Phía đông vườn địa đàng - Chương 19
Chương XIX
Sau khi Aron đã đi học
đại học, Abra tới lui với gia đình của chàng. Nàng thấy mình tin cậy ông Adam
và yêu mến chú Lee hơn cả cha ruột của nàng. Ở trường về nàng thường ghé lại
nhà ba của Aron, ngồi bên cạnh chú Lee, đọc cho chú nghe lá thư mà Aron gửi về
cho nàng hàng ngày.
Đối với Cal nàng không
biết nên đối xử thế nào cho phải. Đôi khi Cal chọc nàng phát giận, có khi làm
nàng đau khổ và có khi khiến nàng tò mò. Anh ta như lúc nào cũng chống nghịch
với nàng. Nàng không biết anh ta có cảm tình nào với mình hay không, vì thế
nàng cũng không thích gì anh ta.
Ở Stanford, Aron rất cô
đơn. Những lá thư của chàng đều nói lên nỗi cô đơn đó và tỏ tình thương nhớ
người yêu. Từ đại học, cách đó 90 dặm đường, chàng thương nhớ Abra mãnh liệt,
sống tách biệt hẳn với cuộc sống quanh mình. Chàng học hành, ăn uống ngủ nghỉ
và viết thư cho Abra. Cuộc sống của chàng chỉ quanh quẩn chừng đó.
Độ này cứ chiều chiều
Abra thường đến ngồi dưới nhà bếp với chú Lee, giúp chú bóc đậu. Nàng thường ở
lại ăn cơm tối luôn chứ ít khi về nhà ăn với cha mẹ nàng. Nàng không biết
chuyện gì để nói với chú Lee
Chú Lee thường mỉm cười
trong khi hai tay thoănthoắt làm việc. Mỗi người lặng lẽ một góc chẳng
nói năng gì với nhau. Chú cũng mến Abra lắm và thấy nàng là một thiếu nữ tốt
bụng và đầy sinh lực.
Một buổi chiều Abra tâm
sự với chú Lee:
- Cháu khám phá ra một
điều này ở Aron. Lúc nào anh ấy cũng có vẻ như người què quặt trong tâm hồn, có
lẽ vì anh ấy không có mẹ.
Chú Lee mở to mắt ngạc
nhiên vì nhận xét đó của Abra rồi sụp mi xuống, gật đầu!
- Tôi cũng nghĩ vậy. Cô
có nhận thấy ở Cal điều đó không?
- Không.
- Tại sao cô thấy ở Aron
điều đó mà ở Cal thì không?
- Có lẽ, có những điều mà
người này thì thấy cần nhiều hơn còn ở người kia thì lại không cần mấy. Chẳng
hạn ba tôi không thích củ cải, món này làm ông ngấy và tởm hết sức. Trong lúc
đó má tôi thì lại khoái, bà nấu cả nồi củ cải, rắc nhiều tiêu và thêm pho mát
vào cả lớp dày. Ba tôi không để ý khi ăn hết nửa đĩa ông mới hỏi là món gì. Lúc
đó má tôi mới tiết lộ là món củ cải. Thế là ông ném đĩa củ cải xuống đất đứng
dậy bỏ đi. Chắc ông không tha thứ má tôi về chuyện đó.
Chú Lee khúc khích cười:
- Ba của cháu sẽ tha thứ
má cháu vì bà ấy đã nói thật đó là món củ cải. Nhưng giả sử khi ấy ông hỏi mà
má cháu lại nói dối là một món gì khác, để rồi sau đó ông khám phá ra sự thật
thì Abra thử tưởng tượng xem sự thể sẽ ra sao? Dám ông ấy sẽ giết chết má cháu
lắm chứ không phải chơi đâu.
- Cháu cũng nghĩ vậy.
Nhưng dù sao cháu cũng nghĩ rằng Aron cần một người mẹ hơn Cal nhiều.
- Vì sao vậy?
- Cháu cũng không hiểu,
nhưng cháu tin như vậy. À cháu có thể giúp được việc gì bây giờ đây?
- Cháu cầm giùm bột mì
rồi đổ ra trên cái nắp tròn kia cho chú.
- Này chú Lee, chú có
nghĩ rằng Aron sẽ trở thành một tu sĩ được không?
- Làm sao chú biết được?
Có thể đó chỉ là một ý nghĩ.
- Cháu hi vọng rằng anh
ấy sẽ không trở thành tu sĩ.
Nói xong câu đó Abra vội
ngậm môi lại ngay vì biết mình đã nói hớ.
