Bản du ca cuối cùng - Phần II - Chương 16
Chương 16
Kern và Ruth vượt biên
giới không gặp một trở ngại nào, họ đi xe lửa tới Bellegarde. Ngay đêm đó họ
tới Ba Lê và cứ luẩn quẩn mãi trước nhà ga, chẳng biết phải đi đâu.
Kern
nhìn người yêu:
- Can
đảm lên, Ruth! Mình sẽ tìm tới một khách sạn nhỏ nào đó gần đây. Giờ này thì
chẳng còn cách nào hơn.
Tới một
con đường ngang, họ bắt gặp một bảng hiệu dạ quang màu đỏ “Khách sạn Habana”.
Kern vào hỏi giá phòng.
Người
gác cửa hỏi lại:
- Ngủ
đêm thôi phải không?
Kern
hơi ngạc nhiên:
- Phải.
- Hai
mươi lăm quan.
- Phòng
hai người?
Tới
phiên người gác cửa ngạc nhiên:
- Chớ
còn gì nữa.
Kern ra
gọi Ruth vào. Người gác cửa liếc nhìn họ thật nhanh rồi trao một tấm phiếu khai
lý lịch. Kern trầm ngâm, do dự. Người gác cửa cười:
- Chẳng
có gì đâu. Hình thức thôi.
Nhẹ nhõm,
Kern ghi vào phiếu tên Ludwig Oppenheim.
Một gã
bồi phòng đưa họ lên chỗ trọ. Phòng không mấy rộng nhưng sạch sẽ với chiếc
giường khá to và êm ái, hai cái bàn, một ghế dựa nhưng không có tủ.
Kern
đặt vali xuống rồi tới cửa sổ nhìn ra:
- Thế
là chúng mình đang ở Ba Lê.
Ruth
cười thật tươi:
- Như
chiêm bao.
- Em có
nghe anh nói tiếng Pháp không? Anh hiểu tất cả những gì người gác cửa nói.
Ruth
khen:
- Anh
giỏi quá. Còn em không thể mở miệng được.
- Vậy
mà em giỏi tiếng Pháp hơn anh. Chẳng qua là nhờ anh dạn miệng. Thôi, mình kiếm
gì lót dạ cái đã. Tới một thành phố nào mà không đi ăn uống thì vẫn còn bị mặc
cảm là thành phố ấy thù nghịch với mình.
Hai
người đi qua một quán ăn nho nhỏ gần bên khách sạn.
Với sáu
quan, họ được trọn một phần ăn kể cả một ly rượu chát loại rẻ tiền nhưng khá
ngon. Suốt ngày chẳng ăn uống gì đáng kể nên bây giờ rượu ngấm rất mau khiến cả
hai trở về ngay khách sạn.
Tại
phòng khách, một thiếu nữ đang đứng bên một thanh niên có vẻ đã say. Cô gái khá
đẹp nhưng trang điểm hơi thái quá. Cô ta ném một cái nhìn khinh khỉnh về phía
Kern. Người đàn ông đang hút xì-gà không buồn tránh chỗ Kern tới lấy chìa khóa
phòng.
Kern mở
đèn lên. Ruth buông xách tay và áo choàng xuống đất ôm chầm lấy Kern:
- Em
đang mệt, mệt và phiền não, nhứt là đang phiền não. Bồng em lên giường đi.
- Xin
tuân lệnh.
Ruth
ngả đầu lên vai Kern, thở dài rồi ngủ vùi như một đứa trẻ. Kern nằm nghe hơi
thở của mình và của Ruth rồi cũng ngủ say.
***
Kern từ
trong trụ sởủyban cứu trợ bước ra. Trước khi tới đây anh đã đoán là người ta sẽ
nói những gì. Không nên nghĩ là sẽ có được một giấy phép lưu trú. Về phần cứu
trợ thì chỉ những trường hợp tối cần thiết mà thôi. Dầu có được cho lưu trú
cũng không được phép hành nghề.
