Giã từ vũ khí - Chương 18 - 19
Chương 18
Mùa hè thật kì diệu. Khi tôi đi được, chúng tôi cùng
đi dạo bằng xe ngựa trong công viên. Tôi còn nhớ rõ cỗ xe ngựa đi chậm chạp,
phía trước là lưng người đánh xe với chiếc mũ cao bóng loáng và bên cạnh tôi là
Catherine. Nếu tay chúng tôi có chạm vào nhau thì chỉ cần mấy đầu ngón tay tôi
chạm vào nàng cũng đủ làm cho chúng tôi ngây ngất. Sau đó, lúc tôi có thể dùng
nạng để đi lại, chúng tôi dều dùng cơm ở Biffi hay ở Gran Italia và ngồi ở dãy
bàn phía ngoài trên bao lơn. Những người hầu bàn tiến lại ra vào. Người qua lại
tấp nập. Trên bàn, những ngọn bạch lạp cháy có chụp đèn. Về sau, chúng tôi ăn
hẳn ở Gran Italia và George, chủ tiệm ăn dành cho chúng tôi một bàn riêng. Anh
là một người dễ thương và chúng tôi để mặc anh lựa món ăn trong khi chúng tôi
nhìn thiên hạ, nhìn dãy hành lang dài chìm trong bóng hoàng hôn và nhìn nhau.
Chúng tôi uống rượu Capri ướp lạnh cùng nhiều thứ rượu khác. Ở đây họ
không có bồi rượu vì lí do chiến tranh và George mỉm cười bối rối mỗi khi chúng
tôi hỏi những thứ rượu thuộc loại Fresa.
- Ông thử nghĩ xem một xứ sản xuất rượu gì mà chỉ có
mùi như mùi dâu! - Ông bảo chúng tôi.
- Không được sao? - Catherine hỏi - Như thế hẳn là
tuyệt lắm chứ.
- Xin bà cứ nếm thử nếu bà thấy thích. Nhưng hãy để
cho tôi mang một chai Margaux cho trung úy.
- Để tôi nếm thử xem đã, anh George.
- Thưa trung úy, tôi không bảo đảm thứ rượu đó. Vì
nó không có mùi gì, ngay cả mùi dâu cũng không.
- Biết đâu đấy - Catherine bảo - Nếu có mùi dâu thì
tuyệt.
- Tôi sẽ đem lại - George bảo - Và khi bà nếm thử
xong tôi sẽ cất đi ngay.
Thứ rượu đó không ngon như George bảo, nó cũng không
giống mùi dâu nữa. Chúng tôi đành uống lại Capri. Một buổi tối tôi hụt
tiền, George cho tôi vay một trăm đồng “lia”. - Trung úy đừng bận tâm. Tôi rất
thông cảm. Nếu trung úy hoặc bà cần tiền, tôi bao giờ cũng sẵn sàng.
Sau bữa cơm, chúng tôi đi bộ qua hành lang, qua
những nhà hàng và những tiệm khác đã đóng cửa. Chúng tôi ngừng lại một tiệm nhỏ
bán bánh mì thịt, lẫn cá thu và rau cải thái nhỏ và dài bằng ngón tay. Chúng
tôi mua về để phòng khi đêm đói sẽ ăn. Chúng tôi gọi một cỗ xe ở ngoài hành
lang, trước nhà thờ, rồi trở về bệnh viện. Đến cửa bệnh viện, ông thường trực
đến đỡ tôi và cặp nạng xuống. Tôi trả tiền xe, và chúng tôi cùng lên thang máy.
Catherine dừng lại ở tầng một nơi các y tá ở, còn tôi đi lên trên rồi chống
nạng về phòng. Đôi khi tôi thay quần áo đi ngủ, đôi khi tôi ngồi ở bao lơn,
chân gác lên ghế nhìn đàn chim én lượn trên mái nhà, để chờ Catherine đến. Khi
nàng đến, tôi có cảm tưởng như nàng mới đi xa về. Tôi chống nạng theo nàng. Tôi
mang hộ các dụng cụ và đứng ngoài cửa chờ nàng hoặc vào cùng phòng với nàng.
