Ấn tượng sai lầm - Chương 50 - 51 - 52

Chương 50

Krantz rẽ vào con phố, và cảm
thấy nhẹ nhõm khi trên vỉa hè có rất nhiều người qua lại. Cô ta đi thêm khoảng
100 thước rồi dừng lại bên ngoài một khách sạn nhỏ. Cô ta đảo mắt nhìn quanh.
Không có ai theo dõi cô ta.

Cô ta kéo cánh cửa và bước
vào bên trong khách sạn, nhìn thẳng về phía trước, đi qua chỗ quầy tiếp tân,
phớt lờ người gác cửa, lúc này đang nói chuyện với một khách du lịch có lẽ đến
từ New York. Mắt cô ta vẫn dán vào một dãy những ngăn tủ gửi đồ ở phía trái
quầy tiếp tân. Krantz đợi cho đến khi cả ba cô nhân viên tiếp tân đều đang bận
rộn mới bắt đầu bước tiếp. Cô ta liếc nhìn lại phía sau để biết chắc là không
có ai theo dõi mình. Hài lòng, cô ta bước nhanh hơn, và lấy ra một chiếc chìa
khoá từ túi áo trong, khi cô ta tới ngăn tủ số 19. Cô ta tra chìa vào ổ và mở
ngăn tủ ra. Tất cả mọi thứ đều vẫn còn nguyên vẹn. Krantz lấy hết tiền và hai
cuốn hộ chiếu, rồi cất vào túi. Sau đó cô ta khoá ngăn tủ lại, bước ra khỏi
khách sạn và trở ra phố Herzen, vẫn không phải nói với ai một lời nào.

Cô ta vẫy một chiếc tắc xi,
một điều gì đó mà cô ta không thể làm vào cái thời chế độ cũ còn đang huấn
luyện tay nghề cho cô ta. Cô ta đưa cho người lái xe địa chỉ của một ngân hàng
ở Cheryomushki, rồi ngả người ra sau ghế, nghĩ tới Đại tá Sergei Slatinaru –
nhưng chỉ thoáng qua. Cô ta chỉ tiếc là không có đủ thời gian để cắt tai trái
ông ta. Krantz rất muốn có cái gì đó để gửi cho Petrescu, để nhắc Petrescu luôn
nhớ tới chuyến trở về Romania. Dầu vậy, những gì mà cô ta còn nhớ về Petrescu
cũng thừa đủ để bù đắp cho nỗi thất vọng ấy.

Nhưng trước hết cô ta cần tập
trung vào việc tìm cách thoát ra khỏi nước Nga. Việc thoát khỏi tay mấy gã
nghiệp dư ở Romania thật quá dễ dàng, nhưng để lọt được vào nước Anh không phải
dễ dàng như thế. Các đảo quốc bao giờ cũng có nhiều vấn đề; núi non thì dễ vượt
hơn là biển cả. Khi tới được thủ đô của nước Nga vào sáng hôm đó, cô ta đã kiệt
sức, vì phải liên tục di chuyển kể từ khi thoát khỏi bệnh viện.

Krantz đã lên tới đường cao
tốc khi còi báo động vang lên. Cô ta quay lại và thấy toàn khu bệnh viện ngập
trong ánh đèn pha. Một tài xế xe tải đã giúp cô ta vượt biên, sau khi làm tình
với cô ta hai lần. Cần thêm một chuyến tàu hoả, một chuyến máy bay, 300 đôla và
mười bảy tiếng đồng hồ nữa trước khi cô ta đặt chân xuống Moscow. Cô ta ngay
lập tức đi tới khách sạn Isla, và không có ý định ngủ qua đêm tại đó. Mối quan
tâm duy nhất của cô ta là ngăn tủ gửi đồ có chứa hai cuốn hộ chiếu và mấy trăm
rúp.

Trong khi chờ đợi thời cơ an
toàn để trở về Mỹ, Krantz lên kế hoạch kiếm tiền ở Moscow. Mức sinh hoạt ở thủ
đô của nước Nga rẻ hơn New York nhiều, và mạng người cũng rẻ hơn, 5.000 đôla
cho một bà vợ, 10.000 đôla cho một ông chồng. Người Nga vẫn chưa đạt được quyền
bình đẳng giới tính. Một đại tá của KGB có thể kiếm tới 50.000 đôla, trong khi
Krantz có thể đòi 100.000 đôla để làm việc cho một trùm mafia. Nhưng nếu
Fenston đã gửi cho cô ta 2 triệu đôla theo như lời hứa, các ông chồng và bà vợ
mệt mỏi kia còn phải chờ đó. Thực tế là, giờ đây khi nước Nga đã chấp nhận nền
kinh tế thị trường tự do, cô ta có thể đầu quân cho một nhà tài phiệt nào đó và
tận tình phục vụ ông ta.

