Bản du ca cuối cùng - Phần II - Chương 17

Chương 17

Có tiếng gõ cửa. Ruth giựt
mình, lắng tai nghe. Nàng chỉ có một mình vì Kern đã đi từ sáng sớm để tìm
việc. Nàng do dự một lúc rồi nhẹ nhàng đi qua phòng Kern bằng cửa thông nhau
giữa hai phòng.

Ruth
rón rén ra hành lang phía bên kia, đứng ở góc tường nhìn lại.

Một
người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đang đứng trước cửa phòng Ruth. Nàng biết
mặt ông ta và có nghe gọi là Brosse.

Vợ ông
ta bị bịnh nằm liệt giường mấy tháng nay. Họ chỉ sống nhờ tiền cứu trợ và chút
ít của cải mang theo. Ởlữ quán Verdun mọi người đều biết rõ chuyện của nhau.
Nàng tới gần:

- Ông
tìm tôi?

- Vâng.
Có phải cô là Holland không?

- Chính
tôi.

- Tên
tôi là Brosse, ở tầng dưới này. Vợ tôi bịnh… Nhưng tôi phải ra ngoài để kiếm
việc làm. Tôi mạn phép đến gặp cô để xem cô có chút thì giờ…

Da mặt
Brosse xanh xao, đầy nét phiền muộn. Ở đây, hễ cứ thấy ông ta là mọi người đều
lảng ra để khỏi bị nhờ đóng vai an ủi bịnh nhân.

- Vợ
tôi có những hôm… buồn đến lạnh người. Thế mà khi có người chuyện vãn là lại
vui lên làm như sắp hết bịnh. Không biết cô có vui lòng …

Mấy
ngày qua Ruth bắt đầu đan áo ấm. Có người cho biết, một cửa hiệu Nga tại Chaps-Eslysees
nhận mua loại áo len đan để bán lại đắt hơn gấp ba. Ruth ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Ông
đợi một chút. Để tôi vào lấy vài món.

Ruth
đem cả đồ đan theo Brosse xuống lầu dưới.

Về tới
phòng, Brosse cố làm ra vẻ vui tươi:

-
Lucie, anh mời cô Holland tới chuyện trò với em đây.

Hai con
mắt đen trên khuôn mặt sáng hướng thẳng về phía Ruth. Brosse nói mau:

- Bây
giờ anh đi. Tối về thế nào cũng có việc làm.

Ông ta
cười, nhè nhẹ đi ra khép cửa lại. Người đàn bà lạnh lùng hỏi Ruth:

- Chồng
tôi đến kiếm cô, phải không?

Ruth
không muốn trả lời, nhưng nghĩ lại, nàng gật.

- Cám
ơn cô. Nhưng tôi ẫn có thể nằm một mình. Cô cứ làm việc. Tôi cần ngủ một chút.

- Bà cứ
tự nhiên. Tôi có đem theo đồ đan đây.

Người
đàn bà thở dài:

- Ở bên
một người bịnh chán lắm…

- Nhưng
ngồi một mình trong phòng còn chán hơn.

Một lúc
lâu không nghe người đàn bà nói, Ruth ngước lên. Bà ta đang khóc nghẹn.

- Trời
ơi, ước gì tôi được ra ngoài phố một lần…

Nhìn
khuôn mặt xám mét của người bịnh, chiếc giường tồi tàn rồi nhìn ra con đường
ngập nắng chiều, những ngôi nhà có bao lơn và tấm bằng cao nghệu với một cái
chai khổng lồ kết lại bằng các ống đèn để quảng cáo cho rượu khai vị Dubonnet,
tự nhiên Ruth cũng cảm thấy cái thếgiới bên ngoài cửa sổ đó như thuộc về một
hành tinh khác.

Người
đàn bà nín khóc, mệt nhọc ngồi lên:

- Cô về
phòng à?

-
Không.

- Cô
đừng giận. Bịnh lâu quá tánh tình tôi không được bình thường…

Ruth
ngồi xuống bên người đàn bà:

-
Không, tôi có giận gì đâu.

Nàng
tiếp tục đan. Một lúc sau, người đàn bà tỉnh táo hẳn:

- Cô
cầm kim không được đúng lắm.