Điều đó tùy bệnh nhân có là bạn quen hay không. Khi nàng xong việc, chúng tôi
trở ra ngồi ở bao lơn trước phòng. Sau đó, tôi vào giường nằm. Khi ai nấy đều
ngủ và tin rằng sẽ không còn ai gọi nàng nữa, thì nàng đến phòng tôi. Tôi thích
xổ tung tóc nàng ra. Nàng ngồi trên giường không cử động chỉ trừ lúc bất thình
lình cuối xuống hôn tôi, trong khi tôi xổ tóc nàng. Tôi tháo mấy cây kẹp tóc để
trên giường, tóc nàng xõa ra và tôi ngắm nàng ngồi yên ở mép giường. Tôi liền
tháo nốt hai chiếc kẹp cuối cùng và tóc nàng hoàn toàn xõa ra. Và khi nàng cúi
đầu thì cả hai chúng tôi nằm kín dưới mái tóc nàng, làm tôi có cảm giác nằm
dưới căn lều hoặc một thác nước.
Tóc nàng đẹp vô cùng. Có đôi khi tôi nằm ngắm nàng
vấn tóc trong ánh sáng mờ ảo của cánh cửa sổ mở rộng. Dù là trong bóng đêm tóc
nàng vẫn ngời sáng như nước lóng lánh trước bình minh. Khuôn mặt và thân hình
nàng rất đáng yêu, và cả làn da mịn màng của nàng cũng vậy. Nằm cạnh nàng, tôi
mơn man khắp má, trán, cằm và cổ nàng rồi bảo “Da em mịn như phím dương cầm”.
Nàng xoa vào cằm tôi rồi đùa “Nhẵn như giấy nhám và cứng như phím đàn”.
- Nhám lắm hả em?
- Không anh ạ, đùa đấy thôi.
Đêm thật tuyệt diệu. Chúng tôi chỉ cần nằm bên nhau
như thế cũng đủ hạnh phúc rồi. Ngoài những lúc như thế, chúng tôi không ở bên
nhau, chúng tôi cố đoán xem người kia đang nghĩ gì. Đôi khi chúng tôi đoán đúng
vì có lẽ cả hai cùng lúc nghĩ đến một chuyện.
Chúng tôi thích tưởng tượng đã lấy nhau từ ngày nàng
đến bệnh viện và chúng tôi tính từng ngày kể từ ngày cưới ấy. Thực ra, tôi muốn
cưới nàng nhưng Catherine bảo nếu chúng tôi làm lễ cưới, họ sẽ đổi nàng đi nơi
khác và chỉ một việc thi hành thủ tục cũng đủ làm cho họ để ý đến nàng ngay và
điều đó sẽ làm đảo lộn cuộc sống. Chúng tôi phải làm lễ cưới theo luật pháp
nước Ý và thủ tục sẽ rất phiền toái. Tôi muốn như đã cưới nhau rồi vì mỗi lần
nghĩ đến việc này, tôi sợ có con, nhưng chúng tôi giả vờ như đã cưới nhau và
không thèm quan tâm đến chuyện đó nữa. Thật ra, trong lòng tôi lại sung sướng
vì chưa cưới nhau. Có một đêm chúng tôi bàn về chuyện đó thì Catherine bảo:
- Nhưng anh ơi, người ta sẽ đuổi em đi.
- Không chắc đâu.
- Ỗ, chắc vậy! Người ta sẽ đuổi em về nhà và lúc bấy
giờ chúng ta sẽ xa nhau mãi mãi cho đến khi hết chiến tranh.
- Anh sẽ xin nghỉ phép.
- Anh không có đủ thì giờ đi Ireland rồi
trở về trong thời gian nghỉ phép. Tuy nhiên em không xa anh đâu. Bây giờ chúng
ta làm lễ cưới thì có lợi lộc gì đâu? Chúng ta đã cưới nhau thật rồi đấy. Thế
này còn hơn là cưới nhau thật vậy.
- Anh muốn làm lễ cưới là chỉ vì em mà thôi.
- Bây giờ không còn có em nữa. Em là anh. Đừng có
tách rời em ra như thế.
- Anh tưởng rằng các thiếu nữ luôn mơ ước được lấy
chồng.
