Lửa thiêu rừng hạnh - Chương 11 - Phần 2

Mười một rưỡi, xe đến Mang Tây.

Qua Mang Tây, lại đi vào đường núi.

Cuối cùng xe cũng xuống bến xe khách huyện Lam Giang. Bây giờ đã là một rưỡi chiều.

Trước tiên để chắc chắn anh hỏi vé chiều quay về, họ nói vé xe bus chuyến lúc bảy giờ tối đã bán hết vé, chỉ còn lại một vé chuyến lúc bốn rưỡi chiều. Do thời gian quá gấp, Nhiếp Phong không dám đi chuyến đó. Huyện Lam Giang rất nghèo song trên đường phố xe chạy thuê lại rất nhiều, hơn nữa lái xe là nữ giới chiếm số lượng không nhỏ. Để tranh thủ thời gian Nhiếp Phong bỏ bữa trưa, anh thuê một chiếc xe taxi, trên xe không lắp đồng hồ tính cước, chạy trong nội thị vé đồng loạt năm tệ. Trên đường cái đỗ vài chiếc xe Mianbao cỡ nhỏ, hỏi lái xe họ đều trả lời không biết vị trí chính xác của đội hai. Thời gian quá gấp, Nhiếp Phong gọi một chiếc taxi Jieli màu xanh nhạt mặc cả giá tiền cả đi lẫn về bảy mươi tệ, theo người lái xe đoạn đường đó đường đá gập ghềnh rất khó đi.

Tài xế cũng là một cô gái mắt một mí, áo phông cổ tròn, nom rất trẻ trung, trước cửa xe treo một con gấu bông nhỏ. Nghe thấy Nhiếp Phong muốn đi đội hai phân khu bốn, cô tài xế cảm thán: “Năm đó có mười bảy thanh niên trí thức bị lửa thiêu chết ở đấy!”.

Nhiếp Phong cải chính: “Mười người chết và bảy người bị thương”.

Có thể nhận ra tấm thảm kịch đó tác động thật mạnh, hai mươi tám năm sau vẫn có người còn nhắc đến nó.

Chiếc xe lăn bánh về hướng tây, chạy qua một đoạn đường xi măng, qua một cây cầu bắc ngang dòng Lam Giang. Không lâu sau đến đường quốc lộ Thạch Đầu, mặt đường lởm chởm, chỗ nào cũng có đá răm. Xe chạy thêm một đoạn bốn bánh xe nhuốm đầy bùn đất. Nữ tài xế đánh xe vào ven đường, cô nói gia đình mình trước kia cũng ở phân khu bốn, bố mẹ đều làm công nhân nông trường, nhưng cũng đã lâu lắm rồi cô không đi qua đội hai. Cô mở máy di động gọi cho một người quen hỏi đến đoạn nào thì rẽ, sau đó lại hỏi nơi đặt mười ngôi mộ nữ thanh niên trí thức, người kia nói “nằm ven đường cái”.

Hai bên quốc lộ Thạch Đầu là con đập Lam Giang khá rộng, phía trên đập là ruộng lúa, rừng trúc và vườn mía, xa xa một chút là núi xanh thẫm mây trắng bồng bềnh bay. Cô tài xế nói, đất trồng trên con đập là của nông dân địa phương, đất phù sa rất màu mỡ. Đất của nông trường đều nằm trên núi, năm đó được thanh niên trí thức khai hoang mà tạo thành, nghe bố mẹ cô kể lại thời kỳ ấy vô cùng khổ cực.

Lúc này mặt trời đã lên cao, chiếu ánh nắng gay gắt, ngồi trong xe như ngồi trong lò rang. Đi khoảng bảy, tám kilômét chiếc xe rẽ vào một lối nhỏ bên phải. Đường rất hẹp, chỉ xe nhỏ mới có thể đi lọt, hai bên đường cây dại mọc chen chúc, những cánh hoa màu đỏ tía nở rộ trong đám cỏ, nó nét gì đó thật đặc biệt.

Cô lái xe nói: “Nơi này gọi là Mã Anh Đơn (cây dạ hợp), đây cũng chính là tên loài cây được trồng ven đường để làm hàng rào”.

