Ấn tượng sai lầm - Chương 48 - 49
Chương 48
Vào lúc 7giờ 16 phút tối,
Leapman tắt điện trong phòng làm việc của mình và bước ra hành lang. Ông ta
đóng cửa lại, nhưng không khoá. Ông ta bước về phía thang máy, và biết rõ chỉ
còn một vệt ánh sáng duy nhất hắt ra từ dưới chân cánh cửa văn phòng chủ tịch.
Ông ta bước vào một buồng thang máy không có người và nhanh chóng xuống dưới
tầng trệt. Ông ta chầm chậm bước lại quầy tiếp tân và ký vào sổ theo dõi. Lúc
đó là 7 giờ19 phút. Một người phụ nữ đứng sau ông ta tiến lên ký vào sổ khi
Leapman lùi lại một bước, mắt ông ta vẫn không rời hai người bảo vệ sau quầy.
Một người đang theo dõi dòng người chầm chậm rời khỏi toà nhà, trong khi người
kia thì đang nhận một gói hàng cần phải có ký nhận. Leapman tiếp tục lùi cho
đến khi ông ta tới chiếc thang máy không người. Ông ta bước vào trong và đứng
sang một bên để hai người bảo vệ không thể trông thấy mình. Ông ta bấm nút 31.
Không đầy một phút sau, ông ta đã bước ra một hành lang vắng lặng.
Ông ta đi về phía cuối hành
lang, mở cánh cửa thoát hiểm ra và bước lên các bậc cầu thang tới tầng ba mươi
hai. Ông ta đẩy nhẹ cánh cửa, cố không gây tiếng động nào dù là nhỏ nhất. Rồi
ông ta rón rén đi dọc chiếc hành lang dài trải thảm về phía phòng mình. Ông ta
nhìn quanh, chỉ có một vệt sáng mờ hắt ra từ dưới chân chiếc cánh cửa của văn
phòng chủ tịch. Ông ta khẽ đẩy chiếc cánh cửa phòng mình, bước vào trong và
khoá lại. Ông ta ngồi xuống chiếc ghế sau bàn làm việc, nhưng không bật đèn.
Ông ta ngồi trong bóng tối và
kiên nhẫn chờ đợi.
Fenston đang cân nhắc đơn xin
vay tiền của một người tên là Michael Karraway. Người này muốn vay 14 triệu
đôla để đầu tư vào các nhà hát địa phương. Ông ta là một nghệ sỹ thất nghiệp
không tên tuổi. Nhưng bù lại, ông ta có một bà mẹ luôn nuông chiều ông ta, và
đã để lại cho ông ta một bức tranh của Matisse,Nhìn từ phòng ngủ,
và một trang trại rộng một nghìn mẫu ở Vermont. Fenston ngắm nhìn người phụ nữ
trẻ khoả thân đang nhìn ra ngoài cửa sổ trong bức tranh và quyết định sẽ chỉ
đạo Leapman soạn thảo một bản hợp đồng. Fenston đặt tờ đơn sang một bên và bắt
đầu xem xét kỹ catalog mới nhất của hãng Christie. Ông ta dừng lại một lúc
trước bản chụp bức tranhVũ nữ trước gươngcủa Degas, nhưng
rồi lật ngay sang trang khác khi thấy nó được định giá quá thấp. Suy cho cùng,
Pierre de Rochelle đã cung cấp cho ông ta một bức của Degas,Người dạy
nhảy, với một cái giá hợp lý hơn nhiều.
Fenston tiếp tục xem xét giá
cả của từng bức tranh, và một nụ cười thường xuất hiện trên môi ông ta mỗi khi
ông ta thấy bộ sưu tập của mình đang lên giá như thế nào. Ông ta nhìn đồng hồ:
7 giờ 43 phút. “Chết tiệt”, Fenston chửi thề vì nhận thấy rằng ông ta có nhiều
khả năng sẽ bị muộn, không kịp để đọc bài phát biểu của mình tại bữa tiệc của
các chủ nhà băng. Ông ta cầm cuốn catalog lên và đi vội ra phía cửa. Ông ta
nhập mật mã gồm sáu con số lên bảng mã gần công tắc điện, bước ra hành lang và
đóng cửa lại. Tám giây sau khi Fenston khoá cửa, ông ta nghe thấy tiếng những
tấm lưới bảo vệ hạ xuống.