- Đúng rồi. Nhưng còn em, anh yêu ạ, em đã có chồng
rồi. Em đã lấy anh rồi cơ mà. Em không phải là vợ ngoan sao?
- Em là người vợ rất đáng yêu.
- Anh biết không, anh yêu, đã có lần em chờ đợi ngày
cưới.
- Anh không muốn em nhắc đến chuyện đó nữa.
- Anh biết chắc là em chỉ yêu có một mình anh thôi.
Có nghĩa lí gì nếu có một người khác yêu em trước anh?
- Quan trọng lắm chứ.
- Không nên ghen với một kẻ đã chết, trong khi anh
đã được tất cả.
- Đúng thế, nhưng anh không muốn nghe những chuyện
đó nữa.
- Anh ngốc ơi! Còn em, em biết, chắc anh có hàng tá
phụ nữ vậy mà em có kể gì đâu?
- Liệu chúng ta có thể làm lễ cưới riêng bằng cách
này hay cách khác không? Như thế phòng khi có chuyện gì xảy ra cho anh hoặc
phòng khi em có con...
- Không có cách nào khác ngoài cách làm lễ cưới theo
tôn giáo hoặc theo luật pháp. Chúng ta đã làm lễ cưới riêng với nhau rồi. Anh
biết không, anh yêu, nếu em có đạo thì chuyện đó sẽ là một vấn đề quan trọng
với em, nhưng em không theo đạo nào cả.
- Thế sao em đã cho anh tượng thánh Anthony?
- Vì tượng đó đem lại may mắn. Người ta đã cho em.
- Vậy là em chẳng lo buồn gì cả phải không?
- Chỉ trừ khả năng phải xa anh thôi. Anh là lí tưởng
của em. Đời em chỉ có một mình anh thôi.
- Được rồi. Nhưng anh sẽ cưới em ngày nào em muốn.
- Đừng làm như là anh biến đổi em thành một phụ nữ
đức hạnh, anh yêu ạ. Em vẫn là người đàn bà đoan chính. Không vì lẽ gì lại hổ
thẹn khi người ta hạnh phúc và tự hào. Anh thấy có hạnh phúc không?
- Nhưng em đừng phụ anh nhé?
- Không đâu, anh yêu. Em sẽ không bao giờ phụ anh.
Cứ cho là nhiều điều khủng khiếp sẽ đến với chúng ta, em đã nghĩ đến tất cả
những gian nguy đang chờ chúng ta. Nhưng chuyện phụ anh, anh không phải lo.
- Anh chẳng lo gì cả. Anh yêu em tha thiết, nhưng
anh chỉ là kẻ đến sau.
- Thế người đến trước ra sao?
- Người ấy chết rồi.
- Đúng. Nếu anh ấy không chết thì em đâu có gặp anh.
Em không phản bội anh đâu, anh yêu. Em có nhiều khuyết điểm nhưng em rất thủy chung.
Anh sẽ chóng chán vì sự thủy chung của em cho mà xem.
- Sớm muộn gì anh cũng sẽ trở lại mặt trận.
- Đừng nghĩ đến chuyện ấy trước. Anh thấy không, anh
yêu, em rất hạnh phúc và chúng ta đã sống những giờ phút thần tiên. Lâu lắm rồi
em không biết đến hạnh phúc và khi em thấy nó, em gần như điên lên. Có lẽ em đã
điên thật. Nhưng bây giờ chúng ta hạnh phúc và chúng ta yêu nhau. Chúng ta hãy
tận hưởng hạnh phúc đã. Anh có cảm thấy hạnh phúc không? Em phải làm gì để vừa
ý anh bây giờ. Anh có thích em xõa tóc không? Anh có muốn chúng ta đùa không?
- Ừ, em đi ngủ đi.
- Được rồi, nhưng em còn phải đi thăm các bệnh nhân
đã.