Nhiếp Phong hỏi cô: “Làm thế nào để đến được chỗ có rừng cao su”.

Cô lái xe đưa tay chỉ về phía xa: “Rừng cao su nằm ở đằng sau cánh rừng nguyên sinh phía đằng kia”.

Phía trước có ba người dân địa phương đang đi đến, hai già một trẻ. Chiếc xe tiến lại gần rồi dừng lại. Nữ tài xế hỏi họ đường đi.

Người trẻ tuổi trả lời: “Anh chị đi sai đường rồi, đây không phải là đội hai, phải rẽ lối phía trước mặt”.

Chiếc xe quay đầu trở lại quốc lộ Thạch Đầu tiếp tục đi về phía trước, qua cây cầu nhỏ bằng xi măng, người nữ lái xe nghĩ ra điều gì đó, càng đi vào sâu càng cảm thấy lối rẽ vừa rồi không phải qua cây cầu nhỏ, hỏi mấy người phụ nữ đang lao động bên đường mới nhận ra lại đi sai lối. Xe vòng trở lại lối rẽ vừa rồi, đi sâu vào trong mất mười phút rồi đánh tay lái rẽ sang bên trái, đó là một sườn núi dốc dựng đứng, một người đàn ông cởi trần, da đỏ au đang chẻ củi, cô lái xe hỏi anh ta bằng giọng Vân Nam “Đi lối này có đến đội hai không?”. Người đàn ông gật đầu.

Xe lắc lư tiến về phía trước, hai bên đường toàn là màu đất đỏ bazan. Nhiếp Phong trầm ngâm không lên tiếng. Anh suy nghĩ về những lời đề từ trên tấm lụa ở khu kỷ niệm thanh niên trí thức Thành Đô. Những lời gan ruột thành kính mà mọi người viết ra. Đó chính là mảnh đất này.

“... Đã từng nguyền rủa, càng khó quên hồi ức.

Mãi mãi không quên những cây cao su!”.

“Thời thanh xuân không hối hận nhưng sao cái giá phải trả lại lớn quá”.

Chiếc xe tiếp tục leo lên dốc.

“Sắp đến đội hai rồi anh! Nó nằm phía sau ngọn núi Lam Tước Lĩnh” này”. Cô lái xe nói.

“Lam Tước Lĩnh, cái tên thật là đẹp...”.

Xe lại lao về phía trước, thấp thoáng bóng người trên đường đi qua, vài ngôi nhà tường đất, mái ngói xanh nằm rải rác hai bên đường, mấy người địa phương ngồi trước cửa nhà nhìn xe chạy qua bằng con mắt hiếu kỳ. Cô lái xe bảo: “Họ đều là nông dân song cuộc sống còn khá hơn rất nhiều so với công nhân của nông trường”.

Chiếc xe nhích từng bước trên con dốc nghiêng, đến một lối rẽ khác cô lái xe dừng hẳn lại để Nhiếp Phong bước xuống, rồi đánh xe quay đầu lại:

“Phía trước xe không vào được”. Cô nói.

Hai người để xe lại rồi đi bộ khoảng hơn mười mét thì nhìn thấy một cây đa cổ thụ cao vút chọc trời, vòng gốc cây bốn, năm người ôm không xuể, người địa phương còn gọi đó là cây đại thanh. Cô lái xe đi trước dẫn đường. Nhiếp Phong bám ngay đằng sau. Phía sau cây đa là một con đường nhỏ uốn lượn gấp khúc. Vài ngôi nhà gạch cũ kỹ bám sát lưng chừng đồi, mái hiên rất rộng tường ngoài phơi mấy bộ quần áo lao động. Trước và sau nhà trồng mấy cây gỗ tạp, gốc tre và chuối tiêu, nghe bước chân người lạ, mấy con chó nhà sủa lên ăng ẳng.

Bên ngoài hàng ràng tre bao quanh ngôi nhà, hai người gặp một ông lão mặc áo lam dân tộc, họ bước lên cất lời chào. Ông lão dáng người gầy gò thấp nhỏ mắt bên trái hơi lòa, khuôn mặt nhăn nheo đầy vết chân chim song thái độ rất hồ hởi mến khách.