Chú Lee kéo khay bột lại
và lấy ra miếng thịt đỏ và cái rây bột để bên cạnh nói:
- Cháu hãy dùng bề sống
của con dao mà dàn thịt. À, tại sao cháu lại không muốn Aron trở thành tu sĩ?
- Đáng lẽ cháu không nên
nói như vậy.
- Cháu có quyền nói bất
cứ điều gì mình nghĩ. Cháu khỏi cần giải thích làm gì, chú hỏi cho vui vậy
thôi.
Chú trở lại ghế ngồi của
mình. Abra rây bột lên thịt rồi bằm thịt bằng một con dao lớn nghe cộp cộp đều
đặn và nói:
- Đáng lẽ cháu không nên
nói như vậy.
Chú Lee xoay mặt qua chỗ
khác để nàng đỡ áy náy. Nàng ngừng dao băm thịt lại, nét mặt tươi trẻ của nàng
bỗng cau lại đầy đau khổ, nàng nói:
- Chú Lee, có lẽ cháu
không hợp với Aron lắm thì phải?
- Cháu nói vậy nghĩa là
thế nào?
- Cháu không nói đùa đâu.
Hình như anh ấy đã nặn ra một mẫu đàn bà lí tưởng rồi muốn cháu rập đúng theo
khuôn mẫu đó. Nhưng cháu không thể nào giống như vậy không thể nào rập theo một
khuôn mẫu có sẵn kiểu đó.
- Mẫu đàn bà lí tưởng đó
như thế nào?
- Phải thuần khiết, thuần
khiết một cách tuyệt đối. Thuần khiết đến độ không một khuyết điểm. Cháu không
thể nào đạt đến độ đó.
- Không ai có thể đạt đến
mức đó. - Chú Lee nói.
- Anh ấy không hiểu cháu.
Anh ấy không hề muốn hiểu cháu. Anh ấy chỉ muốn bóng ma nhợt nhạt kia thôi.
Nàng bước lại chỗ bàn chú
Lee đang ngồi nói:
- Chú Lee, cháu ước mong…
- Đừng làm đổ bột xuống
sàn nhà. Nào, cháu ước mong gì nào?
- Cháu nghĩ thế này, vì
Aron không có mẹ nên anh ấy đã tưởng tượng ra tất cả những đức tính tốt đẹp để
gán cho đàn bà.
- Có lẽ đúng như vậy. Do
đó cháu nghĩ rằng Aron muốn gán cho cháu tất cả những đức tính mà cậu ấy đã
tưởng tượng ra.
Nàng trố mắt nhìn chú Lee
trong khi nàng khẽ lướt mấy ngón tay của mình lên lưỡi dao bén, và vừa nghe chú
nói tiếp:
- Và cháu muốn tìm cách
gạt bỏ những điều mà Aron muốn gán ép cho mình chứ gì?
- Dạ đúng như vậy.
Chú Lee nói:
- Chú chưa thấy ai vô
duyên ưa xỏ mũi vào chuyện của người khác như chú, trong khi chú là hạng người
không bao giờ giải quyết dứt khoát được một vấn đề nào. À, cháu sẽ băm tiếp mớ
thịt đó hay để chú làm?
Nàng lại tiếp tục làm rồi
hỏi:
- Chú có buồn cười khi
thấy cháu nghĩ đến toàn những chuyện đâu đâu trong khi cháu chưa học hết bậc
trung học không?
- Chú không thấy chuyện
đó có gì đáng thắc mắc hết. Sự chín chắn thường đến sau, cũng như những chiếc
răng khôn thường mọc sau cùng, ở cháu sự khôn ngoan chín chắn vì những va chạm
với thực tế phũ phàng đã đến hơi sớm một chút vậy thôi.
Tiếng dao băm thịt tăng
nhanh gấp bội theo một nhịp điệu cuồng loạn và mất bình tĩnh. Chú Lee sắp năm
hạt đậu li-ma khô thành ba hình thể khác nhau, một đường thẳng, một cái góc rồi
một đường cong.
Tiếng băm thịt dừng lại.
Abra đột ngột hỏi:
- Bà Trask còn sống không
chú Lee?
Ngón tay trỏ của chú Lee
khựng lại phía trên một hạt đậu xuống cuối chữ O để làm thành cái đuôi chữ Q.
Chú biết Abra đang nhìn từng cử chỉ của mình. Chú Lee nói như lạc giọng hẳn đi:
- Chúng ta nói chuyện với
nhau đã nhiều, nhưng hình như chú nhớ rằng chúng ta chưa hề nói gì về chú thì
phải.