Và bà
ta chỉ Ruth cách đan cho được mau hơn. Ruth nhìn lên bắt gặp một nụ cười trên
môi người bịnh. Bà ta tiếp tục đan một lúc lâu rồi trao lại cho Ruth:

- Đó,
cô cứ làm giống như vậy…

Brosse
trở về buổi tối. Ông ta không khỏi lấy làm lạ khi thấy mặt vợ ửng hồng đôi
chút.

- Em
ngủ hả?

-
Không, chỉ nằm nghỉ.

- Cô
Holland về lúc nào?

- Mới
cách đây vài phút.

Thình
lình bà nắm lấy tay chồng:

- Anh,
có kiếm được việc làm không?

- Chưa,
nhưng chắc chắn là phải có.

Người
đàn bà nín lặng khá lâu và thở dài:

- Em
trở thàng gánh nặng cho anh.

Brosse
tròn mắt:

-
Lucie, sao em nói vậy? Không có em thì anh sống làm gì?

Ông ta
ngồi xuống vuốt tóc vợ:

- Em
đừng nghĩ nhiều mệt óc. Thế nào rồi cũng hết bệnh mà. Anh yêu em lắm, đừng nói
dại anh buồn.

- Không
ai có thể yêu một người đàn bà bịnh.

Brosse
cười buồn:

- Phải
yêu gấp đôi chớ. Bởi vì đó vừa là một người đàn bà vừa là một đứa bé.

Nước
mắt người đàn bà ràn rụa:

- Anh
còn yêu em không, Oho?

Brosse
ôm lấy mặt vợ:

- Yêu
và yêu gấp ngàn lần. Yêu đến nỗi anh còn ghen cả với cái giường mà em đang nằm.
Em phải nằm trong trái tim, trong huyết quản của anh…

- Oho…

-
Lucie…

Brosse
hôn môi vợ. Vành môi nhợt nhạt, lạnh căm của người bịnh từ từ nóng ấm ra.

***

Kern
vẫn chưa tìm ra được việc làm. Anh tới khắp chỗ nhưng chẳng có nơi nào nhận dầu
chỉ xin làm với giá hai mươi quan mỗi ngày.

Qua
mười lăm hôm, tiền hết sạch. Họ phải sống nhờ vào tiền cứu trợ: mỗi tuần khoảng
năm mươi quan. Kern điều đình với bà chủ xin giữ lại hai phòng đang ở với khỏan
tiền đó, được thêm một ít cà phê và bánh mì buổi sáng.

Kern
phải bán áo choàng, cái vali và tất cả những món của Potzloch cho. Kế đó, họ
lại phải bán tới một vài món nữ trang của Ruth và một ít áo quần còn khá tốt.
Tuy thế, họ không thấy có gì quá thảm khổ. Dầu sao, họ cũng đang sống giữa Ba
Lê, vậy là đủ lắm rồi.

Một
chiều chủ nhật, Marill đưa họ vào Viện Bảo tàng Louvre, đó là ngày vào cửa khỏi
phải trả tiền. Ông ta bảo:

- Các
người cũng nên làm một cái gì để giết thì giờ giữa mùa đông. Các vấn đề lớn của
đám di dân là sự đói khát, nơi trú ngụ và cách sử dụng thì giờ quá thừa thãi vì
không được quyền làm việc mà ra. Sự đói khát và ưu tư là hai kẻ thù sinh tử cần
phải chống cự quyết liệt, nhưng thời gian nhàn rỗi và vô dụng lại là một địch
thủ đáng sợ. Nó lén lút tiến tới từ phía sau để gặm nhấm nghị lực và làm cho
tinh thần tan rã. Cô cậu còn trẻ không nên la cà ở các quán, đừng tự than trách
cũng đừng để bị xâm chiếm bởi những ý nghĩ chán chường. Mỗi khi thấy tinh thần
xuống thấp hãy đến viếng phòng chờ đợi lớn nhất của Ba Lê: Viện Bảo tàng
Louvre. Mùa đông ở đây ấm lắm. Thả hồn chìm đắm trước một Delacroix, một
Rambrandt hay một Van Gogh còn hơn là thừ người trước một ly rượu. Chính tôi,
Marill, đã khuyên cô cậu như thế, và chỉ có trời mới biết là Marill thích ngồi
trước một ly rượu hơn.