Nhiếp Phong nói rõ ý định đến đây, ông lão bảo đội trưởng Hỷ không có nhà, tuy nhiên ông đồng ý dẫn anh đi thăm mười ngôi mộ nữ thanh niên trí thức.

“Mười ngôi mộ đó nằm trên Lam Tước Lĩnh”.

Khi anh hỏi hiện nay trong đội còn ai năm đó làm công nhân ở đây.

Ông lão trả lời: “Còn ông Phó”.

Ông lão họ Lý vốn là công nhân ở đây song ngày thứ hai sau khi xảy ra vụ hỏa hoạn kinh hoàng ông mới về đại đội hai công tác. Người biết rõ nhất về vụ cháy hôm đó là ông Phó.

“Cậu cứ đợi một lát là có thể gặp được ông ấy”.

“Vâng ạ!”.

Ông Lý dẫn họ ra khỏi thôn rồi đi theo một lối mòn nhỏ, cả đại đội hai đều nằm bên sườn núi, sâu vào bên trong là một ngọn núi cao. Do trời vừa mưa nên chân mọi người bê bết bùn đất. Chưa đi được bao xa đôi giày thể thao của Nhiếp Phong đã bám đầy bùn nhão nặng trình trịch, bên đường các bông hoa dạ hợp khoe sắc màu đỏ tía, trông giống như những giọt máu nhỏ vương vãi. Trên đường đi họ gặp một ông già đang dắt trâu, ông già nhường đường cho họ. Hai bên đường trồng đầy tre trúc, chuối tiêu và mấy bụi mía cao hơn đầu người, men theo con đường núi quanh co đi bộ khoảng hơn mười phút, ông Lý đột nhiên dừng bước. Bên trái con đường nhỏ là đám cây dại um tùm và vài cây cao su thưa thớt. Sườn dốc bên phải là vườn mía non cao chưa quá đỉnh đầu.

Ông lão chỉ tay về phía vườn mía nói: “Trong này là Lam Tước Lĩnh”.

Nhiếp Phong và cô lái xe cảm thấy kỳ lạ, phía trước mắt họ ngoài đám mía ken dày đặc không còn gì khác.

Không đợi họ hỏi ông Lý dùng tay gạt đám mía sang hai bên lấy đường đi, hai người bám theo leo lên sườn dốc, lá mía sắc nhọn cứa vào tay vào da mặt ran rát, leo lên phía trên khoảng mười mét chui qua vườn mía, phía trước mặt là đám lau lách cỏ dại cao nửa thân người.

“Chính là chỗ này”. Ông Lý nói.

Nhìn kỹ trong đám cỏ lộ ra một phiến đá nhuốm màu thời gian. Nhiếp Phong cẩn thận dùng tay gạt đám cỏ dại sang một bên, đó là tấm bia mộ khắc dòng chữ đã mờ nhưng vẫn còn đọc được, “Mộ Đồng chí Vạn Tiểu Dung”. Anh lại nhẹ nhàng vạt đám cỏ bên cạnh, một tấm bia mầu hồng nhạt hiện ra trên đó có sáu chữ sơn mầu trắng nét còn khá mới “Mộ Đồng chí Chung Hạnh”, bên phải là hàng chữ nhỏ ghi vắn tắt ngày tháng người chết tử nạn, trên đỉnh là một ngôi sao năm cánh màu đỏ, một khoảng trống nhỏ trước tấm bia còn vương vãi dấu tích nhúm tro vàng mã được đốt, sát liền kề là nhiều tấm bia mộ khác nhau xếp một dãy dài bị cỏ dại phủ kín.

Nhiếp Phong đứng lặng người, anh cảm thấy vô cùng xúc động.

Trên đường đến Lam Giang anh đã từng tưởng tượng cảnh mình sẽ viếng mộ như thế nào.

Hoặc là dưới ráng chiều đỏ bầm mầu máu, hoặc là trong cơn mưa nặng hạt, những hạt mưa như roi quất vào da mặt buốt lạnh...