Lúc ở trong buồng thang máy
khi đi xuống, Fenston ngạc nhiên khi thấy bức Những người quét đườngcủa
Caillebotte lại được định giá thấp như vậy. Ông ta đã kiếm được một phiên bản
lớn hơn với cái giá bằng một nửa từ một khách hàng vừa bị ông ta làm cho phá
sản trong thời gian gần đây. Khi cửa buồng thang máy mở ra, ông ta đi vội tới
quầy tiếp tân và ký vào sổ theo dõi. 7 giờ 48 phút tối.
Trong lúc sải bước qua sảnh,
ông ta có thể nhìn thấy người lái xe riêng của mình đang chờ ở dưới chân thềm.
Ông ta vẫn chăm chú vào cuốn catalog trong khi leo lên xe và ngồi vào ghế sau.
Ông ta cảm thấy bực mình khi giở sang trang bên và thấy bức tranhThợ
gặt trên đồngcủa Van Gogh, được định giá thấp, 27 triệu đôla. Ông ta
chửi thề. Nó không cùng loại với bứcChân dung người cụt tai.
“Xin lỗi ngài”, người lái xe
nói, “nhưng ngài vẫn đi dự bữa tiệc của hiệp hội ngân hàng chứ ạ?”.
“Ừ, vì thế phải nhanh lên”,
Fenston vừa nói vừa giở sang trang khác của cuốn catalog.
“Nhưng mà…”, người lái xe vừa
nói vừa cầm một tấm thiếp có nhũ vàng từ chiếc ghế bên cạnh lên.
“Nhưng mà cái gì?”, Fenston
hỏi.
“Giấy mời nói là mặc áo
xmôckinh”. Anh ta quay lại phía sau và đưa tấm thiếp cho Fenston.
“Chết tiệt”, Fenston nói và
vứt cuốn catalog sang một bên. Nếu còn Tina thì chắc chắn là chị đã chuẩn bị áo
xmôckinh cho ông ta. Ông ta nhảy ra khỏi xe, trước cả khi người tài xế kịp mở
cửa sau, và nhảy qua hai bậc thềm một tới cửa ra vào, đi nhanh qua quầy tiếp
tân, và không dừng lại để ký sổ. Ông ta đi vội tới chiếc thang máy đang chờ và
bấm nút lên tầng ba mươi hai.
Khi bước ra khỏi thang máy,
thứ đầu tiên ông ta nhận thấy là một vệt ánh sáng thoát ra từ dưới khe cửa văn
phòng của mình. Ông ta có thể thề là đã tắt điện sau khi đặt chuông báo động,
hay là ông ta đã quá chú tâm vào cuốn catalog và đã quên làm chuyện đó? Ông ta
vừa chuẩn bị nhập mã số vào bảng mã bên cánh cửa thì nghe thấy một tiếng động
phát ra từ bên trong.
Fenston lưỡng lự, băn khoăn
không hiểu đó là kẻ nào. Ông ta đứng yên trong khi chờ để xem kẻ đột nhập có
phát hiện ra sự có mặt của mình không. Không. Ông ta thận trọng lùi lại, lách
mình vào căn phòng bên cạnh và nhẹ nhàng khép cửa lại. Ông ta ngồi xuống ghế
của cô thứ ký của mình và bắt đầu tìm chiếc công tắc. Leapman đã cảnh báo với
ông ta rằng Tina có thể theo dõi mọi thứ diễn ra trong phòng ông ta. Sau khi
tìm kiếm một lúc, ông ta đã phát hiện ra chiếc công tắc dưới chiếc bàn làm
việc. Ông ta bật chiếc công tắc, và một màn hình nhỏ ở góc bàn sáng lên. Ông ta
có thể nhìn rõ toàn bộ bên trong căn phòng của mình. Fenston nhìn chằm chằm vào
màn hình và không tin ở mắt mình.
Leapman đang ngồi ở bàn làm
việc của chủ tịch, với một tập hồ sơ trước mặt. Ông ta đang chầm chậm lật từng
trang, đôi khi dừng lại đọc kỹ một đầu mục nào đó, và lúc lúc lại lấy ra một tờ
giấy nào đó từ tập hồ sơ, đặt lên bàn và chụp ảnh bằng một thiết bị nào đó
trông giống như một chiếc máy ảnh kỹ thuật cao.
