Nhất Linh, cha tôi - Phần II - Chương 09

Rời Phát Diệm chiếc xe buýt trở lại Ninh Bình. Theo chương
trình xe còn đi Hoa Lư thăm đền vua Đinh Tiên Hoàng và đền vua Lê Đại Hành trước
khi trở về Hà Nội. Đi qua Hoa Lư chị Thoa tôi quay sang tôi nói: “Em nhớ hồi nhỏ
mình học thơ lịch sử không, giống như Bà Trưng quê ở Châu Phong... Đến
Hoa Lư lại nhớ đến câu Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh. Con quan thứ sử ở thành
Hoa Lư. Khác thường từ thuở còn thơ
. Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông
lau.
Mình học thơ sử từ hồi còn bé thế mà mãi đến giờ mới được thăm
ông Đinh Bộ Lĩnh và cố đô Hoa Lư.”

Tôi nói: “Còn những bài hát về lịch sử như bài Bóng cờ
lau
của Hoàng Quý, hồi bé hát nhiều thế bây giờ chả nhớ được gì. Em chỉ
nhớ là nhạc của Hoàng Quý nó tươi mát và trẻ trung lạ thường! À này, chị có biết
cậu thích nhạc của ai nhất không? Cậu mê nhất là nhạc Đặng Thế Phong. Sau đó là
Văn Cao. Thứ nữa mới đến Phạm Duy. Nhưng cậu thích lời nhạc Phạm Duy. Cậu mê
cái câu này. Người về ấm lũy tre xanh... Cậu nói sao mà hay thế!
Em tiếc là chưa được gặp ông Phạm Duy. Nếu gặp thế nào em cũng nói với ông ta
như thế!”

Xe dừng ở một bãi đậu cách Đền một khoảng xa. Khách trên xe
chưa bước xuống thì như ong vỡ tổ một đám đông những người bán hàng đã ồn ào
kéo tới. Họ bám theo đám khách du lịch suốt dọc con đường nhỏ dẫn đến Đền Vua.
Những đứa bé bán kẹo, những cô gái bán nước uống, những bà già bán bánh trái
kèo nài mời mọc. Biết là nhắm vào khách ngoại quốc không ăn thua gì, đám bán
hàng chỉ tấn công vào đám người Việt. Nhìn những đứa bé lem luốc và những bà
già áo quần sờn rách tôi thấy cái nghèo khó của vùng quê miền Bắc, cái nghèo
khó như bị ướp nguyên từ cả trăm năm nay, tương phản với đời sống những nơi thị
tứ tôi đã đi qua. Chị tôi mua mấy thứ, vì tội nghiệp mà mua, chứ tôi biết những
thứ đó chị tôi cũng sẽ đi cho chứ không ăn được. Tội nghiệp ông già Việt kiều
và bà vợ đầm. Hai người không đi được nữa vì bị bu quanh, phải rớt lại phía
sau. Hai tay ông già đầy bánh trái không còn chỗ nào để cầm nữa, dưới nách còn
cặp thêm chai nước, mà đám con nít vẫn không buông tha. Vì số người bán quá
đông mà người mua ít tôi đọc thấy sự thất vọng trên khuôn mặt của những người
không bán được hàng. Nhất là hình ảnh bà già đứng ở ven đường, một bà già răng
nhuộm đen của một thời xưa, bà xuất hiện như thể vừa ngoi lên từ trong vùng sâu
quá khứ của tôi. Khăn vấn, áo cánh trắng, chiếc quần đen bạc thếch, khuôn mặt
nhăn nhúm, bà giơ hai bàn tay về phía trước. Sức nặng của thời gian làm lưng bà
còng xuống. Rõ ràng bà chìa tay không phải ăn xin. Bà ta bán hàng. Nắm kẹo vừng
lẩy bẩy trên lòng bàn tay. Nhưng bà không tranh được với những thằng bán kẹo
xông xáo, bà bị đẩy lui về phía sau.