Chú mỉm cười ngượng ngùng
nói tiếp:
- Này Abra để chú nói cho
cháu nghe về chú nhé. Chú chỉ là một người giúp việc cho gia đình Trask. Chú đã
già. Chú là một người Trung Hoa. Chú mệt mỏi và vụng về.
- Không phải vậy đâu… -
Nàng cãi.
- Cháu đừng cãi. Chú là
thằng hèn. Chú không xứng đáng mó tay vào một miếng bánh nhân thịt nào.
Abra mỉm cười nhìn chú
nói:
- Chú có muốn cháu thử
tưởng tượng tiếp không?
- Cháu muốn tưởng tượng
thế nào tùy ý vì chú tự thấy là kẻ hèn nhát chẳng được tích sự gì. Cháu đừng
buồn gì chú nhé!
Abra vòng qua bàn dựa
những ngón tay đầy bột của mình sờ lên lưng bàn tay của chú Lee. Chú nhìn xuống
những vệt trắng do những ngón tay dính đầy bột của Abra vừa để lại.
- Ba cháu muốn có một đứa
con trai. - Abra nói. - Cháu tin rằng ông ghét món củ cải cũng như ghét con
gái. Ông từng giải thích với mọi người vì sao ông đã đặt cho cháu một cái tên
kệch cỡm rằng: “Đáng lẽ tôi định đặt một cái tên con trai, nhưng rồi nó ra đời
nên đành đặt đại là Abra.”
Chú Lee mỉm cười nhìn
nàng nói:
- Cháu là một cô gái rất
ngoan. Nếu tối mai cháu chịu tới đây ăn tối, chú sẽ nấu món củ cải.
Abra dịu dàng, lập lại
câu hỏi hồi nãy:
- Mẹ của Aron còn sống
không chú?
- Còn. - Chú Lee trả lời.
Có tiếng cửa lớn đóng
mạnh. Cal đi xuống nhà bếp nói:
- Chào Abra, chào chú
Lee, có ba tôi ở nhà không?
- Không, ba cậu chưa về.
Cậu hỏi ông có việc gì vậy?
Cal chìa tấm chi phiếu
cho chú Lee:
- Phần của chú đó.
Chú Lee nhìn tấm chi
phiếu nói:
- Tôi không quan tâm gì
về chuyện này.
- Như vậy tốt hơn. Khi
nào cần, có thể tôi sẽ mượn lại sau. Này chú Lee, tôi muốn nhân dịp lễ Tạ ơn có
Aron về thăm nhà, tôi sẽ làm một chuyện
- Chuyện gì vậy? - Abra
hỏi.
- Tôi sẽ tặng ba tôi một
món quà.
- Quà gì vậy? - Abra hỏi.
- Tôi chưa có thể tiết lộ
bây giờ được. Đợi đến lúc đó Abra sẽ biết.
- Tôi chưa thấy Cal hí
hửng như vậy bao giờ. Tôi tưởng sẽ không bao giờ thấy được chuyện lạ này.
Tự nhiên nàng cũng thấy
vui lây với Cal.
Sau khi Abra đã ra về,
Cal ngồi xuống ghế nói:
- Tôi không biết nên trao
món quà đó cho ba tôi trước hay sau lễ Tạ ơn.
- Nên để sau lễ thì hơn.
- Chú Lee nói. - Cậu đã có được món tiền đó thật sao?
- Mười lăm ngàn Mỹ kim.
Chúng ta sẽ uống Cham-pagne. À này, có lẽ chúng ta nên trang hoàng phòng ăn cho
đàng hoàng một chút. Chắc Abra có thể giúp được việc này.
- Cậu có chắc ba cậu cần
tiền không đã!
- Sao lại không hả chú?
- Tôi hi vọng cậu có lí.
Hôm sau, vừa mãn buổi
học, Abra đã hối hả ra khỏi cổng trường để bắt kịp Cal.
- Chào Abra, - Cal nói. -
Chú Lee khen Abra quá xá. Abra nói những gì mà chú ấy chịu dữ vậy?
- Tôi mến chú ấy lắm.
Rồi nàng nói sang chuyện
khác:
- Tôi muốn hỏi Cal một
câu. Cal có hiểu tại sao anh Aron lạ vậy không?
- Abra định hỏi gì?
- Hình như anh ấy chỉ
nghĩ tới anh ấy thôi.
- Tôi không thấy điều đó
có gì lạ cả. Abra có chuyện cãi nhau với anh ấy rồi phải không?
- Không. Nhưng Cal này,
lúc này anh ấy đang viết cho tôi những lá thư thật ướt át tình cảm, nhưng tôi
cứ tưởng anh ấy viết cho người nào khác chứ không phải cho tôi.