Kern
không thấy gì đáng kể thất vọng, nước nào cũng vậy thôi. Tuy nhiên, hàng vạn
dân tị nạn vẫn sống nhăn trong khi nếu áp dụng đúng theo luật lệ, họ đã chết
đói từ lâu.
Tới
phòng đợi, anh dừng lại. Trong phòng lúc bấy giờ đã đầy kín những người. Anh
quan sát từng người một và sau cùng đi tới chỗ một người đàn ông đang đứng
riêng một mình có vẻ trầm lặng, suy tư. Anh lễ phép hỏi:
- Xin
lỗi, chẳng biết ông có vui lòng chỉ giúp cho tôi một chỗ trọ mà chẳng cần khai
báo hay không? Tôi vừa tới Ba Lê hôm qua.
Người
đàn ông không kiểu cách:
- Có
tiền không?
- Dạ
chỉ có ít thôi.
- Cậu
có thể trả sáu quan một phòng không?
- Tạm
thời thì được.
- Vậy
thì tới lữ quán Verdun, đường Turenne. Nói với người chủ là do tôi giới thiệu.
Tên tôi là Klassmann – ông ta nói thêm với giọng mỉa mai – Bác sĩ Klassmann.
- Thưa,
ở Verdun có an toàn không?
- Chẳng
có đâu là an toàn cả. Nhưng ở đó người ta không ghi ngày tháng vào phiếu và
cũng không nộp phiếu cho Cảnh sát. Khi có kiểm soát họ bảo là mình chỉ mới tới
ban đêm và sẽ gởi phiếu đi vào sáng hôm sau, cậu hiểu chưa? Điều cốt yếu là đừng
để bị bắt tại chỗ. Ở đó còn có một đường hầm. Verdun không hẳn là một lữ quán
mà là một kiến trúc theo ý muốn của thượng đế, được xây lên cách đây năm mươi
năm, để đón chờ những người tị nạn. Cậu đã đọc xong tờ báo chưa?
- Dạ,
xong rồi.
- Vậy
cho tôi và chúng mình kể như không nợ nần nhau.
- Dạ
đây. Cám ơn ông nhiều.
Kern
vội vàng tới gặp Ruth đang đợi ở một quán nhỏ góc đường. Nàng đã mua được một
bản đồ thành phố Ba Lê và một quyển văn phạm Pháp. Nàng chỉ vào hai món đồ đó:
- Em
mới mua rẻ trong một tiệm bán sách cũ. Đây là hai vũ khí hữu hiệu để mình chinh
phục Ba Lê.
- Tốt
lắm. Mình có dịp dùng tới ngay. Em dò xem đường Turenne ở đâu.
***
Lữ quán
Vedun là một tòa nhà cổ, loang lổ nhiều nơi. Qua khỏi một cái cửa hẹp là tới
một cái quầy gần như suốt ngày lúc nào cũng có bà chủ, một thiếu phụ gầy nhom,
mặc toàn đen, ngồi trên đó.
Kern
nói với bà ta bằng tiếng Pháp không trôi chảy. Bà ta nhìn Ruth và Kern từ đầu
đến chân với đôi mắt nhỏ đen láy:
- Ở
không hay tính luôn tiền ăn?
- Nếu
ăn luôn thì bao nhiêu?
- Hai
chục quan mỗi người. Ba bữa ăn. Điểm tâm trong phòng. Các bữa kia dọn trong
phòng ăn.
Kern
nói với Ruth bằng tiếng Đức:
- Mình
ăn ở đây ngày đầu rồi sẽ tính. Vấn đề chính là chỗ ở trước đã.
Ruth
gật đầu. Kern nói với bà chủ quán:
- Nếu ở
chung một phòng thì giá tiền có bớt không?
Bà chủ
trọ lắc đầu:
- Chưa
có phòng trống cho hai người. Nếu ở thì lấy phòng một trăm bốn mươi một và một
trăm bốn mươi hai – bà ta ném chìa khóa lên bàn – trả tiền trước mỗi ngày.