Nhiều suy nghĩ lướt qua đầu
Fenston. Chắc chắn Leapman đang thu thập tài liệu, để một lúc nào đó sẽ tống
tiền ông ta. Có thể Leapman đang muốn bán tài liệu cho một ngân hàng đối thủ
nào đó. IRS cuối cùng đã xiết được Leapman và buộc Leapman phải đánh đổi ông
chủ của mình để lấy sự an toàn. Nhiều khả năng là tống tiền.
Rõ ràng Leapman không vội.
Ông ta đã tính toán để chọn thời điểm này. Sau khi kết thúc với một tập hồ sơ,
ông ta trả nó lại chỗ cũ và chọn một tập hồ sơ khác. Cách làm của ông ta vẫn
không có gì thay đổi: chầm chậm xem kỹ nội dung, nghiên cứu cẩn thận một số mục
nào đó, và lúc lúc lại lấy ra một tờ nào đó trong tập hồ sơ rồi chụp ảnh.
Fenston cân nhắc một vài
phương án giải quyết, trước khi cuối cùng lựa chọn một cách làm mà ông ta cho
là xứng đáng với Leapman.
Đầu tiên, Fenston viết ra
trình tự của các sự kiện cần có để đảm bảo ông ta không bị mắc kẹt. Sau khi tin
chắc rằng mình đã nắm vững trình tự đó, ông ta tắt một chiếc công tắc để chặn
mọi cuộc gọi đến và đi từ văn phòng của mình. Ông ta kiên nhẫn ngồi đợi tại bàn
làm việc của thư ký cho đến khi ông ta thấy Leapman mở một tập hồ sơ khác. Ông
ta lẻn ra hành lang, và dừng lại trước cánh cửa văn phòng của mình. Fenston
nhẩm lại trình tự đã sắp đặt trong đầu mình, rồi bước lên phía trước. Đầu tiên,
ông ta nhập mã số chính xác, 170690, lên bảng mã, như thể ông ta đang chuẩn bị
ra về. Rồi ông ta xoay chìa khoá trong ổ và thận trọng hé mở chiếc cánh cửa ra,
không quá 1 inch. Sau đó ông ta ngay lập tức đóng cửa lại. Tiếng chuông báo
động chói tai vang lên, và Fenston đợi tám giây cho đến khi các tấm lưới bảo vệ
đã hạ xuống. Rồi ông ta nhanh chóng nhập mã số của tuần trước, 170680, mở cánh
cửa ra rồi đóng lại ngay. Ông ta có thể nghe thấy tiếng Leapman chạy qua căn
phòng; rõ ràng Leapman hy vọng rằng nếu nhập mã số chính xác, ông ta có thể
khiến chuông báo động ngừng kêu và khiến các tấm lưới bảo vệ rút lên trần.
Nhưng đã quá muộn, bởi vì các tấm lưới bảo vệ đã bám chặt xuống sàn, và những
tiếng chuông báo động chói tai vẫn vang lên dồn dập.
Fenston biết mình chỉ còn vài
giây để kết thúc việc này mà không bị bắt. Ông ta chạy trở vào phòng bên cạnh
và vội đọc lướt qua những ghi chú mà ông ta đã để lại trên bàn làm việc của thư
ký. Ông ta quay số báo động khẩn cho công ty bảo vệ Abbott.
Một giọng nói cất lên: “Trực
ban xin nghe”.
“Tôi là Bryce Fenston, chủ
tịch ngân hàng Fenston Finance”. Ông ta nói một cách chậm rãi, nhưng bằng một
giọng thể hiện quyền lực. “Chuông báo động đã bị kích hoạt tại văn phòng của
tôi trên tầng ba mươi hai. Có lẽ tôi đã nhập mã số của tuần trước vì nhầm lẫn,
và tôi muốn báo cho các ông biết rằng đây không phải là báo động khẩn”.
“Xin ngài nhắc lại tên
mình?”.
“Bryce Fenston”, ông ta phải
nói như quát vào tai nghe điện thoại để át tiếng chuông.
“Ngày sinh?”.