Phía bên tay mặt cái cổng vào đền là một hàng chữ khắc trên
đá đen “Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng.” Qua cổng đền du khách chia làm hai nhóm
đi theo anh hướng dẫn viên nói tiếng Anh và cô thâu ngân giải thích bằng Việt
ngữ. Tôi không đi theo nhóm nào, tôi lấy máy hình chụp ảnh anh chị tôi trong tốp
người Việt theo cô thâu ngân. Phía trong cùng của ngôi đền là tượng của Đức Vua
đặt trong một gian tối mờ mờ, giữa những cây cột gỗ lim đen bóng và mùi hương
trầm phảng phất. Hai bà du khách mặc áo gấm đốt nhang và xì xụp khấn, dưới ánh
chớp lóe của những chiếc máy ảnh từ phía du khách ngoại quốc. Tôi thấy chiếc áo
dài gấm của hai bà trông không kệch cỡm như khi đi thuyền sáng nay nữa, mà trái
lại rất thích hợp trong khung cảnh này.

Trong khi hai hướng dẫn viên giải thích về lịch sử vua Đinh
Tiên Hoàng tôi thơ thẩn đi dạo quanh, tôi nhìn cái sân rộng dưới chân với những
viên gạch Bát Tràng nâu đã thâm bóng lại và thời gian đã làm mòn trũng đi ở giữa
những viên gạch. Trên sân, những bông hoa giấy đỏ thắm trồng trong những chậu
sành lớn. ở ngang hông đền thờ một cái cửa nhỏ khoét trên bức tường thành, qua
cánh cửa mở là cánh đồng lúa chín vàng rực ở bên ngoài. Tôi tiến về phía cửa.
Bên ngoài vắng ngắt không một bóng người. Cánh đồng lúa trải ra bát ngát, một
con trâu gầy gò đang gặm cỏ ở gần và mùi lúa chín thoảng về làm sống dậy khứu
giác tôi cái mùi quê đồng cỏ nội của thời quá khứ xa xưa. Ngay khi tôi toan
quay trở vào đền, tôi chợt thấy ngay gần tôi, sát phía ngoài của bờ tường một
bà già đang ngồi gục ngủ, cái nón lá bên cạnh. Tôi không biết có phải bà bán kẹo
mà tôi đã thấy trước khi vào đền hay không nhưng áo quần bà mặc và cái đầu tóc
vấn thì giống hệt. Thốt nhiên tôi lặng người. Hình ảnh bà già ấy đúng là hình ảnh
của mẹ tôi, đầu vấn khăn, chiếc áo cánh trắng, chiếc quần lĩnh đen, đang cúi xuống
chà chà cho sạch những miếng cau khô ẩm bị xanh mốc. Cái hình ảnh quen thuộc đó
của bà nó ăn vào kí ức
tôi từ thời tấm bé, từ căn nhà 15 Hàng Bè Hà Nội cho đến 39 Khu chợ An Đông Sài
Gòn. Bao nhiêu năm tháng qua, bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc, ngay sát cạnh
cái đời sóng gió tơi bời của bố tôi, bà cứ lui cui cúi xuống vân vê chăm sóc những
hạt cau khô từng hạt từng hạt không rời, xem chúng như những hạt quý nuôi dưỡng
chúng tôi. Hai mươi năm qua từ ngày mẹ tôi mất hình ảnh của tôi về bà bao giờ
cũng là hình ảnh buồn bã, cái buồn bã như thấm đọng vào đời bà, như thấm sâu cả
vào trong tiếng cười giòn của bà nữa.