Kern
ghi tên vào phiếu nhưng không đề ngày tháng. Anh trả tiền và lấy chìa khóa.
Cả hai
phòng đều chật hẹp như nhau. Kern chép miệng:
- Đúng
là ổ chuột dành cho dân tỵ nạn. Dầu sao cũng có đôi chút không khí gia đình. Em
nghĩ sao?
- Em
thì cho là sang trọng lắm. Mỗi phòng có một giường. Anh còn nhớ ở Prague không?
Ba bốn người ở chung nhau.
- Phải,
anh quên mất. Anh cứ nghĩ tới căn nhà của Neumann ở Zurich.
Ruth
cười lớn:
- Còn
em thì lại nhớ tới vựa cỏ mà chúng mình bị mưa dột làm ướt ngoi.
- Em
suy luận đúng hơn anh. Nhưng em biết tại sao những ý nghĩ ấy đến với anh không?
- Em
biết, nhưng đó chỉ là ý nghĩ sai. Mình sẽ mua ít giấy bóng để làm chụp đèn.
Mình học tiếng Pháp ở bàn này và nhìn ra khoảnh trời nho nhỏ trên mái ngói.
Mình sẽ ngủ và thức trên những chiếc giường này, có lẽ là những chiếc giường êm
ả nhứt thế giới, và khi ra đứng bên cửa sổ, cái sân bẩn thỉu dưới kia sẽ có vẻ
nên thơ vì nó là một cái sân của thành phố Ba Lê.
- Hay
lắm! Và bây giờ mình tới phòng ăn. Mình sẽ ăn những món ăn của Pháp, và có thể
đó là những món ngon nhứt thế giới.
Phòng
ăn của lữ quán Verdun là một gian hầm. Những người ở đây gọi đó là “mộ địa”.
Muốn tới đó phải đi qua một đoạn đường dài khúc khuỷu với những thang lầu,
những hành lang và những căn phòng bỏ trống hàng chục năm sực nức mùi băng
phiến, không khí đọng lại như nước ao hồ. Phòng ăn khá rộng vì một phần thuộc
về khách sạn Quốc Tế ở sát bên mà người khai thác không ai khác hơn là em gái
của bà chủ bên này.
Đối với
hai nhà ngủ tồi tàn này, phòng ăn được coi là một nơi giải trí của khách trọ.
Những người tị nạn nhìn thấy ởđó như những hầm mộ của La Mã thời xưa. Khi có
một cuộc bố ráp bên Quốc Tế, khách trọ ùa vào phòng ăn đểqua bên Verdun và
ngược lại. Có thể bảo đó là nhà mồ cộng đồng có mục đích cứu rỗi những kẻ chưa
muốn chết.
Kern và
Ruth đứng ở cửa, chưa biết phải làm gì. Mặc dầu đã giữa trưa nhưng vì gian
phòng không có cửa sổ nên phải để đèn. Ánh điện vào giờ đó khiến cho không khí
có vẻ âm u, buồn thảm và bệnh hoạn.
Kern
bỗng nắm tay Ruth:
- Uûa!
Marill kìa!
- Đâu?
- Đàng
kia, gần ngọn đèn. Hay quá! Mới chân ướt chân ráo đã gặp ngay người quen.
Ngay
lúc đó Marill cũng vừa nhận ra Kern và Ruth. Ông ta sững sờ mất mấy giây rồi
vội vã đi tới chỗ họ.
- Mấy
đứa bé tới Ba Lê! Ồ thật là khó tin. Làm sao tìm ra được cái kí túc xá cổ lỗ
này.
- Bác
sĩ Klassmann chỉ.
-
Klassmann? Vậy à? Được lắm. Verdun kể như toàn hảo. Có trả luôn tiền ăn chớ?
- Dạ,
chỉ một ngày thôi.
- Tốt.