- Vậy chứ anh ấy viết cho
ai?
- Hình như những lá thư
ấy chỉ được viết ra cho chính anh ấy.
- Cô hãy chờ xem. Chắc
anh ấy vẫn bình thường mà.
- Tôi không biết mình có
bình thường không, Cal có thấy rằng tôi có hay nghĩ bậy lắm không?
- Làm sao tôi biết được.
Abra im lặng chừng một
phút rồi hỏi tiếp:
- Cal, tôi nghe đồn Cal
hay đi lang thang giữa đêm khuya và có khi ghé vào cả những chỗ tai tiếng nữa
phải không?
- Có. Đúng như vậy. Aron
đã nói với cô điều đó phải không?
- Không, không phải Aron
nói đâu. Nhưng tại sao lại tới những chỗ như vậy?
Cal lặng lẽ bước đi bên
cạnh Abra nhưng không nói gì cả. Abra hỏi dồn:
- Cal hãy nói cho tôi
biết có phải tại bản tính xấu của Cal mà ra không?
- Cô hỏi gì mà lạ vậy.
- Bản tánh tôi cũng không
tốt đẹp gì.
- Cô nói khùng quá. Aron
sẽ gội sạch tánh xấu đó ra khỏi cô.
- Cal tin anh ấy có thể
làm được chuyện đó không?
- Tin chứ sao không.
Trong mùa đông đầu tiên
đó của cuộc chiến, chúng tôi không có nhiều đoàn quân tại Pháp, nhưng chúng tôi
có nhiều triệu người đang được huấn luyện sẵn sàng lên đường.
Tại Salinas chúng tôi đã
làm tất cả những điều không thể tránh được trong một cuộc chiến tranh và chúng
tôi đã nghĩ những ý nghĩ kì cục. Lương hướng và vật giá leo thang. Một tin đồn
về sự khan hiếm thực phẩm cũng đủ làm cho chúng tôi đổ xô đi mua hàng để tích
trữ. Những phu nhân yêu kiều không lắm điều có khi chỉ vì tranh nhau một hộp cà
chua cũng đủ nhào vào cấu xé nhau.
Nhưng không phải tất cả
chỉ toàn những chuyện xấu xa, rồ dại và thiếu bình tĩnh. Cũng có những gương
anh dũng nữa. Ngoài một số người có thể tránh gia nhập quân đội, một số khác
chống đối chiến tranh vì những lí do tinh thần hay tôn giáo, họ chọn con đường
đi lên đồi Golgo-tha như chúa Jésus ngày xưa theo lối riêng của họ. Cũng có
những người đã hi sinh tất cả những gì họ có cho cuộc chiến vì đó là cuộc chiến
cuối cùng, muốn thắng nó chúng tôi không có cách nào hơn là phải đẩy mạnh chiến
tranh cũng như phải nhổ một cái gai khỏi lớp thịt của thế giới.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng
tôi có thể thấy rõ tất cả điều đó tại Salinas, kể cả sự buồn thảm.
Ông Adam Trask được mời
vào Ủy ban động viên. Ông là người rất thích hợp với công tác đó. Nhà máy nước
đá không chiếm của ông bao nhiêu thì giờ, ông đã được giải ngũ với một bản
tướng mạo quân vụ tốt.
Ông Adam làm việc rất
siêng năng, đàng hoàng tuy không vui vẻ gì. Ông không thể nào gạt bỏ được ý
nghĩ rằng những thanh niên mà ông gọi nhập ngũ chẳng khác bị kêu án tử hình.
Một hôm ông Adam ngồi ở
chiếc bàn ăn giữa nhà bếp hỏi chú Lee:
- Này chú Lee, giả sử
chúng ta cho một đứa con vào quân đội rồi chẳng may nó bị tử trận thì chúng ta
có chịu trách nhiệm gì về việc đó không?
- Ông cứ nói rõ hơn, tôi
sẽ nói lên ý kiến của mình.
- Được rồi, giả sử chúng
ta có con trai tới tuổi nhập ngũ, chúng ta gửi nó vào quân đội và rồi chẳng may
nó bị chết.
- Tôi hiểu ý ông rồi. Ông
định hỏi mình có trách nhiệm gì trong việc đó không chứ gì?
- Tôi không muốn bị lương
tâm cắn rứt.
- Ông Adam, đôi khi trách
nhiệm không phải tốt đẹp hết. Nó thường đưa người ta tới tính ích kỉ không mấy
hay ho.