Một buổi trưa tôi nằm ngủ lơ mơ trong căn gác ở chung cư chợ
An Đông. Trong giấc mơ ngắn ngủi của tôi có tiếng khóc nức thảm thiết khiến tôi
choàng dậy. Tiếng khóc như vừa xuyên thủng giấc mơ vì khi tỉnh giấc tôi còn
nghe rõ tiếng khóc nức ấy đưa lên từ nhà dưới. Tôi nhẩy hai bước một xuống cầu
thang. Dưới nhà, trên tấm giường phản gỗ, mẹ tôi đang cười giòn tan, cười chẩy
cả nước mắt vì mắt bà đỏ hoe! Mẹ tôi vừa cười vừa vỗ vỗ lên vai bà khách: “Giời!
Lâu quá mới gặp lại bà! Dễ từ cái thời ở Hà Nội. Gặp nhau nói chuyện cũ với bà,
ôi sao vui quá!” Mẹ tôi ngừng nói khi trông thấy gương mặt thảng thốt của tôi.
“Trời, mợ cười mà con cứ nghĩ là mợ khóc, làm con hết hồn!” Mẹ tôi quay sang bà
khách: “Đấy, đứa con út của tôi đấy! Bố nó thương nó nhất nhà. Lúc bố nó chết,
có bao nhiêu sách bố nó giao cho nó hết. Tôi chỉ sợ sau này nó cũng đến khổ như
bố nó thôi...”

Ví mà tôi đổi thời gian được. Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười (Thơ
Trần Thiện Đạo).

Nhìn trước sau không có ai, tôi lấy ví tiền rút ra mấy tờ giấy
bạc lớn rồi sợ bà già thức giấc tôi rón rén bỏ tiền vào trong chiếc nón lá. Khi
tôi quay trở vào trong thì vừa vặn đám du khách cũng đi ra về phía cổng đền.

Chiếc xe taxi bỏ Hồ Hoàn Kiếm rẽ qua phố Tràng Thi. Xe
đi vào khu phố tây của Hà Nội. Nó khác khu phố cổ ở những vỉa hè rộng, những
cây sấu cao to thay thế những cây dâu da xoan thấp bé và những biệt thự màu vôi
vàng y nguyên từ thời thuộc địa thấp thoáng qua những hàng rào sắt chạy dài dọc
theo vỉa hè. Đến đường Điện Biên Phủ tôi bảo tài xế chạy chậm cho tôi dò tìm số
nhà. Xe ngừng, tôi dặn anh tài xế đúng một giờ sau trở lại đón tôi ở đấy. Ngày
hôm trước đứng dưới gốc bàng nơi ngã tư Quán Thánh - Hàng Bún tôi sực nhớ tới một
người. Dưới mái nhà kia người đó đã từng san sẻ nhiều k
niệm với bố tôi, là người mà có thể
tôi đã gặp trong tòa nhà đó năm mươi sáu năm trước mà vì còn quá nhỏ tôi không
nhớ, là người duy nhất đang ở thành phố này có thể giúp tôi làm cây cầu nối liền
quãng thời gian gần bảy mươi năm, khoảng cách giữa hai lần bố con tôi cùng nhìn
về cây bàng này.

Trở về khách sạn tôi quay điện thoại xin gặp nhà thơ
Huy Cận.
Sau
khi tự giới thiệu là con của nhà văn Nhất Linh từ nước ngoài về muốn đến thăm
ông, ở đầu dây có tiếng thốt lên mừng rỡ bằng một giọng rất nặng Huế:
Có phải anh là anh Triệu không? Không, cháu là em của anh Triệu. (Tôi nhớ ngay đến bài thơ Tựu trường của Huy Cận 1938
với lời đề
Tặng em Triệu). Nhà thơ nói với tôi là đúng hai giờ
trưa mai ông có thể tiếp tôi một tiếng đồng hồ tại tư gia. Ông còn nói là mặc
dù có tuổi ông vẫn còn làm việc ở nhà Văn hóa và thời gian đó là thuận tiện nhất
cho ông.
Nhìn
đồng hồ tay tôi thấy mình đến sớm mười phút. Nhớ tới lời dặn của ông tôi chờ bằng
cách tản bộ trên vỉa hè rộng của khu phố tây.