Chương 19
Mùa hè cứ vậy trôi đi. Tôi không nhớ rõ lắm nhưng
chỉ biết đó là những ngày oi bức và báo chí chỉ nói toàn chiến thắng. Tôi rất
khỏe và hai chân hồi phục nhanh chóng cho nên ít lâu sau tôi có thể dùng gậy
thay thế cho nạng, và đâu gối được uốn nắn ở Ospedale, bằng máy móc và tia tử
ngoại trong một căn phòng đầy gương. Tôi đến bệnh viện mỗi tuần ba buổi chiều,
và trên đường về tôi thường ghé lại quán giải khát để uống và đọc báo. Tôi
không la cà trong thành phố mà chỉ ước ao trở về bệnh viện lúc ở quán ra. Tôi
chỉ muốn một điều là gặp Catherine. Ngoài ra tôi tìm cách giết thì giờ. Tôi
thường ngủ vào buổi sáng và b buổi trưa. Đôi khi tôi đi bộ và buổi chiều đến
điều trị bằng máy. Đôi lúc tôi ghé câu lạc bộ Anh - Mỹ. Tôi ngồi vào chiếc ghế
tựa lớn bọc da gần cửa sổ và đọc các tạp chí. Từ ngày tôi bỏ nạng, người ta
không để Catherine đi chung với tôi nữa, vì nữ y tá đi cạnh thương binh mà bệnh
trạng không cần phải có người trông nom thì khó coi. Bởi thế vào buổi chiều
chúng tôi không được ở gần nhau lâu. Tuy nhiên, đôi khi chúng tôi cũng có thể
cùng đi ăn nếu có cô Ferguson đi chung. Cuối cùng cô Van Campen nhận
chúng tôi là bạn thân, vì Catherine giúp cô được vô số việc. Cô cho rằng
Catherine xuất thân từ một gia đình tốt và điều này ảnh hưởng đến sự ưu ái của
cô. Cô coi trọng vấn đề gia đình. Chính cô cũng xuất thân từ một gia đình rất
nề nếp. Hơn nữa bệnh viện luôn luôn bận rộn làm cho cô không có thì giờ rảnh.
Mùa hè oi bức quá. Ở Milan này tôi quen biết nhiều người nhưng tôi
luôn luôn muốn trở về bệnh viện lúc chiều tàn. Ở mặt trận, chúng tôi đã tiến
dọc theo Carso, chiêm được Kuk ở phía bên kia Plava và bắt đầu đánh chiếm các
cao nguyên Bainsizza. Tình hình mặt trận phía Tây không được khả quan. Chiến
tranh có vẻ kéo dài. Bấy giờ Mỹ vừa tham chiến nhưng tôi nghĩ phải mất cả năm
mới huấn luyện đủ quân số thiện chiến. Năm tới cũng có thể tốt mà cũng có thể
xấu. Ý dùng một số quân đáng kể. Tôi không thấy tình trạng này làm sao có thể
tiếp tục được. Dù cho họ có chiếm được cao nguyên Bainsizza và đỉnh
San-Grabrielle thì bọn Áo cũng còn bao nhiêu là dãy núi phía sau. Tôi đã có dịp
thấy những dãy núi đó. Những đỉnh cao nhất đều ở phía sau. Chúng tôi đã chiếm
xong Carso nhưng hãy còn nhiều đầm lầy ở cạnh bờ biển. Napoléon đã đuổi bọn Áo
về phía đồng bằng và chắc chắn không tấn công chúng trên núi. Napoléon sẽ để
cho chúng xuống đồng bằng rồi tấn công ở gần Vérona. Nhưng ở mặt trận phía Tây
chưa có đánh nhau thật sự. Có lẽ bây giờ không thể thắng trận được nữa. Chiến
tranh có thể kéo dài mãi mãi. Có thể đây là một cuộc chiến tranh trăm năm mới.
Tôi để tờ báo lên quầy rồi rời khỏi câu lạc bộ. Tôi cẩn thận bước từng bước một
xuống bậc thềm rồi đi dọc lên đường Manzoni. Trước khách sạn Gran Hotel, tôi
gặp vợ chồng lão Meyers vừa ở trên xe ngựa bước xuống. Họ vừa đi xem đua ngựa
về. Bà vợ to béo mặc toàn sa tanh đen. Riêng ông, đó là một ông già nhỏ bé râu
bạc, chống gậy đi khệnh khạng.