- Tôi cũng đã nghĩ đến
vấn đề đó từ dạo ông Sam Hamilton, chú và tôi bàn cãi về một từ ngữ. À, từ ngữ
đó là gì hả Lee?
- Tôi nhớ ra rồi! Đó là
từ ngữ “Timshel”.
- “Timshel.” Và chú có
nói…
- Tôi có nói rằng từ ngữ
đó mang lại cho người ta sự cao thượng nếu người đó biết dùng nó.
- Tôi còn nhớ ông Sam
Hamilton thích từ ngữ đó lắm.
- Tôi không ràng buộc gì
ông ấy cả. Tôi chỉ gợi ý để ông ta toàn quyền quyết định tự tách mình phân biệt
với kẻ khác.
- Như vậy sẽ đơn độc lắm.
- Những việc lớn và cao
quí đều được hoàn thành trong đơn độ
- Chú thử nhắc lại ý
nghĩa của tiếng đó xem.
- “Timshel.” Ngươi có
thể.
Ông Adam trông chóng đến
lễ Tạ ơn, ngày Aron từ đại học về thăm nhà để xem thử nó ra sao. Dù Aron xa nhà
chưa được bao lâu, ông Adam cũng tưởng tượng chắc nó đã có nhiều thay đổi lớn
lao rồi. Đối với kẻ nào mà ta quá yêu thương, ta thường có cảm tưởng như vậy.
Tính ít nói của ông cũng vì sự vắng nhà của Aron, bất cứ chuyện buồn phiền nhỏ
nhặt nào ông cũng bắt nguồn từ sự vắng mặt đó. Ông thường nói chuyện với nhiều
người về sự thông minh của cậu con, nhất là chuyện nó đã học băng được một lớp.
Trong lúc đó, Aron không
thấy sung sướng chút nào khi sống giữa một căn phòng đầy đủ tiện nghi tại Palo
Alto. Những gì mà chàng mong tìm thấy ở đại học đường rất đẹp đẽ và huyền ảo…
Chàng tưởng tượng ở đó có
những chàng trai trẻ mắt sáng long lanh và những thiếu nữ xinh như mộng, xúng
xính trong những chiếc áo dài hàn lâm. Mỗi buổi tối thường tụ tập trong một tòa
lâu đài trên chỏm một ngọn đồi có nhiều cây cối. Nét mặt người nào cũng rạng rỡ
tươi đẹp. Nhưng đại học đường Leland Stanford University không giống như vậy
chút nào. Trường ốc chỉ là một khóm nhà bằng sa nham màu nâu vuông vức nằm giữa
một đồng cỏ khô cằn. Các phòng học thì làm bằng loại gỗ thông đánh véc-ni. Đó
là cả một thế giới ưa gây gổ, đánh đá nhau đến nỗi phải có những thông cáo kêu
gọi đến tình huynh đệ, và những sinh viên thiên thần trong mộng tưởng của Aron
chỉ là những gã trai trẻ bận những chiếc quần vải thô có sọc nổi và bẩn thỉu.
Aron trước kia không hề
nghĩ rằng mình có một mái nhà, bây giờ bỗng cảm thấy nhớ gia đình đến nôn nao
cả tâm hồn. Chàng không thiết để ý gì đến cuộc sống chung quanh hoặc tham dự
vào đó. Đối với Abra, chàng dệt những giấc mơ thanh khiết, tự vẽ ra một hình
ảnh riêng trong trí để tơ tưởng đến nàng. Khi hình ảnh của Abra càng trở nên
rạng rỡ, thanh khiết và mĩ miều trong tâm hồn mình, Aron càng thấy rào rạt niềm
vui sướng theo quan điểm bệnh hoạn riêng của chàng. Chàng gợi ra tất cả những ý
tưởng xấu xa trong trí rồi loại bỏ hết. Kết quả là những lá thư tình chứa đầy
khát vọng và giọng điệu cao siêu của chúng đã làm cho Abra rất hoang mang.
Chàng đã sai lầm khi đến
Stanford. Vào ngày lễ Tạ ơn chàng sẽ về nhà và có thể sẽ không bao giờ trở lại
đó nữa. Chàng nhớ rằng đã có lần Abra đề nghị về sống ở nông trại, điều này đã
trở thành giấc mơ của chàng. Chàng nhớ đến cây sồi cao lớn, những làn gió trong
lành trên các ngọn đồi. Chàng tưởng tượng Abra đang đứng trên đó, dưới bóng cây
đợi chàng đi làm về. Buổi tối sau một ngày làm việc đồng áng chàng có thể sống
một cách thơ thới yên lành với cuộc đời. Trong bóng đêm chàng có thể xa mọi ô
trọc.