Chiếc tắc xi dừng lại bên
ngoài chiếc cổng ra vào kín đáo của một ngân hàng mà niềm tự hào của nó là có
rất ít khách hàng. Hai chữ cái G và Z được khắc trên gờ đá cẩm thạch trắng.
Krantz bước ra khỏi tắc xi, trả tiền và chờ cho đến khi chiếc tắc xi đã khuất
tầm nhìn mới bước vào trong toà nhà.

Ngân hàng Geneva và Zurich là
một ngân hàng chuyên đáp ứng nhu cầu của lớp người Nga mới, những người đã vớ
bẫm từ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Chính trị gia, trùm mafia (doanh
nhân), cầu thủ bóng đá và ca sỹ nhạc pop chỉ là những đồng tiền lẻ nếu so với
những siêu sao mới nổi, các nhà tài phiệt. Dù ai cũng biết tên bọn họ, đó là
một giống người mới mà không ai có thể sờ vào người họ.

Krantz bước tới chiếc quầy
tiếp tân bằng gỗ được thiết kế theo lối cũ, nơi có một dãy nhân viên mặc complê
xám, sơ mi trắng và đeo caravát lụa đang ngồi chờ phục vụ khách. Trông họ không
khác gì như đang ngồi tại Geneva hay Zurich.

“Tôi có thể giúp gì cho bà?”,
người nhân viên giao dịch mà cô ta lựa chọn hỏi. Anh ta băn khoăn không hiểu
mình đang giao dịch với loại người nào – vợ của trùm mafia, hay con gái của một
nhà tài phiệt. Trông cô ta không giống ca sỹ nhạc pop.

“1-0-7-2-0-9-5-9”, cô ta nói.

Anh ta gõ dãy số đó vào máy
tính, và khi những con số hiện lên trên màn hình, anh ta bắt đầu quan tâm hơn.

“Tôi có thể xem hộ chiếu của
bà được không?”, anh ta hỏi.

Krantz đưa cho anh ta một
cuốn hộ chiếu mà cô ta vừa lấy ở khách sạn Isla.

“Trong tài khoản của tôi còn
bao nhiêu?”, cô ta hỏi.

“Theo bà nghĩ thì còn khoảng
bao nhiêu?”, anh ta trả lời.

“Khoảng trên 2 triệu đôla”,
cô ta nói.

“Vậy bà muốn rút bao nhiêu?”
anh ta hỏi.

“10.000 đôla, và mười nghìn
rúp”.

Anh ta lôi một chiếc khay từ
dưới quầy ra và bắt đầu chầm chậm đếm. “Đã lâu rồi chúng ta không giao dịch với
giá trị lớn như thế này”, anh ta nhìn lên màn hình và gợi chuyện.

“Đúng thế”, cô ta công nhận,
“nhưng các ông sẽ thấy có nhiều hoạt động hơn khi giờ đây tôi đã quay trở lại
Moscow”, cô ta nói thêm mà không giải thích gì.

“Vậy thì tôi mong đợi được
phục vụ bà”, người nhân viên giao dịch nói, trước khi đẩy hai gói tiền được
buộc lại một cách gọn gàng qua mặt bàn. Không có một thứ giấy tờ nào cho biết
khoản tiền đó đến từ đâu, và dĩ nhiên là cũng chẳng có thứ giấy tờ nào cho thấy
đã có một giao dịch vừa diễn ra. Krantz cầm hai gói tiền lên, cho vào túi áo
trong và chầm chậm bước ra khỏi ngân hàng. Cô ta vẫy một chiếc tắc xi.

“Khách sạn Kalstern”, cô ta
nói, rồi trèo lên ghế sau xe và tập trung suy nghĩ về phần hai trong kế hoạch
của mình.

Fenston đã thực hiện phần của
ông ta. Giờ đây cô ta phải giữ lời hứa của mình nếu cô ta muốn nhận được 2
triệu đôla còn lại. Ý nghĩ về việc giữ lấy 2 triệu đôla hiện có và quên đi
chuyện sang nước Anh thoáng qua trong đầu cô ta. Nhưng cô ta biết Fenston có
mối quan hệ với KGB, và họ sẽ rất vui nếu được thuê xử lý cô ta với một mức phí
thấp hơn nhiều.