- Xin chào, xin chào - Bà bắt tay tôi.
- Chào bạn - Ông Meyers nói.
- Đua ngựa thế nào?
- Tuyệt, thật tuyệt. Tôi trúng được ba con về nhất.
- Còn ông? - Tôi hỏi ông Meyers.
- Cũng khá, tôi trúng được một.
- Tôi chả bao giờ biết nhà tôi đang làm gì. Ông ấy
không bao giờ nói gì với tôi cả - Bà Meyers xen vào.
- Tốt, tốt lắm - Ông Meyers nói. Ông trở nên thân
mật - Anh phải đến đấy. - Khi ông ta nói chuyện với bạn, bạn có cảm tưởng như
là ông ấy không nhìn thấy bạn hoặc giả lầm bạn với một người nào khác.
- Vâng - Tôi đáp.
- Tôi sẽ đến bệnh viện thăm anh - Bà Meyers nói -
Tôi có một vài món quà dành cho các con. Các anh đều là con tôi cả đấy. Phải,
đúng, các anh là những đứa con thân yêu của tôi.
- Họ sẽ vui mừng được bà đến thăm.
- Ỗ, các con yêu quý. Anh cũng thế, anh cũng là một
trong những đứa con của tôi.
- Tôi xin kiếu từ ông bà.
- Bảo tôi có lời hỏi thăm các cậu con trai yêu quý của
tôi nhé. Tôi sẽ mang đến cho họ nhiều quà. Tôi có kẹo ngon và bánh ngọt.
- Xin chào ông bà. Họ sẽ vui mừng vô hạn khi thấy
bà.
- Chào anh - Ông Meyers nói - Anh hãy đến tửu quán
Galleria chơi. Anh biết bàn của chúng tôi chứ? Các buổi chiều chúng tôi đều có
mặt tại đó.
Tôi trở ra đường cái. Tôi muốn mua một món gì ở Cova
cho Catherine. Vào đến Cova, tôi mua một hộp kẹo sô cô la, trong khi cô bán
hàng gói hộp kẹo, tôi vào quán rượu. Ở đó có hai người Anh và vài viên phi
công. Tôi uống một li Martini, trả tiền rồi đến quầy hàng lấy hộp kẹo xong tiếp
tục đi về hướng bệnh viện. Trước quán rượu nhỏ bên đường đi Scala, có vài người
tôi quen, viên phó lãnh sự, hai người học ca nhạc và Ettore Moretti, một người
Ý ở San Francisco hiện đang phục vụ trong quân đội Ý. Tôi chạm li với họ. Một
trong hai ca sĩ là Ralph Simmons, mang biệt hiệu Enrico Delcrédo. Tôi không
biết anh hát hay dở ra sao, nhưng anh luôn luôn có vẻ trịnh trọng, như sắp có
một biến cố khủng khiếp xảy ra. Anh đã từng hát trong vở Tosca và thành công mỹ
mãn.
- Có lẽ anh chưa bao giờ nghe tôi hát cả - Anh bảo.
- Bao giờ anh sẽ hát ở đây?
- Mùa thu này tôi sẽ trình diễn tại Scala.
- Tôi đoán chắc họ sẽ ném ghế vào người anh - Ettore
nói - Anh có nghe người ta kể chuyện hắn bị ném ghế ở Modena như thế nào chưa?
- Láo toét!
- Tôi nghe nói anh sắp được huy chương loại nào?
- Tôi không biết. Tôi cũng không biết là tôi sắp
được huy chương.
- Anh sắp được rồi. Này các cô gái ở Cova phục anh
sát đất đấy. Họ nghĩ anh đã giết hai trăm tên Áo và một mình anh chiếm được căn
hầm. Tôi cam đoan với anh là tôi cũng phải hành động mới được ân thưởng.
- Thế anh được bao nhiêu huy chương rồi Ettore? -
Viên phó lãnh sự hỏi.
- Hắn có đủ loại - Simmons nói - Chính vì hắn mà
người ta gây chiến đấy.
- Tôi đã được huy chương đồng hai lần và ba huy
chương bạc - Ettore nói - Nhưng tôi chỉ được giấy chứng nhận có một cái thôi.