“12 tháng 2 năm 1962”.
“Tên khai sinh?”.
“Madejski”.
“Mã số cá nhân?”.
“1-0-0-2-1”.
“Cảm ơn ngài. Chúng tôi sẽ
cho người lên tầng ba mươi hai ngay. Các kỹ sư đang giải quyết một sự cố tại
tầng mười bảy, nơi có một người bị kẹt trong thang máy, và vậy có lẽ phải mất
vài phút họ mới tới chỗ ngài”.
“Không cần phải vội”, Fenston
nói bằng một giọng như không có chuyện gì xảy ra, “hiện nay không có ai làm
việc trên tầng này và văn phòng của tôi sẽ không mở cửa trước bảy giờ sáng ngày
hôm sau”.
“Chắc chắn là không cần phải
mất nhiều thời gian như thế đâu”, viên bảo vệ trực ban nói, “nhưng nếu ngài cho
phép, chúng tôi sẽ chuyển từ mức báo động sang mức ưu tiên”.
“Được thôi”, Fenston nói to
trong tiếng chuông báo động đổ liên hồi.
“Nhưng còn một khoản tiền phí
ngoài giờ là 500 đôla”.
“Có vẻ hơi đắt”, Fenston nói.
“Đó là quy định chung cho
những trường hợp như thế này thưa ngài”, viên bảo vệ trực ban trả lời. “Tuy
nhiên, nếu ngài có thể đích thân tới quầy tiếp tân để thông báo, và ký vào sổ
trực của chúng tôi, thì phí tổn sẽ chỉ còn 250 đôla”.
“Tôi đang tới đây”, Fenston
nói.
“Nhưng tôi cần phải nói
rằng”, viên bảo vệ trực ban nói tiếp, “nếu ngài làm như thế, ngài sẽ được đưa
xuống hàng bình thường và trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ không thể giúp ngài
cho đến khi chúng tôi đã giải quyết tất cả các trường hợp khẩn cấp và ưu tiên
khác”.
“Không thành vấn đề”, Fenston
nói
“Nhưng dù gì thì ngài hãy tin
rằng dù chúng tôi có bao nhiêu cuộc gọi đi chăng nữa, trường hợp của ngài sẽ
được giải quyết trong vòng bốn giờ tới”.
“Cảm ơn”, Fenston nói. “Tôi
sẽ đi xuống báo với quầy tiếp tân ngay bây giờ”.
Ông ta gác ống nghe và bước
trở ra hành lang. Khi đi qua văn phòng của mình, ông ta có thể nghe thấy tiếng
Leapman đang đấm thình thình lên cửa như một con thú bị bẫy. Nhưng tiếng la hét
của Leapman bị những tiếng chuông báo động át đi. Fenston tiếp tục đi về phía
thang máy. Cho dù ở khoảng cách gần năm mươi bộ, tiếng chuông báo động vẫn làm
ông ta đinh tai nhức óc.
Sau khi bước ra khỏi buồng
thang máy ở tầng trệt, ông ta đi thẳng tới quầy tiếp tân.
“A, ngài Fenston”, viên bảo
vệ trực ban nói. “Xin ngài ký vào đây, và điều đó sẽ giúp ngài tiết kiệm được
250 đôla”.
Fenston đưa cho viên bảo vệ
một tờ 10 đôla. “Cảm ơn ngài”, anh ta nói. “Không cần phải vội, tôi là người
cuối cùng”, Fenston nói rồi đi vội ra phía cửa trước.
Khi xuống tới chỗ chiếc xe
đang chờ, Fenston liếc nhìn lên chỗ văn phòng của mình. Ông ta có thể nhìn thấy
một bóng người rất nhỏ đang đấm lên cửa sổ. Người tài xế đóng cửa xe lại và
quay về chỗ ngồi của mình sau vô lăng. Anh ta có vẻ ngạc nhiên. Ông chủ của anh
ta vẫn chưa thay quần áo.
Chương 49
Jack dừng xe lại trên phố
Broad lúc 9 giờ 30 phút. Anh bật radio lên và lắng nghe bài “Cousin Brucie”
trên sóng FM 101.1, trong khi anh ngồi ngả người ra sau để chờ Leapman. Điểm
hẹn của họ là do Leapman chọn, và ông ta đã yêu cầu người của FBI chờ mình
trong khoảng thời gian từ 10 đến 11 giờ, vì ông ta hy vọng tới lúc đó, ông ta
đã chụp đủ các tài liệu làm bằng chứng để buộc tội Fenston.