Khi chiếc tắc xi dừng lại mười
phút sau đó, Krantz đưa cho người lái xe 400 rúp và không chờ để lấy lại tiền
lẻ. Cô ta bước ra khỏi tắc xi và lẩn vào giữa một toán du khách đang ngó ngiêng
nhìn vào cửa sổ một cửa hiệu với hy vọng sẽ kiếm được một món đồ kỷ niệm để
chứng minh họ đã từng đặt chân đến một đất nước bị tàn phá bởi một chế độ bạo
tàn. Được trưng bày ở giữa chiếc cửa sổ là những món đồ ăn khách của họ: một bộ
quân phục cấp tướng bốn sao với tất cả những thứ kèm theo – mũ, dây lưng, bao
súng và ba dãy huân chương. Không thấy đề giá, nhưng Krantz biết giá bán là 20
đôla. Bên cạnh đó là bộ quân phục của một đô đốc hải quân, 15 đôla, và phía sau
là bộ quân phục của một đại tá KGB, 10 đôla. Cho dù Krantz không muốn chứng
minh cho các đồng hương Mỹ của mình rằng cô ta đã từng có mặt tại Moscow, những
người có thể đặt tay mình lên những bộ đồng phục của những vị tướng lục quân,
đô đốc hải quân, đại tá KGB chắc chắn có thứ mà cô ta đang cần.

Krantz bước vào cửa hiệu và
được một cô gái bán hàng đón tiếp.

“Tôi có thể giúp gì cho bà?”,
cô gái hỏi.

“Tôi cần nói chuyện riêng với
ông chủ của cô”, Krantz nói.

Cô gái bán hàng có vẻ bối
rối, nhưng Krantz cứ nhìn cô ta chằm chằm cho đến khi cô ta nói “Đi theo tôi”
và dẫn vị khách của mình vào sâu trong cửa hàng, rồi gõ nhẹ lên một chiếc cánh
cửa trước khi mở nó ra.

Ngồi sau chiếc bàn làm việc
lớn bằng gỗ đầy giấy tờ, bao thuốc lá, và một chiếc bánh xăngđuých đang ăn dở
là một người đàn ông béo phì mặc một bộ complê thụng màu nâu. Ông ta mặc một
chiếc áo sơ mi màu đỏ hở cổ trông có vẻ như đã lâu không giặt. Mái t óc hói và
bộ râu rậm của ông ta khiến Krantz khó có thể đoán tuổi con người đó, cho dù rõ
ràng ông ta là chủ tiệm.

Ông ta đặt cả hai tay lên mặt
bàn và nhìn lên một cách dè chừng. Ông ta mỉm cười, nhưng tất cả những gì mà
Krantz nhận thấy là chiếc cổ hai cằm của ông ta. Khó đàm phán.

“Tôi có thể giúp gì cho cô?”,
ông ta hỏi bằng một giọng cho thấy ông ta không muốn mất thời gian.

Krantz nói với ông ta thứ mà
mình cần. Người chủ tiệm yên lặng lắng nghe với một sự kinh ngạc rồi cười phá
lên.

“Không rẻ đâu”, cuối cùng ông
ta nói, “và cũng mất nhiều thời gian đấy”.

“Tôi cần bộ đồng phục ấy ngay
chiều nay”, Krantz nói.

“Không thể được”, ông ta nói
với một cái nhún vai.

Krantz lấy một bó tiền từ
trong túi ra, rút một tờ 100 đôla và đặt lên bàn trước mặt ông ta. “Ngay chiều
nay”, cô ta nhắc lại.

Người chủ tiệm nhướng mày.
“Có thể tôi có một mối quan hệ”.

Krantz đặt một tờ 100 đôla
nữa lên bàn.

“Vâng, tôi nghĩ mình có một
mối quan hệ lý tưởng”.

“Và tôi cần cả hộ chiếu của
cô ta nữa”, Krantz nói.

“Không thể được”.

Thêm hai tờ 100 đôla nữa.

“Có thể được”, ông ta nói,
“nhưng không dễ”.

Thêm hai tờ nữa. Tất cả là
sáu tờ.

“Nhưng tôi cảm thấy có thể
thu xếp được”, ông ta dừng lại, “với một cái giá phù hợp”. Ông ta nhìn lên vị
khách hàng của mình trong khi hai tay ông ta để lên bụng mình.