- Thế còn những cái kia? - Simmons hỏi.
- Bởi cuộc hành quân thất bại, - Ettore nói - Khi
hành quân thất bại thì họ giữ lại tất cả các huy chương.
- Thế anh đã bị thương bao nhiêu lần rồi, Ettore?
- Ba lần bị thương nặng. Tôi bị ba vết thương. Đây
thấy không? - Hắn kéo tay áo lên. Nhưng vết thương là những cấp hiệu bằng bạc
nằm song song với nhau trên nền đen, may đính vào vải ở tay áo dưới vai độ hai
tấc.
- Anh cũng có một rồi - Ettore bảo tôi - Trông oai
lắm, tôi thích đeo cấp hiệu hơn huy chương. Anh cứ tin tôi đi, ông bạn già ạ,
ba cái cũng đủ nói lên điều gì đấy. Người ta chỉ cho mình thêm một cái vì một
vết thương khiến mình nằm bệnh viện mất ba tháng.
- Anh bị thương ở đâu hả Ettore? - Viên phó lãnh sự
hỏi.
Ettore lật tay áo lên.
- Đây này (hắn chỉ một vết sẹo đỏ nâu và bóng). Ở
chân tôi đây, tôi không thể chỉ có các anh được vì tôi đang mang bít tất và ở
bàn chân nũa.
- Thế anh bị trúng gì? - Simmons hỏi.
- Loại lựu đạn cầm tay. Ông biết thứ lựu đạn ấy chứ?
- hắn quay sang hỏi tôi.
- Biết.
- Tôi biết bọn chó Áo ném - Ettore nói - Nó quật tôi
ngã ra và tôi tưởng rằng mình đã chết ngay lúc đó, nhưng không việc gì. Tôi bắn
tên chó đó một phát chết ngay tức khắc. Tôi luôn luôn mang súng trường để họ
không biết tôi là sĩ quan.
- Khi anh bắn, trông thằng ấy như thế nào? - Simmons
hỏi.
- Tôi chẳng biết, - Ettore đáp - Tôi bắn vào bụng
nó, vì sợ nếu bắn vào đầu thì trật mất.
- Anh ở cấp sĩ quan đã lâu chưa? - Tôi hỏi.
- Hai năm. Tôi sắp lên đại úy. Còn anh ở cấp trung
úy đã bao lâu rồi?
- Độ ba năm.
- Anh không lên đại úy được vì anh không biết tiếng
Ý rành rọt - Ettore nói - Anh nói được nhưng đọc và viết không rành. Anh cần
phải học tiếng Ý để có thể lên đại úy. Thế sao anh không gia nhập quân đội Mỹ?
- Để xem.
- Cầu trời tôi được lên đại úy. Này, Marc, lương đại
úy được bao nhiêu thế?
- Không biết chắc. Vào khoảng hai trăm rưỡi đô la.
- Chúa ơi, với hai trăm rưỡi đô la đó tôi giải quyết
được biết bao là việc. Này Fred, anh cần phải gia nhập quân đội Mỹ mới được,
rồi anh tìm cách đưa tôi vào nhé?
- Được rồi.
- Tôi có thể chỉ huy một đại đội bằng tiếng Ý. Tôi
cũng có thể chỉ huy bằng tiếng Anh dễ dàng.
- Rồi anh sẽ được thăng đại tướng - Simmons nói.
- Không, tôi không đủ tài sức để làm đại tướng. Một
đại tướng cần phải biết nhiều chuyện. Các anh là những kẻ hay chế nhạo người
khác. Các anh tưởng rằng chuyện chiến tranh là chơi sao. Đầu óc các anh không
được làm đến chức cai hạng bét nữa.
- Cám ơn Chúa, tôi không làm chức cai. - Simmons
nói.
- Có thể một ngày kia các anh cũng phải làm nếu họ
phạt tất cả các dân làm biếng như anh. Này, tôi muốn hai anh gia nhập vào trung
đội của tôi. Marc nữa nhé, tôi sẽ cho anh làm lính hậu cần của tôi.
Marc nói:
- Này Ettore, anh có lòng tốt lắm, nhưng tôi e rằng
anh là một tay quân phiệt.