Jack đang thiu thiu trong
tiếng nhạc thì nghe thấy tiếng còi hú. Giống như tất cả những người làm công
việc thực thi pháp luật khác, anh có thể phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa
tiếng còi hú của xe cảnh sát, xe cứu thương và xe cứu hoả chỉ trong vòng một
tích tắc. Đây là tiếng hú của xe cứu thương, có lẽ là trên phố St Vincent.
Anh nhìn đồng hồ: 11 giờ 15
phút. Leapman đã muộn, nhưng ông ta đã cảnh báo trước với Jack rằng có thể cần
phải chụp ảnh hàng trăm tài liệu, vì vậy không nên nóng ruột nếu ông ta có đến
muộn vài phút. Các nhân viên kỹ thuật của FBI đã hướng dẫn Leapman cách sử dụng
chiếc máy ảnh công nghệ cao để ông ta có thể chụp được những bức ảnh tốt nhất.
Nhưng đó là trước khi có cú điện thoại kia. Leapman đã gọi tới văn phòng của
Jack vào lúc vừa sau bảy giờ để báo rằng Fenston đã nói với ông ta một chuyện
có giá trị hơn nhiều so với bất kỳ tài liệu nào. Nhưng ông ta không muốn tiết
lộ tin tức đó trên điện thoại. Tín hiệu đường dây tắt trước khi Jack kịp căn
dặn ông ta. Jack biết rằng những người đang muốn được hưởng sự khoan hồng của
pháp luật thường tuyên bố rằng mình có những thông tin mới giúp làm sáng tỏ vụ
việc, và vì vậy FBI cần phải cân nhắc lại mức án tù của họ. Anh biết sếp của
mình sẽ không đồng ý giảm nhẹ tội cho Leapman nếu ông ta không kiếm được những
bằng chứng mới để chứng minh mối quan hệ trực tiếp giữa Fenston và Krantz.
Tiếng còi hú mỗi lúc một to
hơn.
Jack quyết định ra khỏi xe và
vận động chân tay một chút. Chiếc áo khoác của anh có vẻ quá nhàu nát. Anh đã
mua nó từ cửa hàng Brooks Brothers vào cái thời khi anh muốn mọi người biết
rằng mình là một người bên an ninh, nhưng khi anh càng được thăng cấp thì anh
lại càng muốn người ta đừng biết về điều đó. Nếu anh được đề bạt làm trưởng
phòng, thậm chí có thể anh sẽ mua một chiếc áo khoác mới, loại áo khoác giúp anh
trông giống với một luật sư hay một chủ nhà băng, và cha anh hẳn sẽ hài lòng
hơn.
Anh nghĩ tới Fenston, kẻ giờ
này đang rao giảng về Trách nhiệm Đạo đức trước các Chủ nhà băng Hiện đại, rồi
anh nghĩ tới Anna, người lúc này đang trên đường bay qua Đại Tây Dương để tới
London gặp Nakamura. Anna đã gửi một tin nhắn tới điện thoại di động của anh,
cho biết cô đã hiểu tại sao Tina lại nhận làm thư ký riêng của Fenston, và bằng
chứng nằm ở ngay trước mắt cô trong suốt thời gian qua. Đường dây đang bận khi
cô gọi, nhưng Anna cho biết cô sẽ gọi lại vào sáng ngày mai. Lúc đó chắn hẳn là
khi Leapman đang nói chuyện với anh. Cái thằng cha khốn kiếp ấy. Jack đứng trên
vỉa hè của một đường phố New York vào lúc nửa đêm, mệt mỏi và đói cồn cào, để
chờ nhận một chiếc máy ảnh. Cha anh nói đúng. Nhẽ ra anh nên theo nghề luật thì
hơn.
Tiếng còi hú lúc này chỉ còn
cách hai toà nhà.