“1.000 đôla nếu những gì tôi
cần đều sẵn sàng vào chiều nay”.

“Tôi sẽ cố hết sức mình”,
người chủ tiệm nói.

“Tôi cảm thấy ông sẽ thành
công”, Krantz nói. “Bởi vì nếu sau giờ hẹn mà tôi vẫn không có thứ tôi cần, cứ
mười lăm phút tôi sẽ lấy lại một tờ”, cô ta nhìn đồng hồ, “2 giờ chiều nhé”.

Người chủ tiệm định phản đối,
nhưng rồi ông ta nghĩ lại.

Chương 51

Chiếc xe tắc xi chở Anna chạy
qua chiếc cổng của Lâu đài Wentworth, cô ngạc nhiên khi thấy Arabella đang đứng
chờ ở bậc cầu thang trên cùng, với một khẩu súng săn trong tay phải và hai con
chó Brunswick và Picton ngồi bên cạnh. Người quản gia mở cửa xe tắc xi trong
khi bà chủ của ông ta và hai con chó bước xuống các bậc thềm để đón chào Anna.

“Thật vui khi được gặp lại
cô”, Arabella nói và hôn lên hai bên má Anna. “Cô tới vừa kịp giờ uống trà”.

Anna vuốt ve hai con chó rồi
bước theo Arabella lên các bậc thềm, trong khi một gia nhân khác lấy chiếc vali
của cô từ cốp xe ra. Khi Anna bước vào đại sảnh, cô dừng lại và chầm chậm nhìn
khắp căn phòng, từ bức tranh này sang bức tranh khác.

“Vâng, thật là tuyệt vời khi
vẫn giữ được gia đình quanh mình”, Arabella nói, “cho dù đây có thể đây là kỳ
nghỉ cuối tuần cuối cùng của họ tại nước Anh này”.

“Phu nhân muốn nói gì?”, Anna
hỏi một cách chăm chú.

“Các luật sư của Fenston đã
chuyển cho tôi một bức thư vào sáng nay, nhắc nhở tôi rằng nếu tôi không thanh
toán hết nợ cho chủ của họ vào trưa ngày mai, tôi cần phải sẵn sàng để chia tay
với tất cả các tài sản của gia đình”.

“Ông ta định bán tất cả các
bức tranh trong bộ sưu tập à?”, Anna hỏi.

“Có vẻ như đó là mục đích của
ông ta”, Arabella nói.

“Nhưng như thế thì vô lý
quá”, Anna nói. “Nếu Fenston đưa tất cả các bức tranh trong bộ sưu tập ra thị
trường cùng lúc, ông ta sẽ không thể thu hết nợ”.

“Ông ta có thể thu hết nợ,
nếu sau đó ông ta bán nốt Lâu đài này”, Arabella nói.

“Ông ta không thể...”. Anna
bắt đầu.

“Ông ta sẽ làm thế”, Arabella nói. “Vì vậy chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng
ông Nakamura vẫn còn say mê bức tranh Van Gogh, bởi vì nói thật, ông ấy là hy
vọng cuối cùng của tôi”.

“Bức tranh ấy ở đâu?”, Anna hỏi trong khi Arabella dẫn cô qua phòng khách.

“Đã được trả lại phòng ngủ của Van Gogh, nơi ông ấy đã ngự trong suốt 100
năm qua” - Anna dừng lại – “trừ một ngày tới Heathrow tham quan”.

Trong khi Arabella ngồi xuống chiếc ghế ưa thích của mình bên bếp lửa, mỗi
con chó nằm một bên, Anna bước quanh căn phòng, và nghĩ về bộ sưu tập các bức
tranh của Ý do vị bá tước đệ tứ xây dựng.

“Nếu những con người thân yêu này của tôi phải sang New York”, Arabella
nói, “họ cũng sẽ không phàn nàn gì. Suy cho cùng, nó cũng giống như một truyền
thống của Mỹ”.

Anna cười khi cô nhìn từ Titian sang Veronese và sang Caravaggio. “Tôi đã
quên mất là Caravaggio tuyệt vời như thế nào”, cô nói và lùi lại ngắm nhìn bức
Đám cưới tại Cana.

“Tôi tin là cô quan tâm tới những người Ý quá cố hơn là những người Ailen
còn sống”, Arabella nói.

“Nếu Caravaggio còn sống đến ngày nay”, Anna nói, “Jack sẽ đi theo ông ấy
chứ không theo tôi”.

“Cô muốn nói gì?”, Arabella hỏi.