- Tôi muốn lên đến chức đại tá trước khi chiến tranh
chấm dứt - Ettore bảo.
- Nghĩa là nếu anh không chết trước.
- Tôi không bị chết đâu - Hắn đưa tay sờ mấy ngôi
sao đính ở cổ áo - Thấy tôi làm gì đây không? Chúng tôi thường sờ những ngôi
sao này nếu có ai nói đến chết chóc.
- Ta đi thôi Sim - Saunders vừa nói vừa đứng lên.
- Ừ thì đi.
- Chào các anh - Tôi bảo - Tôi cũng phải đi đây. Sáu
giờ kém mười lăm rồi. Chào Ettore.
- Chào Fred - Ettore nói - Anh nhận được huy chương
bạc thì tuyệt lắm.
- Vẫn chưa tiến hành.
- Được mà Fred, tôi nghe bảo anh sẽ nhận được chẳng
khó khăn gì.
- Thôi chào anh - Tôi bảo - Hãy giữ mình cẩn thận
Ettore nhé.
- Ô đừng lo cho tôi. Tôi không uống rượu và cũng
không chạy quanh quẩn. Tôi không thích rượu cũng không thích gái. Tôi chọn cái
gì tôi thích.
- Chào anh - Tôi bảo - Tôi rất vui khi anh lên đại
úy.
- Không phải tôi ngồi không để được lên chức. Tôi sẽ
lập chiến công để xứng đáng được lên chức đại úy. Anh biết không, ba sao cùng
với hai lưỡi gươm chéo nhau và hình vương miện chính là của tôi đó.
- Chúc anh may mắn
- Chúc anh cũng vậy. Bao giờ anh trở lại mặt trận?
- Sắp rồi.
- Thế thì mình sẽ gặp nhau ở đấy.
- Chào anh.
- Chào anh. Nên tránh những việc không may nhé.
Tôi theo phố nhỏ dẫn ra một lối tắt về bệnh viện.
Ettore hai mươi ba tuổi. Thưở bé anh ta được một người cậu ở San
Francisco nuôi dưỡng. Khi chiến tranh bùng nổ thì anh ta đang thăm cha mẹ
mình ở Torino. Anh có một người em gái cũng được gởi sang Mỹ sống chung
với cậu anh. Năm nay cô ấy sắp tốt nghiệp trường sư phạm.
Ettore thuộc loại người hùng và đánh gục bất cứ ai
khi anh ta tiếp xúc. Catherine không chịu nổi hắn ta.
- Chúng ta cũng biết nhiều tay anh hùng - Nàng bảo -
Nhưng thường thường họ điềm đạm hơn, anh nhỉ.
- Anh không để ý đến hắn ta.
- Em cũng chẳng cần để ý đến hắn ta làm gì, nếu hắn
ta không quá tự phụ và không hiếu thắng. Ô, hiếu thắng đến một mức nào thôi.
- Hắn ta cũng quấy rầy anh vậy.
- Anh nói thế nghe đáng yêu lắm. Nhưng chuyện đó xá
kể gì. Anh có thể hình dung hắn lúc ở mặt trận, nơi mà hắn có ích, nhưng đối
với em, hắn tiêu biểu cho một hạng người mà em ghét nhất.
- Anh hiểu.
- Anh hiểu thế? Thật đáng yêu. Em đã cố hết sức để
có chút tình cảm với hắn, nhưng đúng là một anh chàng đáng ghét, đáng ghét thật
sự.
- Hồi chiều này hắn bảo với bọn anh hắn sẽ lên chức
đại úy.
- Thế à? - Catherine bảo - Được vậy chắc hắn ta
khoái lắm.
- Thế em có thích anh được lên chức cao hơn không?
- Không, anh yêu à. Em chỉ muốn anh có được một chức
vừa đủ để được vào ăn ở những chỗ sang trọng mà thôi.
- Thì đúng là cấp bậc của anh đó.
- Câp bậc của anh như thế là tuyệt rồi. Em không cần
anh phải lên chức cao. Điều đó có thể làm cho anh bốc lên. Này anh yêu, em vô
cùng hài lòng vì anh không tự phụ. Cho dù anh có tự phụ, em cũng lấy anh, nhưng
có một người chồng không tự phụ bao giờ cũng dễ thở hơn.