Nhưng anh không hề nghĩ rằng mười ngôi mộ thanh niên trí thức gặp nạn lại lạnh lẽo hoang tàn đến vậy, tất cả đều bị cỏ dại phủ kín.

Mười ngôi mộ nằm sát bên nhau thẳng hàng, Nhiếp Phong đứng lên phía trước anh lặng lẽ cúi đầu tưởng niệm.

Bốn phía cỏ dại mọc um tùm, đằng sau là rừng cây hạnh, mùa hoa nở đã sớm đi qua.

Nhiếp Phong thấy mắt mình nhòe đi, dường như anh cảm nhận được tiếng đàn acmonica vượt qua không gian, vượt qua thời gian du dương vọng đến.

Đó là khúc ca bi ai Mưa hoa hạnh...

Anh ngẩng đầu lên, mặt trời đang xuống thấp, khuất sau những rặng núi, anh chợt nhận ra tất cả mười ngôi mộ đều quay đầu về hướng đông bắc. Đó là hướng quê nhà Thành Đô! Có lẽ đây cũng là tâm nguyện cuối cùng của mười nữ thanh niên trí thức trước khi nhắm mắt.

Nhiếp Phong đứng lên bậc đá, chụp mấy bức ảnh làm tư liệu.

Có thể do một ngày vất vả dưới cái nóng oi bức, cũng có thể do tình cảm bị kích động quá mạnh Nhiếp Phong cảm thấy cơ thể mỏi rã rời, anh nhếch nhác buông người ngồi phịch xuống đám cỏ dại. Ông Lý khẽ nhắc nhở: “Cẩn thận kẻo vắt nó đốt đấy!”.

Ông Lý nói cho Nhiếp Phong biết những năm qua đều có những người từng trải qua thời kỳ thanh niên trí thức đến đây thăm mộ, trước khi đến họ đều thông báo cho nông trường do đó nông trường có sự chuẩn bị cho người dọn sạch cỏ dại xung quanh. Lần này Nhiếp Phong đến đây đột xuất nên được chứng kiến những gì chân thực nhất.

Mười linh hồn trinh nguyên lặng lẽ an nghỉ trong đám cỏ dại nơi miền sơn cước. Đột nhiên Nhiếp Phong có một cảm giác kỳ lạ, khi anh rẽ đám cỏ, anh tưởng như mình đang rẽ những mái tóc dài xanh mướt để lộ ra những khuôn mặt thanh xuân tạc trên nền đá trắng.

Họ mới chỉ là những thiếu nữ mười sáu, mười bảy tuổi, tuổi xuân đang còn phơi phới thật trẻ trung, thật xinh đẹp. Mười người giống như những nụ hoa hạnh mong manh, rực rỡ trong tiết tháng ba chưa đến khi tàn thì đã bị giật tung khỏi cành lá.

Những thiếu nữ thành thị bằng tuổi họ năm xưa giờ vẫn còn nằm trong vòng tay ôm ấp của gia đình và xã hội. Họ ăn hamburger, đi giày Nike, sùng bái các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, phát cuồng lên vì những thứ không đâu, ngày ngày lên mạng chat với các “Bạch mã hoàng tử”... Họ liệu có biết những thiếu nữ thanh niên trí thức cũng tầm tuổi như họ năm xưa đã phải gánh chịu những chuyện bi thảm như thế này chăng...

Không, có lẽ họ không vô tâm đến vậy đâu, hãy nghe những gì họ đã nói: “Con đã xem triển lãm, không thể quên rừng cao su xanh xanh, hạt cà phê tim tím. Con là thế hệ sau của thanh niên trí thức, con ngưỡng mộ tuổi thanh xuân của bố mẹ mình.”

Bất giác khóe mắt Nhiếp Phong nhòe lệ, phía sau lưng anh là rừng cao su được trồng bởi máu và nước mắt của thanh niên trí thức. Cho đến hôm nay chỉ còn sót lại vài cây đơn lẻ, thân cây với những vết sẹo chằng chịt ứa ra dòng nhựa trắng nhỏ xuống chiếc bát hứng phía dưới.