“Ông ấy đã giết một người đàn ông trong lúc say rượu. Chạy trốn trong những
năm cuối đời, nhưng mỗi khi ông ấy tới một thành phố mới, mọi người đều vờ như
không biết chuyện đó, chừng nào ông ấy còn vẽ những bức tranh tuyệt vời về Đức
Mẹ đồng trinh và Chúa hài đồng”.

“Anna, cô là một vị khách tuyệt vời, hãy tới ngồi bên tôi”, Arabella nói
khi một chị hầu gái bê một chiếc khay bạc bước vào phòng khách. Chị ta bắt đầu
bày biện cho một tiệc trà nhỏ bên lò sửa.

“Nào, Anna, cô dùng trà Ấn Độ hay trà Trung quốc?”.

Vừa lúc đó, Andrews bước vào nói: “Thưa Phu nhân, có một quý ông ngoài cửa
đem đến một gói hàng cho Phu nhân. Tôi đã yêu cầu ông ta đưa tới chỗ nhận hàng,
nhưng ông ta nói rằng ông ta không thể giao gói hàng ấy nếu không có chữ ký của
Phu nhân”.

“Chắc là một nhân vật Viola kiểu mới”, Arabella nói. “Tôi phải đi xem người
sứ giả hay hờn dỗi này đem đến cái gì”, bà nói thêm rồi hơi cúi đầu chào và
theo chân Andrews bước ra ngoài.

Anna đang ngắm nghía bức tranhPerseus và Andrromadacủa
Tintoretto khi Arabella quay trở lại, nụ cười trước đó đã bị thay thế bằng một
vẻ mặt cau có.

“Có chuyện gì à, Phu nhân?”, Anna quay sang hỏi.

“Sứ giả đã gửi trả lại chiếc nhẫn”, Arabella nói. “Hãy đi theo tôi”.

Anna bước theo Arabella và đi ra đại sảnh. Cô thấy Andrews và một gia nhân
khác đang mở chiếc thùng màu đỏ mà cô nghĩ là mình sẽ không bao giờ còn nhìn
thấy nữa.

“Chắc chắn được gửi tới từ New York”, Arabella vừa nói vừa nhìn kỹ chiếc
nhãn dán trên nắp thùng, “có lẽ trên cùng chuyến bay với cô”.

“Có vẻ như nó không muốn rời tôi”, Anna nói.

“Cô hoá ra rất được đàn ông chú ý”, Arabella nói.

Cả hai người cùng chăm chú theo dõi trong khi Andrews bóc các lớp giấy bọc
ra và để lộ bức tranh mà Anna đã nhìn thấy lần cuối tại phòng tranh của Anton.

“Điều tốt duy nhất trong chuyện này là”, Anna nói, “chúng ta có thể trả
khung tranh gốc cho bức tranh gốc”.

“Nhưng chúng ta phải làm gì với ông kia?”, Arabella vừa hỏi vừa đưa tay chỉ
bức tranh giả. Người quản gia húng hắng ho. “Ông có gợi ý à, Andrews?” Arabella
hỏi. “Nếu có, ông hãy nói ra đi”.

“Không, thưa Phu nhân”, Andrews trả lời, “nhưng tôi nghĩ Phu nhân muốn biết
rằng vị khách khác của Phu nhân đang sắp tới cổng Lâu đài”.

“Ông ta có khả năng bấm giờ thiên tài”, Arabella nói rồi vội nhìn vào gương
và sửa lại mái tóc. “Andrews”, bà nói, “phòng Wellington đã được chuẩn bị cho
ông Nakamura chưa?”

“Rồi, thưa Phu nhân. Và Tiến sỹ Petrescu sẽ ở trong phòng Van Gogh”.

“Thật là hợp”, Arabella nói rồi quay sang Anna, “khi ông ta trải qua đêm
cuối cùng ở đây với cô”.

Anna cảm thấy yên tâm khi Arabella nhanh chóng lấy lại được vẻ nhanh nhẹn,
và cô có cảm giác Arabella sẽ rất hợp với Nakamura.

Người quản gia mở cửa trước ra và bước xuống các bậc thềm với một tốc độ
đảm bảo rằng ông ta sẽ xuống đến lớp sỏi vừa khi chiếc Toyota Lexus dừng lại.
Andrews mở cửa sau chiếc limousine để ông Nakamura bước ra ngoài. Ông ta ôm một
gói nhỏ hình vuông.