Vậy thì ngày mai chỉ trả tiền phòng không thôi và mua lấy thức ăn. Như thế ít
tốn kém hơn. Thỉnh thoảng cũng nên ăn ở đây một hôm để bà chủ vui lòng. Rời
Vienne là phải, tình hình ở đó bắt đầu rối rắm.
- Còn ở
đây?
- Ở
đây? Áo, Tiệp, Thụy Sĩ, đó là trận chiến chuyển động của phong trào di dân,
nhưng Ba Lê lại là chiến trận vị thế. Hầu hết những đợt sóng di dân đều đổ tới
đây. Cậu có thấy người mặc áo lông cừu đen đằng kia không? Ông ta là người Ý.
Người có râu bên cạnh? Dân Nga. Và cách đó hai ghế? Một người Tây Ban Nha. Rồi
kia nữa là một người Ba Lan và hai người Mỹ. Sau hết là bốn người Đức. Ba Lê là
hi vọng cuối cùng và cũng là vận hội sau chót của thế giới – ông ta nhìn đồng
hồ – lại đây, cô cậu. Gần hai giờ rồi. Nếu cần ăn thì ăn ngay. Người Pháp luôn
luôn đúng giờ đối với các bữa ăn. Quá hai giờ là chẳng còn gì cả.
Kern và
Ruth ngồi cùng bàn với Marill.
- Ăn ở
đây, nên nhớ tới cô hầu bàn mập mạp kia. Tên cô ta là Yvonne, dân Alsace. Tôi
không hiểu cô ta làm thếnào mà các dĩa ăn do cô tới đều đầy hơn các dĩa khác.
Yvonne
mang súp tới với một nụ cười tươi.
Marill
hỏi Kern:
- Còn
được bao nhiêu tiền?
- Đủ
còn khoảng mười lăm hôm.
- Tốt
lắm. Nhưng có định làm gì chưa?
- Dạ
chưa. Chúng tôi mới tới đêm qua. Những người ở đây sống bằng cách gì?
- Hỏi
rất chí lý, Kern. Bắt đầu bằng tôi trước đã. Tôi sống nhờ vào một số bài viết
cho các tờ báo chuyên lo về dân tị nạn. Người ta chịu mua bài vì biết tôi trước
kia là dân biểu ở Reichtag. Người Nga thì tất cả đều có thông hành Nansen và
giấy phép hành nghề. Họ là những người lưu vong trước chúng ta hai chục năm. Họ
làm bồi bàn, nấu bếp, đấm bóp, gác cửa, đánh giày, lái xe… Kế đó là người Ý, di
dân đợt hai. Phần người Đức bọn mình, phần lớn vẫn có giấy thông hành còn lực,
một số họ tiện ít được cấp giấy hành nghề. Còn chút ít tiền bạc, tặn sống qua
ngày. Nhưng rất nhiều người chẳng còn đồng nào cả. Họphải làm việc lậu để kiếm
một vài quan. Ông luật sư ngồi kia phải thông dịch mướn và đánh máy để kiếm một
vài quan. Anh chàng ngồi bên ông ta chuyên hướng dẫn người Đức có của tới những
hộp đêm. Cô đào hoạn nạn ngồi trong góc đi coi chỉ tay. Một số đi dạy sinh ngữ.
Có người chỉ sống nhờ vào quỹ cứu trợ. Tóm lại, một sốngười đi làm và một số ăn
xin.
À, cậu
đã đi vào văn phòng cứu trợ chưa?
- Mới
hồi sáng này.
- Họ
không giúp gì cả?
- Dạ,
không.
- Chẳng
sao, cứ trở lại đó. Ruth nên tới cơ quan tương trợ Do Thái còn cậu thì gõ cửa
các văn phòng hỗn hợp – ông ta cười – sự nghèo đói cũng có chế độ riêng của nó.
Cậu đã ghi tên chưa? Mai tới đó đi. Klassmann có thể giúp được. Có thể ông ta
sẽ giúp Ruth lấy được thẻ lưu trú vì Ruth có giấy thông hành.