Chúng tôi thì thầm cạnh nhau bên ngoài bao lơn.
Trăng đáng lẽ đã lên rồi nhưng sương mù bao trùm thành phố nên không thấy được
trăng. Chúng tôi đi vào trong nhà. Bên ngoài sương mù đã chuyển sang mưa. Mưa
bắt đầu rơi nặng hạt trên mái nhà. Tôi trổi dậy xem cửa sổ thấp có bị mưa tạt
vào không. Nhưng mưa không hắt vào nên tôi vẫn để cửa sổ mở.
- Thế ban chiều anh còn gặp những ai nữa?
- Ông bà Meyers.
- Toàn những người kì lạ.
- Đúng ra thì ông ta đang phải ngồi tù tại quê nhà
ông ấy. Nhưng người ta lại thả ông ta ra để cho ông chết ở ngoài.
- Và từ đó ông ta sống sung sướng tại Milan.
- Sung sướng à? Anh không hiểu đến mức nào.
- Nhưng em nghĩ phải sung sướng hơn trong tù chứ.
- Bà Meyers sắp mang quà đến đây.
- Bà ta thường mang đến những món quà rất đẹp. Thế bà
ta có gọi anh là con yêu của bà không?
- Một trong những người con yêu của bà.
- Các anh là những người con yêu của bà. Bà ta rất
thích những cậu con yêu đó. Lắng nghe mưa rơi kìa.
- Mưa nặng hạt quá.
- Và anh sẽ yêu em mãi mãi phải không anh?
- Phải, đúng thế.
- Và mưa rơi nặng hạt cũng không đáng ngại gì phải
không?
- Phải, đúng thế.
- Vậy thì tốt lắm, bởi vì em sợ mưa.
- Tại sao?
Tôi buồn ngủ. Bên ngoài trời mưa to.
- Em cũng không biết nữa, anh yêu ạ. Khi nào em cũng
sợ trời mưa.
- Còn anh thì thích mưa.
- Em thích đi dạo dưới cơn mưa. Nhưng mưa có hại cho
tình yêu.
- Nhưng anh mãi mãi yêu em mà.
- Còn em, em yêu anh, dù mưa, dù tuyết, dù bão, dù
gì gì đi nữa.
- Vậy à? Anh buồn ngủ quá.
- Ngủ đi, anh yêu. Dù thế nào đi nữa, em vẫn yêu
anh.
- Thế thật tình em không sợ mưa chứ?
- Không, nếu có anh bên em.
- Sao em lại sợ mưa?
- Em không biết nữa.
- Nói cho anh nghe đi nào.
- Đừng bắt em phải nói.
- Nói cho anh nghe đi mà.
- Không, đừng gặng hỏi em.
- Nói cho anh nghe đi.
- Thôi được, vì anh thích. Em sợ trời mưa vì đôi khi
em thấy em chết trong mưa.
- Không có đâu.
- Và đôi khi em thấy chính anh cũng chết trong mưa.
- Như thế họa may đúng hơn.
- Không, không đúng, anh yêu. Anh không bao giờ chết
cả, vì em biết em có thể che chở cho anh được yên ổn. Em biết là em có khả
năng. Nhưng không có ai tự che chở cho mình được.
- Thôi xin em, như thế đủ rồi. Anh không muốn nghe
em nói chuyện huyễn hoặc và như một người điên đêm nay đâu. Chúng ta sẽ chẳng
còn gần nhau được bao nhiêu lâu nữa.
- Đúng thế, em huyễn hoặc và điên rồ thật. Mà thôi,
em không nói chuyện dại dột nữa đâu.
- Ừ, đúng là chuyện dại dột.
- Chỉ toàn là chuyện vô lí nhảm nhí. Thôi, em không
sợ mưa nữa đâu. Nhất định không sợ nữa. Trời ơi, ước ao sao đừng sợ mưa nữa.
Nàng khóc nức nở. Tôi dỗ mãi nàng mới nín, nhưng bên
ngoài trời vẫn mưa rả rích.