Ông Lý nói rằng: “Vài năm trước mỗi cây mỗi ngày cũng cho được cân rưỡi mủ, hiện nay chỉ còn thu được có nửa cân thôi”.

Xem ra cây cũng giống như người, hai mươi tám năm nhỏ nước mắt, giờ sắp cạn khô mất rồi.

4

Nhiếp Phong cùng ông Lý và cô lái xe quay trở về nhà ông nghỉ ngơi.

Đó là một ngôi nhà mái tranh, tường bằng gạch.

Họ ngồi xuống ghế cùng nhau trò chuyện, phía trước mặt là chiếc bàn gỗ. Bà vợ ông lão mặc chiếc áo cánh màu phấn hồng, mái tóc bạc trắng. Bà nhiệt tình mang trà ra mời Nhiếp Phong và cô lái xe, loại trà này do nhà tự làm, được sao trong chảo gang mùi vị của nó giống như trà Thiết Quan Âm.

Ông Lý thân chinh đi mời ông Phó, đi một lúc quay về bảo: “Ông ấy không có nhà, chắc lại chạy đâu đó rồi”.

Bà vợ nói: “Vừa xong tôi còn nhìn thấy ông ấy mà”.

Đây là người công nhân lão thành của đại đội hai, là người duy nhất còn lại ở đây chứng kiến từ đầu chí cuối vụ hỏa hoạn, rất có thể cũng là nhân chứng quan trọng của vụ kỳ án trước kia. Nhiếp Phong khẩn khoản cậy nhờ, ông Lý lại đi tìm lần nữa, lần này về cũng nói “Không có nhà”.

Nhiếp Phong thấp thỏm chờ đợi, bỗng nhiên một bà già dáng người béo tròn chạy ào đến, vừa chạy vừa lớn tiếng: “Trước kia thì chẳng điều tra, bây giờ còn muốn điều tra cái gì nữa?”.

Bà già béo mặc chiếc áo ba lỗ, tai đeo khuyên vàng, hỏi ra mới hay bà là vợ ông Phó.

Nhiếp Phong giải thích mình là phóng viên của tạp chí “Tây Bộ Dương Quang” lần này về đây không phải là điều tra gì cả, chỉ muốn được trò chuyện với ông Phó. Nhắc đến vụ hỏa hoạn khủng khiếp năm xưa bà Phó nói lúc ấy cũng biết, có tất cả tám căn nhà tranh thì lửa thiêu trụi mất bốn căn, những căn còn lại sau này bà đã sửa lại cho các con của mình ở. Nhiếp Phong đề cập đến nội dung bài viết mà anh từng đọc được, có một người công nhân lớn tuổi nhìn thấy có lửa xanh bốc lên, ông nghi ngờ đó là lửa cháy mỡ động vật.

Bà gật đầu: “Đó là ông Đổng, hiện ông ấy không còn ở đây nữa”.

Nhiếp Phong lại hỏi một điểm mấu chốt khác, sau khi lửa tắt có người nhìn thấy gian nhà thứ ba cửa bằng tre bị buộc chặt bằng dây thép nên không mở được. Bà không hề phản đối còn bổ sung thêm: “Cũng giống như buộc cái cửa này này”.

Bà chỉ tay vào cánh cửa nhà ông Lý, Nhiếp Phong phát hiện cánh cửa đó được buộc bằng búi dây thép rất to rối rắm khó gỡ.

Cô lái xe hỏi bà Phó những người bị chết cháy trông như thế nào, khuôn mặt bà trở lên khó coi, bà dùng tay khoanh một vòng: “Bị cháy đen co rút hết cả!”.

Theo yêu cầu của Nhiếp Phong, ông Lý và bà Phó dẫn anh đến hiện trường hỏa hoạn năm xưa. Đó là một khoảnh đất cỏ dại mọc um tùm, ước chừng hơn trăm mét vuông. Căn nhà gạch nằm sát bên giờ là nhà của ông bà Phó. Gần ba mươi năm nay nơi này chẳng có ai đến dựng thêm nhà.