Kern
lắc đầu:
- Đã
hết hiệu lực rồi, lại còn vượt biên giới bất hợp pháp.
- Không
sao đâu. Miễn có giấy thông hành là được. Klassmann sẽ nói rõ cho cậu biết.
Yvonne
mang khoai tây tới với một dĩa đựng ba miếng thịt trừu. Kern cười với cô ta.
Yvonne dịu dàng cười theo. Marill bảo:
- Thấy
rõ chưa? Phần ăn của mỗi người là một miếng, vậy mà Yvonne vẫn có cách tặng
thêm miếng nữa.
Ruth
nhìn cô hầu bàn:
- Cám
ơn Yvonne.
Mặt
Yvonne sáng hẳn ra. Cô ta vừa đi vừa nhún nhảy.
Marill
hỏi Ruth:
- Còn
theo dõi hóa học không?
- Tạm
thời thì đang bỏ.
- Vậy
là khôn. Có thấy người ngồi đằng kia với cuốn sách đó không? Luôn hai năm, cậu
ta giúp việc trong hộp đêm, vừa làm vừa học. Mới đậu Tiến sĩ cách đây mười lăm
hôm. Bây giờ cậu ta lại đi học Anh ngữ cố lấy được bằng sinh ngữ nay mai để đi
Nam Phi vì ở đây không còn chỗ làm. Đó có phải là một niềm an ủi đối với cô bé
không?
- Dạ,
đúng vậy.
- Còn
Kern?
- Với
tôi, tất cả đều có thể là niềm an ủi. Cảnh sát ở đây thế nào?
- Không
gắt lắm.
- Lại
thêm một niềm an ủi.
***
Sau khi
đưa Kern vào văn phòng cứu trợ để ghi tên và tạt vào Sở Di trú để chứng kiến
cảnh xin giấy tờ khó khăn của dân tị nạn. Bác sĩ Klassmann bảo Kern:
- Mình
ghé quán kiếm gì giải khát.
Họ ngồi
vào một cái bàn xoay. Kern thấy tỉnh người đôi chút sau khi uống xong ly rượu
chát. Anh hỏi Klassmann:
- Chặng
nào là chặng cuối?
- Chặng
cuối là nơi những người như chúng mình ngã chết vì đói lạnh. Trong nhà tù,
trong đường xe điện hầm ban đêm, trong những ngôi nhà xây cất dở dang. Hoặc là
dưới dạ cầu sông Seine.
Kern
nhìn dòng người xuôi ngược không ngừng qua trước quán, Klassmann chợt hỏi:
- Cậu
bao nhiêu tuổi?
- Hai
mươi mốt, gần hai mươi hai.
- Tôi
đoán không sai. Con trai tôi cũng bằng tuổi cậu.
- Anh
ấy cũng ở đây?
-
Không. Vẫn ở Đức.
- Tội
nghiệp…
Klassmann
cắt ngang:
- Không
phải cho nó. Nếu có ở đây còn tồi tệ hơn.
Keern
ngạc nhiên:
- Vậy
à?
- Chớ
sao. Nếu có nó ở đây tôi sẽ chặt nó ra từng mảnh.
- Sao
vậy?
- Nó tố
cáo tôi. Tại nó mà tôi phải bỏ xứ.
Kern
buột miệng:
- Khốn
kiếp!
- Tôi
là người thiên chúa giáo. Còn nó thì gia nhập tổchức Thanh Niên Quốc Xã. Cậu có
thể đoán là giữa tôi và nó đã có hơn một lần to tiếng. Càng ngày nó càng cứng
đầu hơn. Một hôm nó nó với tôi, bằng giọng điệu của nột thượng sĩ nói với tân
binh, là tôi phải im miệng, nếu không sẽ có chuyện sảy ra. Tôi tát nó. Nó bỏ đi
tố cáo với Cảnh sát. Nó thuật y những gì tôi đã nói về đảng. Rất may là có
người thông báo gấp cho tôi. Lúc toán biệt kích tới thì tôi đã đi rồi.