Jack sải bước đi về phía cuối
phố và ngước nhìn lên toà nhà nơi Leapman làm việc, ở đâu đó trên tầng ba mươi
hai. Có một dãy ánh đèn sáng chói ở khoảng giữa toà nhà, tất cả các cửa sổ ở
những tầng khác đều tối đen. Jack bắt đầu đến các tầng nhà từ dưới lên, nhưng
khi anh đếm đến tầng thứ mười tám, anh không còn dám chắc nữa, và khi anh đếm
đến tầng thứ ba mươi hai, đó có thể là tầng có dẫy đèn sáng kia. Nhưng không
thể có chuyện đó, bởi vì trên tầng làm việc của Leapman, giờ này nếu có ánh đèn
thì chỉ có một khung cửa sổ sáng mà thôi. Chắc chắn ông ta không dại gì mà đi
thu hút sự chú ý về mình.
Jack nhìn qua đường và quan
sát chiếc xe cứu thương vừa phanh gấp ngay trước cổng toà nhà. Cửa sau của
chiếc xe mở ra, và ba nhân viên y tế, hai nam và một nữ trong những bộ đồng
phục màu xanh đậm của họ, nhảy lên vỉa hè. Một người đẩy cáng, người thứ hai
vác bình ô xy, trong khi người thứ ba xách một chiếc túi cấp cứu to. Jack nhìn
theo khi họ bước lên các bậc cầu thang vào trong toà nhà.
Anh hướng sự chú ý tới quầy
tiếp tân, nơi một nhân viên bảo vệ vừa chỉ tay vào một tấm bảng vừa nói gì đó
với một người đàn ông mặc complê, có lẽ là sếp của anh ta, trong khi nhân viên
bảo vệ thứ hai đang bận nói chuyện trên điện thoại. Nhiều người ra vào thang
máy, nhưng chuyện đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì họ đang ở trung
tâm của một thành phố mà các hoạt động tài chính được thực hiện 24/24 giờ. Phần
lớn người New York ngủ khi tiền bạc đang được trao tay tại Sydney, Tokyo, Hong
Kong và lúc này là London, nhưng bao giờ cũng có một nhóm người New York sống
trên thời gian của người khác.
Dòng suy nghĩ của Jack bị cắt
đứt khi một buồng thang máy mở ra và ba nhân viên y tế xuất hiện, hai người đẩy
chiếc cáng, còn người thứ ba vẫn ôm chiếc bình ô xy. Khi họ chầm chậm đi về
phía thang máy, mọi người đứng tránh sang hai bên để nhường lối cho họ. Jack
bước lên các bậc thềm để nhìn cho rõ hơn. Lại có tiếng còi hú từ phía xa, lần
này là tiếng hú của xe cảnh sát, NYPD, nhưng vào giờ này thì tiếng còi ấy có
thể chạy về bất kỳ hướng nào, vả lại lúc này Jack chỉ tập trung nhìn vào chiếc
cáng. Anh đứng bên cửa khi các nhân viên y tế bước ra khỏi toà nhà và chầm chậm
đưa bệnh nhân của họ xuống qua các bậc thềm. Anh nhìn chằm chằm vào khuôn mặt
tái nhợt của người bệnh trên cáng; đôi mắt của người ấy mở trừng trừng. Mãi đến
khi chiếc cáng được đẩy qua chỗ anh, Jack mới nhận ra đó là ai. Anh phải quyết
định ngay. Anh nên đi theo chiếc xe cứu thương trở lại St Vincent, hay anh nên
lên thẳng tầng ba mươi hai? Tiếng còi xe cảnh sát nghe có vẻ như đang hướng về
phía họ. Một cái nhìn qua khuôn mặt ấy, và Jack hiểu rõ phải còn rất lâu
Leapman mới có thể nói chuyện với bất kỳ ai. Anh chạy vào toà nhà khi tiếng còi
xe cảnh sát chỉ còn cách đó vài trăm mét. Anh biết mình chỉ có vài phút trước
khi đội quân của NYPD có mặt. Anh dừng lại trước quầy tiếp tân mấy giây để cho
họ xem thẻ FBI của mình.
“Anh phải trở lại ngay”, một
nhân viên bảo vệ nói, nhưng Jack không trả lời mà vẫn đi thẳng về phía thang
máy. Người nhân viên bảo vệ băn khoăn không hiểu tay nhân viên FBI kia làm sao
có thể biết mình cần lên tầng nào.