Buổi sáng nay Hà Nội rào rào một trận mưa lớn. Tôi đi
dưới hàng cây sấu cao. Sau trận mưa ban sáng những chiếc lá xanh trở nên đậm
màu hơn và trên vỉa hè, trên mặt đường phủ lên môt lớp hoa sấu vàng mỏng. Vỉa
hè còn ướt nhẹp nước mưa. Tôi giẫm đi trên hoa sấu nhỏ li ti những cánh hoa
vàng nhạt mỏng manh mọng nước. Đó là một tòa nhà quét vôi vàng nhạt với kiến
trúc cổ, trước nhà một cánh cổng sắt sơn màu xanh lá cây. Đúng hai giờ một ông
già dáng đi nặng nề từ trong nhà bước ra tay cầm chùm chìa khóa tra vào ổ cánh
cửa sắt. Cửa mở. Trước mặt tôi là Huy Cận. Trước mặt tôi là tác giả câu
thơ
Bèo dạt
về đâu hàng nối hàng...”
bố tôi đã trang trọng viết trên trang đầu
bản thảo cuốn
Xóm Cầu Mới (Bèo dạt) mà tôi đã nâng niu cất giữ
trong suốt bốn mươi năm qua.
Huy Cận hướng dẫn tôi vào nhà qua một
lối đi lát gạch có đặt nhiều chậu cây kiểng. Trong phòng khách ông tiếp tôi có
treo trên tường bức tranh vẽ chân dung nhà thơ Xuân Diệu. Trên một cái tủ đen
có trưng hai bằng tưởng thưởng lồng trong khung kính, qua hàng chữ đỏ lớn tôi đọc
thấy “Huân chương Độc lập” và “Giải thưởng Hồ Chí Minh.” Ngồi xuống ghế, tôi
nói ngay với ông cái mục đích rất giản dị của tôi là xin được gặp ông để nghe
ông nói về những k
niệm ông đã có với bố tôi. Tôi xin ông không nói chuyện
chính trị bởi vì giữa ông và bố tôi đã đi trên hai con đường khác nhau mà cả
hai bên tôi nghĩ đều rất hãnh diện về sự lựa chọn của mình. Xem ra ông cũng đồng
ý với tôi trên căn bản đó.
Tuổi già không làm khuôn mặt ông hom hem như nhiều khuôn mặt những
người tuổi ông tôi đã thấy ở Hà Nội. Mặt ông vẫn giữ được vẻ đầy đặn có thể gọi
là tròn trịa. Với cặp mắt húp húp Huy Cận nhìn tôi và bắt đầu câu chuyện bằng một
câu hỏi:
Cháu Thiết năm nay được bao nhiêu tuổi? Sau khi tôi nói tuổi của tôi, trầm
ngâm hồi lâu rồi ông nói, giọng ngậm ngùi:
Cháu có biết không? Thế là cháu đã
già hơn bố cháu bốn tuổi khi bố cháu mất đấy!
Rồi ông hỏi tôi về đời sống của tôi,
của các anh chị tôi, có những ai còn ở trong nước không và nhất là hỏi thăm anh
Triệu mà ông đã san sẻ k
niệm dưới tòa nhà 80 Quán Thánh (anh Triệu tôi là con
nuôi của nhà văn Khái Hưng). Ông cũng hỏi anh em chúng tôi còn lại bao người.
Tôi trả lời chúng tôi còn lại năm. Huy Cận nói:
Bố mẹ cháu có trên mười người con.
Cháu có biết vì sao cháu có đông anh em thế không? Mỗi lần bà Nhất Linh mang bầu
thì ông Nhất Linh lại nói với tôi là sau mỗi lần sinh đẻ bà khỏe hẳn ra chứ
không như những người đàn bà khác ngại đẻ, cho nên có nhiều con cũng là một
cách tốt để bả sống lâu.
Bố tôi đối xử với bạn bè và những người cộng tác với
ông hết sức chân tình. Huy Cận ghi nhận. Ông kể với tôi là ông không bao giờ
quên được một đêm đông ông đến thăm bố tôi, thấy ông trên người chỉ có cái áo
phong phanh, bố tôi đã cởi ngay chiếc áo lạnh pa-đờ-suy mà bố tôi đang mặc
khoác lên người ông và tặng luôn ông chiếc áo lạnh đó.
Rồi bỗng như
lóe ra một k
niệm vui, trong cặp mắt húp húp của ông già ấy tôi thấy ánh
một nét trẻ thơ:
À, mà chuyện này bà Nhất Linh không biết đâu! Chỉ có
tôi với ông Nhất Linh biết thôi! Chúng tôi có san sẻ riêng với nhau câu chuyện
về một thiếu nữ. Tôi không biết ông Nhất Linh có mê thật cô ấy không, nhưng ông
đặt một bí danh cho thiếu nữ ấy là “cô áo trắng.
Bài thơ Áo trắng của tôi ông muốn tôi đề tặng ông.
Cháu biết không, cô áo trắng là cô Thu trong
Bướm trắng của ông Nhất Linh
đấy.
Tôi hỏi Huy Cận là ông có biết bài thơ Ngậm ngùi của ông đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ
nhạc và bản nhạc này rất thịnh hành ở miền Nam đến độ với bài
Ngậm ngùi người nhạc sĩ Phạm Duy đã làm mờ nhà
thơ Huy Cận. Ông không trả lời vào câu hỏi nhưng ông nói:
Bài thơ Ngậm ngùi có tư tưởng mới lắm nghe! Sáu bảy mươi
năm trước mà tôi đã viết câu
anh hầu (chứ không phải em hầu) quạt đây!” Mới lắm
nghe!”