“Người Nhật Bản đi đâu cũng có quà”, Anna thì thầm, “nhưng Phu nhân không
nên mở quà ra trước mặt họ”.

“Được”, Arabella nói, “nhưng tôi không chuẩn bị quà cho ông ta”.

“Không cần phải thế. Phu nhân đã mời ông ta làm khách trong nhà của mình,
và đó là niềm vinh hạnh đối với bất kỳ người Nhật Bản nào”.

“Thế thì may quá”, Arabella nói vừa lúc ông Nakamura xuất hiện ở cửa trước.

“Phu nhân Arabella”, ông ta nói và cúi chào, “tôi thật hân hạnh khi được
mời tới Lâu đài lộng lẫy của Phu nhân”.

“Ngài đã đem vinh dự đến cho ngôi nhà của tôi, ngài Nakamura”, Arabella
nói, hy vọng không mắc sai sót gì trong lễ nghi.

Vị khách người Nhật Bản cúi đầu thậm chí còn thấp hơn nữa, và khi ngẩng đầu
lên, ông ta đối diện với bức chân dung của Wellington do Lawrence vẽ.

“Thật là tuyệt vời”, ông ta nói. “Có phải con người vĩ đại này đã ăn tối
tại Lâu đài Wentworth vào buổi tối trước khi lên đường tới Waterloo không?”.

“Đúng thế”, Arabella nói, “và ngài sẽ được ngủ trên chiếc giường mà ngài
Công tước Thép đã ngủ lần đó”.

Nakamura quay sang Petrescu và cúi chào. “Thật vui vì được gặp lại cô, Tiến
sỹ Petrescu”.

“Tôi cũng vậy, rất vui vì được gặp lại ngài, Nakamura San”, Anna nói. “Tôi
hy vọng ngài đã có một chuyến đi dễ chịu”.

“Vâng, xin cảm ơn cô. Chúng tôi thậm chí còn hạ cánh đúng giờ, một sự thay
đổi lớn”, Nakamura nói và vẫn đứng yên tại chỗ trong khi lướt nhìn khắp căn
phòng. “Cô làm ơn sửa sai cho tôi nếu tôi có nhầm lẫn nhé, Anna. Rõ ràng căn
phòng này được dành riêng cho trường phái Anh quốc. Gainsborough?”, ông ta hỏi
trong khi ngắm nhìn bức chân dung toàn thân của Catherine, Phu nhân Wentworth.
Anna gật đầu, trước khi Nakamura tiếp tục. “Landseer, Morland, Romney, Stubbs,
nhưng mà tôi vấp rồi – không biết tôi dùng từ có đúng không?”.

“Ông nói rất chuẩn”, Anna nói, “và những anh em người Mỹ của chúng tôi chưa
hẳn đã nói chuẩn như ông. Và ông bị vấp bởi Lely”.

“À, ngài Peter, người phụ nữ kia trông mới tuyệt vời làm sao” – ông ta dừng
lại – “nét đặc trưng của gia đình”, ông ta nói và quay sang nhìn chủ nhà.

“Và tôi có thể thấy, ngài Nakamura, nét đặc trưng của gia đình ngài là biết
cách làm vui lòng phụ nữ”, Anna nói đùa.

Nakamura cười phá lên. “Với nguy cơ phải thi lại, thưa Phu nhân Arabella,
nếu phòng nào cũng như phòng này, có lẽ tôi sẽ phải hoãn cuộc gặp của mình với
mấy anh chàng nhà quê ở công ty thép Corns Steel”. Đôi mắt Nakamura tiếp tục
nhìn quanh căn phòng, “Wheatley, Lawrence, West và Wilkie”, ông ta nói cho đến
khi ánh mắt ông ta dừng lại trên bức chân dung dựng sát tường.

Nakamura không bình luận gì trong một lúc. “Tuyệt vời”, cuối cùng ông ta
nói. “Một tác phẩm của một bàn tay hiếm có” - ông ta dừng lại – “nhưng không
phải là bàn tay của Van Gogh”.

“Sao ông có thể biết chắc như vậy, Nakamura San?”, Anna hỏi.

“Bởi vì chiếc tai bị băng không phải là chiếc tai kia”, Nakamura trả lời.

“Nhưng ai cũng biết Van Gogh đã cắt tai trái của mình”, Anna nói.

Nakamura quay sang và mỉm cười với Anna. “Cô biết rõ hơn cả những người
khác”, ông ta nói thêm, “rằng Van Gogh đã nhìn vào gương để vẽ bức tranh này,
vì vậy chiếc tai bị băng hoá ra phải là tai khác”.