Họ đi
khắp phòng triển lãm đồ sộ của Louvre, họ đi qua nhiều thế kỉ, gặp gỡ các nhà
vua Ai Cập bằng đá chạm, đứng trước các vị thần Hy Lạp và những Hoàng đế La Mã,
họ chiêm ngưỡng những bàn thờ Babylone, ngắm nghía những tấm thảm Ba Tư, say
sưa trước những họa phẩm lừng danh của các bậc thầy như Rembrandt, Goya, Le
Greco, Leonard de Vinci, Durer, và cuối cùng họ tới phòng triển lãm của phái ấn
tượng.

Những
họa cảnh của Cézanne, Van Gogh và Monet, những vũ nữ của Degas… chosi sáng trên
tường. Tất cả đều yên lặng, chẳng có sự hiện diện của ai ngoài họ ra. Kern và
Ruth có cảm tưởng như đang ngồi bên những cửa sổ mở toang ra trước những cảnh
sắc xa xăm, những khu vườn có vết tích của sự yêu đời, của những cảm giác mênh
mông, những giấc mơ cao cả… và nơi đó linh hồn không bị hủy diệt, cảnh trí
không bị chi phối bởi chế độ độc tài, bởi sự sợ hãi, bởi những luật lệ bất
công.

Marill
trầm ngâm một lúc lâu rồi nói giọng đều đều:

- Toàn
là những di dân! Họ là những di dân. Bị săn đuổi, trục xuất, vô gia cư, một số
đã phải kéo lê cuộc sống trong bùn, sống trong cơ cực và chết trong thảm khổ,
nhưng hãy nhìn những gì họ đã sáng tạo kia! Đó là văn mình thếgiới! Tôi chỉ
muốn các người nhận thấy thế thôi.

Ông ta
tháo kính ra lau:

- Cô
cậu có cảm tưởng gì?

Ruth
đáp ngay:

- Những
họa phẩm này cho tôi cái cảm tưởng bình yên.

- Bình
yên. Tôi nghĩ là cô muốn nói tới vẻ đẹp. Mà cũng đúng, ngày nay sự bình yên
đồng nghĩa với vẻ đẹp. Nhứt là đối với chúng ta. Còn Kern?

- Tôi
muốn có được một tấm để lấy tiền mua được thực phẩm.

Marill
nhìn Kern:

- Tôi
muốn cậu trả lời thật tình hơn.

Kern
vẫn giữ ý trước:

- Tôi
biết nói thế là điên. Nhưng lúc này tôi đang nghĩ tới một cái áo ấm cho Ruth
giữa mùa đông.

Ruth
đứng sát vào Kern, nắm tay anh.

Marill
đeo kính vào:

- Con
người ở những điểm cuối có thể là nên điều vĩ đại cho nghệ thuật, cho tình yêu
mà cũng có thể đi tới chỗ tận cùng của sự ngu dại, hận thù và ích kỉ. Nhưng
điều mà nhân loại còn đang thiếu thốn chính là một lòng tốt bình thường.

***

Kern và
Ruth vừa ăn tối xong. Bữa ăn chỉ có bánh mì và cacao. Đó là thực đơn duy nhứt
của họ từ tám ngày qua ngoại trừ một tách cà phê và hai cái bánh mì sừng buổi
sáng do bà chủ lữ quán cung cấp. Kern cười với Ruth:

- Lạ
quá, mình ăn bánh mì mà nghe mùi bít-tết.

- Còn
em thì lại nghe mùi thịt gà. Thịt gà quay có củ cải thật tươi.

- Thịt
gà hả? Vậy cho anh một miếng thịt gà đi.

Ruth
vừa cười vừa chuyển sang dĩa Kern một mẩu bánh mì:

- Đó,
em nhường anh cái đùi.

Kern
cười lớn:

- Ruth,
nếu không có em bên cạnh chắc tối ngày anh phải cãi lộn với Trời.

- Và
nếu không có anh thì em phải lên giường nằm khóc.


tiếng gõ cửa. Kern ngỡ là Brosse trong khi Ruth nói to:

- Mời
vào!

Cửa mở
ra. Kern nhìn lên và sửng sốt kêu:

- Uûa!
Có đúng thế không hay là tôi đang nằm mơ… Steiner, anh đó phải không? Trời ơi,
Steiner, đây rồi.

Steiner
cười:

- Xin
lỗi Ruth, tôi tới hơi đột ngột khiến cô cậu mất vui. Nhờ gặp Marill ở tầng dưới
nên tôi mới biết hai người ởđây.

Kern
hỏi:

- Anh
từ Vienne tới phải không?

- Từ
Vienne. Sau khi đi vòng qua Morat.

