “Cô có hiểu
không? Tôi đã không tham gia vào giới ấy từ rất lâu rồi... và rồi tôi đi và gặp
Anthony ở đó. Và tôi có cảm giác này.” Bà vỗ vào xương ức. “Rằng tôi đang ở
nhà. Cuối cùng tôi cũng gặp lại anh.”
“Cháu hiểu,” Ellie nói. Cô ngồi trên mép
ghế sofa. Mặt Jennifer Stirling bừng sáng. Ellie chợt
nhận ra thiếu nữ trẻ đẹp trong bà. “Cháu hiểu cảm giác đó.”
“Điều đau đớn là dù rằng rồi đã gặp lại anh, nhưng tôi không
có tự do để bỏ đi với anh. Li hôn vào thời điểm đó là một điều gì đó rất tồi
tệ, Ellie à. Khủng khiếp. Tên của cô sẽ bị mang ra bôi tro trát trấu. Tôi biết
chồng tôi sẽ tìm mọi cách ngăn cản tôi nếu tôi tìm cách bỏ đi. Và tôi không thể
bỏ Esme. Anh ấy - Anthony - đã phải rời bỏ con trai khi li dị và tôi nghĩ cả
đời anh ấy không thể thoát khỏi nỗi ám ảnh ấy.”
“Nghĩa là bác chưa bao giờ thực sự li hôn với chồng?” Ellie
cảm thấy hơi một chút thất vọng.
“Tôi đã li hôn, nhờ vào tập hồ sơ cô đang cầm trong tay đó.
Chồng tôi có một bà thư kí khá kì lạ, Bà Đủ Mọi Thứ.” Bà làm bộ nhăn nhó. “Tôi
chẳng bao giờ có thể nhớ tên bà ấy. Tôi nghĩ bà ấy yêu chồng tôi. Rồi vì một lí
do nào đó, bà ta đã trao cho tôi phương tiện để hủy hoại ông ấy. Ông ấy biết ông
ấy không thể động đến một sợi lông trên người tôi chừng nào tôi còn giữ tập hồ
sơ này.”
Bà tả lại cuộc gặp với bà thư kí, chồng bà đã sốc như thế nào
khi bà tiết lộ cho ông biết những bí mật bà nắm được tại ngay phòng làm việc
của ông.
“Những hồ sơ về chất a-mi-ăng.” Chúng dường như không có ý
nghĩa gì khi nằm ở căn hộ của Ellie, sức mạnh của chúng hẳn đã phai mờ theo năm
tháng, đặc biệt với những người không biết gì về chúng.
“Tất nhiên thời đó không ai hiểu gì về chất a-mi-ăng. Mọi
người coi đó là một loại khoáng sản tuyệt vời. Vì vậy tôi đã choáng váng khi
phát hiện ra công ty của Laurence đã hủy hoại cuộc sống của bao nhiều người. Đó
là lí do vì sao tôi thành lập một quỹ hỗ trợ sau khi ông ấy chết. Để giúp các
nạn nhân. Cô xem đây.” Bà với mở ngăn kéo tủ và lấy ra một tập hồ sơ. Trong đó
có một bản kế hoạch cụ thể giúp đỡ những nạn nhân bị mắc bệnh u trung biểu mô
do công việc gây ra. “Quỹ giờ đây cũng không còn nhiều tiền, nhưng chúng tôi
vẫn hỗ trợ về mặt pháp lí. Tôi có nhiều người bạn làm trong lĩnh vực này, cả ở
trong nước và ngoài nước, họ sẵn sàng giúp đỡ không lấy tiền.”
“Bác vẫn nhận được tiền thừa kế từ chồng chứ?”
“Đúng vậy. Đó là thỏa thuận giữa chúng tôi. Tôi giữ gìn tên
tuổi cho ông ấy và gia nhập vào đội ngũ những bà vợ ẩn dật, những người không
bao giờ tháp tùng chồng trong bất kì sự kiện nào. Mọi người đều nghĩ rằng tôi
làm thế để có thời gian nuôi dạy Esme. Cô biết đó, vào thời ấy chuyện này cũng
không có gì lạ lẫm. Và ông ấy đã cặp kè với một cô gái suốt thời gian sau đó.”
Bà cười, lắc đầu. “Đó là sự đối xử bất công đáng ngạc nhiên nhất vào thời kì
đó.”
Ellie tưởng tượng cảnh cô tay trong tay với John đi dự lễ ra
mắt sách. Anh luôn thận trọng đứng cách xa cô nếu buộc phải đi ra ngoài, để
không ai có thể nhận ra giữa họ có bất kì mối quan hệ nào. Cô từng thầm mong
một ngày nào đó họ bị bắt gặp hôn nhau giữa ban ngày ban mặt, và sự đam mê mãnh
liệt họ dành cho nhau sẽ trở thành đề tài đàm tiếu của mọi người.