“Tôi thực sự cứ mong có ngày nào đó có người sẽ giải thích điều này cho tôi
hiểu”, Arabella nói rồi dẫn các vị khách sang phòng khách.

Chương 52

Krantz quay trở lại cửa hiệu đó vào lúc 2 giờ chiều, nhưng không thấy bóng
dáng người chủ đâu. “Ông ấy sẽ quay về
ngay bây giờ”, cô gái bán hàng khẳng định với cô ta.

Cái gọi là ngay bây giờ ấy
biến thành 30 phút, và đến lúc đó thì cô gái bán hàng kia cũng chẳng còn thấy
đâu. Khi người chủ cửa hàng xuất hiện, Krantz hài lòng khi thấy ông ta vác một
chiếc túi nhựa lớn. Không nói một lời, Krantz đi theo người chủ cửa hiệu và
bước vào văn phòng của ông ta. Chỉ đến khi cánh cửa đã được khép lại, một nụ
cười nhăn nhở mới xuất hiện trên khuôn mặt đầy thịt của ông ta.

Người chủ cửa hiệu đặt chiếc
túi lên mặt bàn. Ông ta dừng lại một lát, rồi lấy ra bộ đồ màu đỏ mà cô ta đã
yêu cầu.

“Cô ta có thể cao hơn cô một
chút”, ông ta nói bằng một giọng nửa như xin lỗi, “nhưng tôi có kim và chỉ,
không tính tiền”. Ông ta bắt đầu cười to, nhưng dừng lại ngay khi thấy người
khách hàng của mình không hưởng ứng.

Krantz cầm bộ đồng phục ướm
thử lên vai. Người chủ trước của bộ đồng phục ấy cao hơn Krantz ít nhất là 3
hay 4 inch, nhưng chỉ nặng hơn cô ta vài pao; không có vấn đề gì - như người
chủ cửa hiệu đã gợi ý – chỉ cần một cây kim và một sợi chỉ là đủ.

“Thế còn cuốn hộ chiếu?”,
Krantz hỏi.

Một lần nữa, người chủ cửa
hiệu lại cho tay vào chiếc túi, và, giống như một nhà ảo thuật lấy ra một con
thỏ từ chiếc mũ của mình, ông ta lấy ra một cuốn hộ chiếu của Nga. Ông ta đưa
nó cho Krantz và nói: “Cô ta được nghỉ phép ba ngày, vì vậy có thể phải đến
ngày thứ Sáu cô ta mới phát hiện thấy mình bị mất hộ chiếu”.

“Nó đã hoàn thành sứ mệnh của
mình từ trước đó”, Krantz vừa nói vừa bắt đầu lật giở các trang trong cuốn hộ
chiếu.

Cô ta nhận thấy Sasha
Prestakavich trẻ hơn cô ta ba tuổi, cao hơn cô ta 8 cm, và không có nét đặc
biệt nào. Một vấn đề mà một đôi giày cao gót có thể giải quyết, trừ phi một
viên chức quá mẫn cán nào đó quyết định bắt cô ta cởi hết quần áo ra để kiểm
tra và phát hiện thấy vết thương trên vai cô ta.

Khi Krantz lật đến trang có
vết dán ảnh của Sasha Prestakavich, người chủ cửa hiệu không dấu nổi một nụ
cười ranh ma. Ông ta lấy từ dưới quầy ra một chiếc máy ảnh chụp lấy ngay.

“Cười lên đi”, ông ta nói. Cô
ta không cười.

Vài giây sau, một tấm ảnh
được đẩy ra. Tiếp đến là một chiếc kéo xuất hiện và người chủ cửa hiệu bắt đầu
cắt viền của tấm ảnh cho đến khi nó vừa với hình chữ nhật có viền chấm chấm ở
trang thứ ba của cuốn hộ chiếu. Tiếp đến là một lọ keo dán. Việc cuối cùng của
ông ta là bỏ một cây kim và một sợi chỉ vào chiếc túi. Krantz bắt đầu nhận ra
rằng đây không phải là lần đầu tiên ông ta cung cấp dịch vụ này. Cô ta cho bộ
đồng phục và cuốn hộ chiếu vào chiếc túi, trước khi chìa ra 800 đôla.

Người chủ cửa hiệu cẩn thận
đếm đi đếm lại.

“Cô nói là 1.000 cơ mà”, ông ta phản đối.

“Ông chậm ba mươi phút”, Krantz nhắc nhở ông ta rồi cầm lấy chiếc túi và
quay gót bước đi.