Jack len vào buồng thang máy
khi nó sắp đóng lại, và bấm nút 32. Khi cửa buồng thang máy lại mở ra, anh nhìn
lướt khắp hành lang để xem ánh sáng phát ra từ đâu. Anh quay mình chạy về phía
cuối hành lang, nơi có một nhân viên bảo vệ, hai kỹ sư và một nhân viên vệ sinh
đang đứng bên một chiếc cánh cửa mở toang.
“Anh là ai?”, người nhân viên
bảo vệ hỏi.
“FBI”, Jack nói và chìa thẻ
FBI ra, nhưng không cho anh ta xem tên mà bước thẳng vào trong phòng. Thứ đầu
tiên mà anh trông thấy là một bức ảnh phóng to chụp cảnh Fenston đang bắt tay
với George W. Bush treo trên bức tường ở sau chiếc bàn làm việc. ánh mắt Jack
lướt qua căn phòng cho đến khi anh nhìn thấy thứ mà anh đang tìm kiếm. Nó nằm
giữa bàn, trên một tập hồ sơ đang được mở ra.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”,
Jack hỏi bằng một giọng của người có thẩm quyền.
“Có một người bị kẹt trong
văn phòng này trong suốt ba giờ và đã kích hoạt chuông báo động”.
“Đó không phải là lỗi của
chúng tôi”, một kỹ sư nói chen vào, “chúng tôi được yêu cầu hạ thấp mức độ khẩn
cấp của cuộc gọi, và chúng tôi đã ghi lại điều đó bằng giấy tờ hẳn hoi, nếu
không chúng tôi đã có mặt ở đây từ lâu rồi”.
Jack không cần phải hỏi cũng
biết ai đã kích hoạt chuông báo động và khiến Leapman lâm vào tình cảnh này.
Anh bước về phía chiếc bàn, mắt anh lướt nhanh trên các trang hồ sơ. Anh nhìn
lên và thấy cả bốn người kia đang nhìn mình chằm chằm. Jack nhìn thẳng vào
người nhân viên bảo vệ. “Đi tới chỗ thang máy, và khi cảnh sát lên đến nơi, hãy
đưa họ thẳng tới chỗ tôi”. Người nhân viên bảo vệ biến vào hành lang mà không
nói lấy một lời và đi thẳng lại chỗ buồng thang máy. “Còn ba người các anh, ra
ngoài”, Jack ra lệnh. “Đây có thể là hiện trường tội ác, và tôi không muốn các
anh làm xáo trộn các chứng cứ”. Ba người kia quay đi, và ngay khi họ vừa ra
khỏi phòng, Jack chụp lấy chiếc máy ảnh và cho vào túi áo khoác.
Anh cầm điện thoại trên bàn làm
việc của Fenston lên. Không có tín hiệu thông đường dây, chỉ có tiếng vo vo
không ngớt. Ai đó đã ngắt đường dây. Chắc chắn vẫn là kẻ đã kích hoạt chuông
báo động. Jack không đụng vào bất cứ thứ gì khác trong căn phòng. Anh bước trở
ra hành lang và lẻn vào căn phòng bên cạnh. Một chiếc màn hình gắn trên góc bàn
làm việc vẫn còn sáng và cho thấy rõ những hình ảnh trong văn phòng của
Fenston. Fenston chắc chắn không chỉ chứng kiến việc làm của Leapman, mà còn có
đủ thời gian để nghĩ ra trò báo thù thâm hiểm kia.