Cô nhìn lên, bắt gặp Jennifer Stirling cũng đang chăm chú
nhìn cô. “Cô muốn uống thêm cà phê không, Ellie? Tôi nghĩ chắc cô cũng không
vội phải đi đâu, đúng không?”
“Không ạ. Thật dễ chịu khi được nói chuyện với bác. Cháu muốn
biết chuyện gì đã xảy ra tiếp sau đó.”
Nét mặt bà thay đổi. Nụ cười biến mất. Một khoảnh khắc im
lặng.
“Anh ấy quay lại Congo,” bà nói. “Anh ấy luôn muốn được đi
tới những nơi nguy hiểm nhất. Người da trắng ở đó đã gặp rất nhiều rắc rối và
anh ấy không khỏe...” Dường như không phải bà đang nói chuyện với cô nữa. “Đàn
ông thường dễ bị tổn thương hơn là vẻ bề ngoài của họ, đúng không?”
Ellie nuốt từng lời bà nói, cố không để cảm giác hụt hẫng này
ảnh hưởng đến tâm trạng của cô. Đây không phải là cuộc sống của mình, cô
tự nhủ. Đây không phải là bị kịch đời mình. “Tên ông ấy là gì? Cháu nghĩ
chắc không phải là Boot.”
“Không. Đó chỉ là một trò đùa nhỏ. Cô đã đọc Evelyn Waugh
chưa? Tên thật của anh ấy là Anthony O’Hare. Thật ra, thật lạ khi tâm sự tất cả
những điều này với cô. Anh ấy là tình yêu của đời tôi, nhưng tôi lại không có
bất kì tấm hình nào của anh ấy ngoài một vài kỉ niệm nhỏ giữa hai người. Nếu
không có những bức thư nồng nàn này tôi đã nghĩ có khi đó chỉ là tưởng tượng.
Vì vậy đây thực sự là món quà cô đã mang đến cho tôi.”
Cổ họng Ellie nghèn nghẹn.
Tiếng chuông điện thoại reo, cắt đứt
dòng suy nghĩ của họ.
“Xin lỗi cô,” Jennifer nói. Bà bước về
phía cửa, nhấc điện thoại và Ellie nghe tiếng bà nói một cách bình tĩnh với
phong thái rất chuyên nghiệp. “Vâng,” bà nói. “Vâng, chúng tôi vẫn làm. Cậu ấy
được chuẩn đoán từ khi nào?... Tôi rất lấy làm tiếc...”
Ellie viết nguệch ngoạc tên lên tờ ghi
chép và đút vào túi. Cô kiểm tra xem máy ghi âm còn chạy không và chiếc mic nhỏ
xíu còn hoạt động không. Khá hài lòng, cô ngồi thêm vài phút nữa, ngắm những
bức hình bày trên bàn, và hiểu Jennifer sẽ phải nói chuyện khá lâu. Thật không
phải nếu bà hối thúc một người vừa phát hiện mắc bệnh phổi. Bên ngoài trời đã
tạnh mưa, những vũng nước trên vỉa hè phản chiếu ánh sáng xanh yếu ớt. Cô đi về
phía cửa với một mảnh giấy trên tay.
“Xin chờ tôi một phút.” Jennifer bịt ống
nghe và nói với cô. “Rất xin lỗi cô,” bà nói. “Tôi có thể phải nói khá lâu.”
Cách bà nói ám chỉ buổi nói chuyện giữa họ không thể tiếp tục được nữa. “Có
người cần đăng kí cho chương trình bồi thường.”
“Chúng ta có thể nói chuyện lần khác
được không ạ?” Ellie đưa tờ giấy cho bà. “Thông tin của cháu đây. Cháu vẫn muốn
biết...”
Jennifer gật đầu, một tai vẫn để ý đầu
dây bên kia. “Được, tất nhiên rồi. Đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Cảm ơn
cô lần nữa, Ellie.”
Ellie đi về phía cửa, chiếc áo khoác
trên tay. Khi Jennifer đưa ống nghe lên cô quay lại nhìn bà. “Bác có thể cho
cháu biết một điều - rất ngắn gọn thôi - được không ạ? Khi ông ấy bỏ đi lần nữa
- Boot ý - bác đã làm gì ạ?”
Jennifer Stirling hạ ống nghe xuống, mắt
bà thật trong và bình tĩnh. “Tôi đã đi theo anh ấy.
Không có cuộc tình nào giữa chúng ta cả.
Nếu cô cứ nhất quyết về điều đó tôi sẽ làm rõ đó chỉ là trí tưởng tượng của cô
mà thôi.
Thư người đàn ông gửi người đàn bà,
năm 1960