Kern
lùi lại một bước:

- Sao?
Anh có qua Morat à?

Ruth
cười và giải thích:

- Morat
là nơi gây tai họa cho chúng tôi. Ở đó tôi bị bịnh còn Kern thì bị bắt.

Steiner
cười khoan khoái:

- Chính
vì vậy mà tôi tới đó. tôi đã trả thù cho cô cậu rồi.

Anh lấy
từ trong bóp ra sáu mươi quan Thụy Sĩ và nói tiếp:

- Số
tiền này tương đương với mười bốn Mỹ kim hoặc ba trăm năm mươi quan Pháp. Quà
tặng của Ammers đó.

Kern
trố mắt:

-
Ammers? Ba trăm năm mươi quan? Cái gì vậy?

- Để
tôi nói rõ sau. Cứ lầy tiền đi. Và bây giờ thì để nhìn cô cậu coi… má hóp,
thiếu ăn, chỉ uống cacao không, có đúng chưa?

Kern
cười ngượng ngịu:

- Chỉ
mới đúng một nửa thôi. Thỉnh thoảng Marill còn đãi cho một bữa ăn đúng vào lúc
chúng tôi sắp sửa kêu than. Dường như ông ta có giác quan thứ sáu

- Ông
ta còn có một giác quan khác nữa. Đó là giác quan hội họa. Marill có đưa tới
Viện Bảo tàng Louvre chưa?

Ruth
đáp:

- Có.
Chúng tôi đã được xem Cézanne, Van Gogh, Manet, Renoir và Degas.

- A,
phái ấn tượng. Như vậy là cô cậu đã được ông ta mời điểm tâm. Sau bữa ăn, ông
ta dẫn đi xem, có đúng không? Mà thôi, mau lên, mặc đồ vào. Các quán ăn Ba Lê
đang đợi chúng mình.

- Nhưng
chúng tôi vừa mới…

Steiner
ngắt lời:

- Biết
rồi nhưng cứ thay quần áo đi. Tiền nhiều quá, phải xài cho đã.

- Nhưng
chúng tôi đã mặc đồ rồi đây.

- Ờ há!
Vậy là hai người đã bán áo choàng rồi phải không? Thôi cũng được. Mình sẽ nói
chuyện đó sau.

***

Sau bữa
ăn, Steiner bảo:

- Bây
giờ thuật lại cho tôi nghe những gì đã xảy ra.

Kern
nói một hơi dài:

- Ba Lê
thật là lạ. Đây chẳng những là thành phố của nước hoa, của xà bông thơm mà còn
là thành phố của kẹp tóc, dây giày, nút áo. Ngoài ra, tôi còn làm nhiều thứ
khác như khuân vác trái cây, bán đồ chơi trẻ em, cuối cùng chẳng kiếm được bao
nhiêu. Ruth làm việc cho một văn phòng được mười lăm hôm thì văn phòng đóng cửa,
người ta không chịu trả tiền. Lại phải xoay ra đan áo len. Tiền bán chỉ vừa đủ
mua len đan áo khác… Chính vì vậy mà tôi đi dạo thành phố Ba Lê như một người
Mỹ giàu có, không cần mặc áo choàng.

Steiner
đốt một điếu thuốc:

- Cô
cậu bán áo choàng hay là cầm?

- Cầm
trước rồi bán sau.

- Có
tới quán Maurice lần nào chưa?

- Chỉ
tới quán Alsace thôi.

- Được.
Vậy thì mình tới Maurice. Ở đó có Dickmann. Hắn biết đủ thứ kể cả vấn đề áo
choàng. Nhân tiện tôi sẽ hỏi hắn xem có việc gì làm tại hội chợ Quốc tế sắp khai
mạc hay không.

- Hội
chợ Quốc tế hả?

- Đúng
vậy. Mình có thể tìm việc làm ở đó không sợ bị hỏi giấy tờ.

Kern
hơi ngạc nhiên:

- Anh
tới Ba Lê bao lâu rồi? Sao anh biết hết vậy?

- Mới
bốn hôm. Tôi tìm ra cô cậu là nhờ Klassmann. Tôi gặp ông ta ở sở Cảnh sát. Nói
xin cho cô cậu biết là tôi đã có giấy thông hành. Vài hôm nữa tôi sẽ tới ở
khách sạn Quốc Tế. Cái tên này rất hợp với tôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3