Đôi mắt Jack dừng lại trên
bảng mạch điện. Một chiếc công tắc đang ở chế độ mở, nhấp nháy ánh đèn màu da
cam, cho thấy đường dây đang bận. Ông ta đã cắt đứt mọi cơ hội để Leapman có
thể liên lạc với thế giới bên ngoài. Jack nhìn xuống chiếc ghế nơi chắc hẳn
trước đó Fenston đã ngồi để nghĩ ra cách báo thù kia. Ông ta đã viết ra một
danh sách những bước cần thực hiện để không bị nhầm lẫn. Tất cả các bằng chứng
đều còn đó để NYPD có thể thu thập và đánh giá. Nếu đây là một cuộc điều tra
của Columbo, bảng mạch, danh sách viết tay để trên mặt bàn và thời điểm kích
hoạt chuông báo động sẽ thừa đủ để vị thám từ tài ba này đưa ra lời kết tội, và
Fenston sẽ phải thúc thủ và thú tội sau mục quảng cáo. Nhưng đáng tiếc đây
không phải là một bộ phim truyền hình, và có một điều chắc chắn là Fenston sẽ
không bao giờ chịu thúc thủ, không bao giờ chịu thú tội. Jack cau mày. Điểm
giống nhau duy nhất giữa anh và Columbo là chiếc áo khoác. Jack nghe thấy tiếng
cửa buồng cầu thang mở ra và một giọng nói cất lên: “Đi theo tôi”. Anh biết đó
là cảnh sát New York. Anh tập trung chú ý vào màn hình khi hai người mặc sắc
phục cảnh sát bước vào văn phòng của Fenston và bắt đầu hỏi chuyện bốn nhân
chứng. Những người mặc thường phục chắc chắn cũng sắp tới. Anh bước ra khỏi căn
phòng và nhè nhẹ đi về phía thang máy. Khi anh vừa tới cửa buồng thang máy thì
một sỹ quan cảnh sát bước ra khỏi văn phòng của Fenston và quát lên: “Này, anh
kia”. Jack nhấn nút đi xuống và xoay ngang mình để viên sỹ quan cảnh sát không
thể nhìn thấy mặt anh. Ngay khi cửa mở ra, anh lách mình vào trong buồng thang
máy. Anh ấn và giữ chặt ngón tay trên nút có chữ L và cửa buồng thang máy ngay
lập tức đóng lại. Khi cánh cửa mở ra ba mươi giây sau đó tại tầng trệt, anh đi
nhanh qua chỗ quầy tiếp tân, ra khỏi toà nhà, nhảy xuống qua các bậc thềm, và
chạy lại chỗ chiếc xe của anh.
Jack nhảy lên xe và khởi động
máy. Một viên cảnh sát xuất hiện ở góc phố. Anh cho xe xoay một vòng, trèo lên
vỉa hè, lùi lại xuống đường, và lao thẳng về phía bệnh viện St Vincent.
“Hãng Sotheby xin nghe”.
“Xin cho gặp Lord Poltimore”.
“Thưa bà, tôi cần phải nói
với ông ấy là ai đang cần gặp?”.
“Phu nhân Wentworth”.
Arabella không cần phải đợi lâu trước khi giọng nói của Mark vang lên trong
điện thoại.
“Thật vui khi được nhận điện
thoại của bà, Arabella”, Mark nói. “Cho tôi đánh liều hỏi một chút”, anh ta nói
đùa, “lần này bà là người mua hay người bán?”.
“Một người cần lời khuyên”,
Arabella trả lời. “Nhưng nếu tôi là người bán…”.
Mark bắt đầu ghi chú trong
khi anh ta lắng nghe những câu hỏi nghiêm túc mà rõ ràng là Arabella đã chuẩn
bị cẩn thận.
“Vào cái thời khi tôi còn là
một nhà buôn tranh”, Mark trả lời, “trước khi tôi về làm cho Sotheby, tiền hoa
hồng là 10% nếu giá bán thấp hơn 1 triệu. Từ 1 triệu trở lên, tôi sẽ thương
lượng với người bán”.
“Và anh sẽ nêu ra mức phí
nào, nếu tôi yêu cầu anh bán bức tranh Van Gogh cho tôi?”.
Mark cảm thấy mừng vì
Arabella không thể trông thấy vẻ mặt của anh ta lúc đó. Sau khi đã trấn tĩnh
lại, anh ta chờ một lát rồi mới nêu ra một con số, trước khi vội nói thêm, “nếu
bà cho phép Sotheby đưa bức tranh ấy ra đấu giá, bà sẽ không phải trả một đồng
tiền phí nào, và bà sẽ nhận được toàn bộ tiền đấu giá”.
“Vậy các anh kiếm lời bằng
cách nào?”, Arabella hỏi.
“Chúng tôi yêu cầu người mua
trả một mức phí nào đó”, Jack giải thích.
“Tôi đã có người mua”,
Arabella nói, “nhưng cảm ơn anh vì lời khuyên nhé”.
25/9