Kern
chép miệng:
- Kể
cũng ly kì.
- Và
chuyện ly kì lại có thể xảy ra khi tôi trở về.
***
Steiner
gắn huy hiệu Quốc Xã vào ve áo:
- Tuyệt
diệu, Beer. Bạn tìm cái này ở đâu ra?
Bác sĩ
Beer cười:
- Của
một bịnh nhân tặng. Hắn bị đụng xe gần Morat. Chính tôi săn sóc hắn. Ban đầu
hắn còn dè dặt nhưng sau đó thì nói toạc cả ra. Chúng tôi uống với nhau mấy ly
cognac rồi hắn tặng tôi huy hiệu làm kỉ niệm. Rất tiếc là hắn bị gọi về Đức.
- Xin
thượng đế ban phước lành cho hắn!
Steiner
vừa nói vừa lật tập hồ sơ xanh trên bàn, trong đó có một danh sách đóng dấu chữ
vạn và một số truyền đơn chánh trị. Anh gật gù:
- Thế
này là đủ rồi, lão ta không nghi ngờ gì được.
Truyền
đơn và danh sách là của Beer do một tổ chúc Quốc Xã ở Stuttgart gởi tới vì
những lý do không được sẵn sàng chiến đấu với lão Ammers. Beer đã kể cho anh
nghe chuyện Ammers hại Kern.
- Chừng
nào bạn đi?
- Mười
một giờ. Nhưng trước khi đi tôi còn trở lại để trả huy hiệu.
- Tốt.
Tôi sẽ đợi với một chai rượu.
Steiner
rời nhà Beer. Một lúc sau anh nhận chuông nhà Ammers. Người đàn bà giúp việc ra
mở cửa. Steiner lấy giọng kẻ cả:
- Tôi
cần gặp ông Ammers. Bảo là có ông Huber.
Người
giúp việc quay vào rồi trở ra hỏi:
- Thưa,
về chuyện gì?
Steiner
trừng mắt:
-
Chuyện của đảng.
Không
đầy một phút, Ammers ra tới. Lão ta nhìn Steiner với chút ít nghi ngại. Steiner
nghiêm mặt:
- Đồng
chí Ammers, hả?
- Vâng.
Steiner
bật ve áo ra cho thấy huy hiệu và tự giới thiệu:
- Huber.
Tôi thay mặt cho tổ chức đảng ở hải ngoại cần hỏi đồng chí vài câu.
Ammers
vội vàng đứng nghiêm:
- Xin
mời, xin mời vào, thưa…
- Tên
tôi là Huber. Schlichtweg Huber. Đồng chí nên biết… kẻ thù có thể nghe lén
mình.
- Thưa,
tôi biết. Đó là huy hiệu danh dự, thưa ông Huber.
Những
suy đoán của Steiner không sai. Ammers không hề nghi ngờ gì cả. Sự thần phục và
sợ hãi Getapo khiến lão ta không dám nghĩ khác. Và cho dầu có nghi ngờ, lão ta
cũng không hại được Steiner trên đất Thuỵ Sĩ, nhứt là Steiner có giấy thông
hành Áo với tên Huber. Không một ai biết nổi hắn đã dính líu với Quốc xã Đức
tới mức độ nào. Ngay như tòa Đại sứ lúc sau này cũng không biết rõ các hoạt
động mật của đảng.
Tới
phòng khách, Steiner không đợi mời đã ngồi vào chiếc ghế dựa dành cho chủ nhân,
nói như ra lệnh:
- Đồng
chí ngồi xuống đó.
Rồi vừa
lật hồ sơ, hắn vừa tiếp:
- Chắc
đồng chí đã biết nguyên tắc chính yếu của chúng ta khi hoạt động ở nước ngoài
là phải kín đáo chớ?