“Hãy tới thăm chúng tôi nhé”, người chủ cửa hiệu nói với theo, “bất kỳ khi
nào cô cần”.

Krantz không muốn giải thích với ông ta rằng trong nghề của mình, cô ta
không gặp ai hai lần, trừ khi cần phải đảm bảo rằng ai đó sẽ không thể có cơ
hội nhìn thấy cô ta lần thứ ba.

Khi đã trở ra phố, cô ta chỉ phải đi qua vài toà nhà trước khi tới một cửa
hiệu mà cô ta đang tìm kiếm. Cô ta mua một đôi giày cao gót màu đen, không hợp
với cô ta, nhưng có thể giúp cô ta đạt được mục đích. Cô ta thanh toán bằng
tiền rúp và rời khỏi cửa hiệu, xách theo hai chiếc túi.

Tiếp đó, Krantz vẫy một chiếc tắc xi, đưa cho người lái xe một địa chỉ và
cho anh ta biết cô ta muốn xuống chính xác chỗ nào. Khi chiếc tắc xi dừng lại
bên một chiếc cánh cửa đề “Chỉ dành cho nhân viên”, Krantz trả tiền, bước vào
toà nhà và đi thẳng vào phòng vệ sinh nữ. Cô ta nhốt mình trong một ngăn nhỏ và
ở đó suốt bốn mươi phút. Với cây kim và sợi chỉ mà người chủ cửa hiệu đưa cho,
cô ta nâng gấu váy lên vài inch, và khâu vài nếp gấp ở phần eo. Sẽ chẳng ai có thể
thấy những nếp gấp ấy vì chiếc áo khoác sẽ che lấp chúng. Sau đó cô ta cởi bỏ
tất cả quần áo ngoài trước khi thử bộ đồng phục – không vừa lắm, nhưng cái công
ty mà cô ta đang muốn vào làm nhân viên không phải là một công ty nổi tiếng về
sự cầu kỳ trong cách ăn mặc. Tiếp đến, cô ta thay đôi giày thể thao bằng đôi
giày cao gót vừa mua, trước khi cho quần áo của mình vào chiếc túi. Sau khi rời
khỏi phòng vệ sinh, cô ta đi tìm những ông chủ mới của mình. Bước đi của cô ta
không được tự nhiên lắm, bởi vì cô ta không quen với giày cao gót. Ánh mắt
Krantz dừng lại trên người một phụ nữ mặc một bộ đồng phục giống hệt của cô ta.
Cô ta bước lại quầy tiếp tân và hỏi: “Cô có còn một ghế trống nào trên một
chuyến bay bất kỳ nào đó của chúng ta tới London không?”.

“Không thành vấn đề”, cô gái ở quầy tiếp tân trả lời. “Tôi có thể xem hộ
chiếu của cô không?”. Krantz đưa cho cô nhân viên tiếp tân cuốn hộ chiếu mà cô
ta vừa kiếm được. Người đại diện của công ty xem kỹ các chi tiết về Sasha
Prestakavich trong cơ sở dữ liệu của công ty. Theo hồ sơ của họ, Sasha
Prestakavich đang được nghỉ ba ngày. “Có vẻ ổn”, cuối cùng cô nhân viên tiếp
tân nói và đưa trả Krantz cuốn hộ chiếu. “Hãy là người cuối cùng lên máy bay,
đề phòng chúng ta có khách đến muộn”.

Krantz bước về phía cửa dành cho khách bay quốc tế, và sau khi làm thủ tục
hải quan, cô ta quanh quẩn ở khu bán đồ miễn thuế cho đến khi cô ta nghe thấy
thông báo mời các hành khách đi chuyến bay 413 tới London lên máy bay. Khi cô
ta tới cửa, ba hành khách cuối cùng đang làm thủ tục. Một lần nữa, hộ chiếu của
cô ta lại được đối chiếu với các chi tiết trong cơ sở dữ liệu của công ty trước
khi người nhân viên làm thủ tục ở cửa nhìn màn hình và nói: “Tất cả các ghế đều
đã có người, vậy cô chọn chỗ đi”.

“Hàng ghế sau cùng, hạng tiết kiệm”, Krantz nói một cách dứt khoát.

Người nhân viên kia có vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi anh ta in một tấm thẻ lên
máy bay rồi đưa nó cho cô ta. Krantz bước qua cửa, và lên chuyến bay 413 của
hãng Aeroflot tới London.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3