Tôi nhìn đồng hồ
thấy đã nói chuyện với ông gần một tiếng. Trước khi đứng dậy cáo từ, tôi nhìn
thẳng vào mắt Huy Cận, tâm tình: “Này chú, cháu có thắc mắc này và cháu nghĩ biết
đâu cũng có những người khác có cùng thắc mắc như cháu, đó là một người, một
nghệ sĩ đã từng sáng tác được những câu thơ như chú trong cái thời 1930 ấy, những
vần thơ lãng mạn trác tuyệt như thế đến như bố cháu cũng phải cảm mà lấy
tên
Bèo dạt đặt cho một tác phẩm để đời của mình, một
người có cái tâm hồn
ấy không thể nào là bản chất của một
người cộng sản được.”
Huy Cận ngẫm nghĩ hồi lâu rồi trả lời: “Hỏi
thật cháu chứ câu này có phải của ông Nhất Linh nói không?” Khi tôi nói là
không phải và tôi cũng không biết bố tôi có cái thắc mắc như tôi hay không, thì
ông không trả lời, chỉ nói nhẹ nhàng: “Cháu nghĩ là người cộng sản không có tâm
hồn sao?” rồi ông nói lảng sang một câu chuyện khác.

Huy Cận tiễn tôi
ra cửa. Bàn tay ông run rẩy tra khóa vào ổ khóa chiếc cửa sắt. Chúng tôi ra
ngoài hè đường. Chiếc xe taxi đã đậu chờ sẵn dưới bóng một cây sấu. Ông ngoắc
tôi đi theo ông đến một hiệu photocopy ở cách đó mươi nhà. Ông làm mấy phóng ảnh
đưa tôi. Đó là bốn bức ảnh chụp Khái Hưng, Nhất Linh, Xuân Diệu, Thế Lữ với lời
đề tặng Huy Cận của từng người một từ hơn sáu mươi năm trước. Rồi ông và tôi bước
trở lại chỗ chiếc taxi đậu.
Giây phút trước khi tôi lên xe,
Huy Cận quàng tay qua người tôi. Tôi cảm thấy bàn tay ông nặng xuống bả vai.
Qua giọng nói của ông và qua bàn tay ông truyền vào người tôi, tôi cảm nhận được
cái xúc động của ông già tám mươi hai tuổi đó, cái xúc động nó rõ ràng là mạnh
mẽ hơn một sự ngậm ngùi: “Việc gì anh ấy phải chết. Việc gì bố cháu phải chết...”

Báo cáo nội dung xấu