Ammers
gật đầu.
- Chúng
tôi cũng tin tưởng đồng chí về điểm đó. Thếnhưng mới đây, chúng tôi lại có tin
là đồng chí đã làm ồn ào vì một tên di dân vô danh nào đó. Có đúng thế không?
Ammers
gần như nhảy nhổm:
- Tên
lưu manh đó. Nó đã làm cho tôi mang bịnh và trở thành lố bịch…
Steiner
vẫn xẵng giọng:
- Lố
bịch? Có phải lố bịch trước công chúng không, đồng chí Ammers?
Ammers
sợ sệt:
- Thưa,
không trước công chúng. Tôi muốn nói là chính mình cảm thấy lố bịch.
Steiner
nhìn lão ta đăm đăm:
- Đồng
chí Ammers, một người của đảng không được lố bịch dầu chỉ là lố bịch trước mắt
mình! Lố bịch… đó là từ ngữ không thể có trong đảng. Chỉ có những kẻ khác mới
là lố bịch, đồng chí hiểu chưa?
- Thưa
hiểu.
Ammers
lau mồ hôi trên trán. Trong đầu lão đã hiện ra cảnh tội tù. Lão ấp úng:
- Thưa,
đó chỉ là trường hợp duy nhứt… Tinh thần tôi vẫn không thay đổi… Tôi vẫn trung
thành…
Steiner
cắt ngang:
- Tôi
cũng mong đó là trường hợp duy nhứt không bao giờ tái diễn. Kể từ nay trở đi,
đồng chí không cần lo cho bọn di dân, hiểu chưa?
Ammers
gật đầu hăng hái. Lão lại tủ rượu lấy ra hai cái ly nạm bạc, bên trong có mạ
vàng và một chai rượu.
Steiner
hỏi giọng bất cần:
- Cái
gì vậy?
- Thưa,
cognac.
Steiner
dịu giọng hơn nhưng vẫn làm ra vẻ kẻ cả:
- Người
ta đãi rượu bằng loại ly này khi nào rượu không được ngon mấy. Mang cho tôi một
ly thường thôi, đừng quá nhỏ.
Ammers
mừng ra mặt:
- Vâng.
Có sẵn cả.
Uống
xong, Steiner lật hồ sơ:
- Còn
một việc này nhờ đồng chí. Nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật. Đồng chí biết là
chúng ta chưa hoạt động đáng kể lắm ở đây về mặt tuyên truyền.
- Vâng,
tôi cũng nghĩ vậy.
- Tốt. Nhưng
đảng không thể trì trệ như thế này mãi. Mình phải có một ngân quỹ bí mật – Anh
ta liếc nhìn danh sách – đảng đã có một số nhà hảo tâm giúp rồi. Nhà này là của
đồng chí, phải không?
Giọng
Ammaers nghe yếu đi:
- Vâng.
- Đồng
chí định giúp bao nhiêu. Danh sách này cần phải gởi gấp về Bá Linh. Tôi ghi năm
chục quan, được không?
Ammaers
nhẹ người. Lão ta tưởng ít nhất cũng phải một trăm quan. Lão trả lời rất mau:
- Dạ
được. Ghi sáu chục cũng được.
- Tốt.
Vậy thì ghi sáu chục.
Ammers
lấy một tờ giấy bạc năm chục quan và một giấy bạc mười quan đặt trên bàn.
Steiner cho tiền vào cặp:
- Đồng
chí có biết tại sao chẳng có biên lai không?
- Thưa
biết. Tuyệt đối bí mật. Chúng ta đang ở Thụy Sĩ.
Steineer
gật đầu:
- Hay
lắm. Nhớ tránh những vụ rắc rối không đáng kể. Giữ được bí mật là kể như đã
thành công một nửa.
- Vâng.
Tôi sẽ cố tránh.
Steiner
ra về, đi quanh co một lúc khá lâu mới trở lại nhà Bác sĩ Beer.