Trong lòng Nhiếp Phong đầy mối suy tư, anh lấy máy ảnh ra chụp lấy vài kiểu, cáo biệt những người dân hiếu khách có gì đó lưu luyến không rời. Bà Lý gói cho anh một bọc trà lớn.

Khi Nhiếp Phong và cô lái xe xuống núi, vùa đến nút đường có cây đa cổ thụ họ bất ngờ gặp một ông già ngồi dưới bóng đa râm mát. Ông mặc chiếc áo màu tro, khuôn mặt chằng chịt những vết chân chim, khiến người ta liên tưởng đến bức họa “Người cha” của La Trung.

“Anh là nhà báo hả?”.

Nhiếp Phong mừng rỡ: “Vâng ạ! Bác là bác Phó?”.

“Bà nhà tôi không cho tôi nhắc lại chuyện đó”. Ông già móm mém cười.

Thì ra là ông cố ý ngồi ở đây để đợi Nhiếp Phong.

Nhiếp Phong cũng ngồi phệt xuống đất sát bên cạnh ông để trò chuyện.

Trong cái đêm hỏa hoạn kinh hoàng đó ông Phó luôn có mặt ở hiện trường để cứu người và tài sản. Nhiếp Phong lắng tai nghe không bỏ sót bắt cứ chi tiết nào dù là nhỏ nhất.

Vào giờ khắc cuối cùng, theo lời ông già nhiệt tâm kể lại, sau khi Chung Hạnh và những nữ thanh niên trí thức cùng ở trong gian nhà tranh thứ ba bị lửa thiêu sống, người ta phát hiện trên khung cửa đã cháy thành than những mẩu dây thép còng queo. Không hoàn toàn giống như trong bài viết mà Nhiếp Phong đã đọc mười thiếu nữ ôm lấy nhau cùng chết cháy. Ông Phó là người trực tiếp đi thu nhặt tử thi. Trên thực tế chỉ có tám cô gái ôm chặt lấy nhau, hai người còn lại nằm trên bậu cửa. Rõ ràng hai người đó đang cố gắng để mở cửa. Căn cứ vào chiều cao và hình dạng còn sót lại người thấp hơn một chút là Chung Hạnh, người kia là Vạn Tiểu Dung. Theo lời của những nữ thanh niên may mắn sống sót, khi còn sống trên khuôn mặt của cô gái họ Vạn có nốt ruồi lớn. Trên chuyến tàu hành quân đến Lam Giang cô Vạn còn nói với người ngồi bên cạnh là Hạ Vũ Hồng: “Nốt ruồi của mình tẩy hết cả, chỉ duy cái nốt ruồi ở lông mày thì không được tẩy. Đó là nốt ruồi son, nốt ruồi tiền đồ của mình”, thế nhưng cho dù có cố giữ nốt ruồi đó cô gái vẫn không thoát được cái số yểu mệnh của mình.

Ông Phó còn kể với Nhiếp Phong, hai giờ trước khi vụ hỏa hoạn xảy ra, trong đêm khuya thanh vắng ông đang ở trong phòng thì nghe thấy có tiếng gõ cửa gian nhà bên cạnh để gọi Chung Hạnh ra ngoài, nói là có chuyên gấp tìm cô. Trong gian nhà tranh thứ ba nổi lên tiếng rì rầm hoảng loạn, tiếng dây thép xiết chặt vào cửa, nhiều tiếng kêu của nữ thanh niên trí thức “Tên phỉ mặt cười đến rồi!”. Ông Phó ngó đầu ra ngoài cửa sổ. Trong bóng tối lờ mờ một dáng người giống như đại đội trưởng với cái lưng ngắn củn.

Cửa vẫn đóng chặt, người đàn ông đó buột miệng chửi thề: “Con mẹ nó chứ!” rồi hậm hực bỏ đi.

Đúng là đi vẹt giầy sắt cuối cùng cũng bõ công.

Nhiếp Phong lấy trong chiếc túi vải màu trắng đeo bên mình một cuốn tạp chí “Tây Bộ Dương Quang” kính cẩn mời ông già xem qua. Trên bìa tạp chí in hình Hồ Quốc Hào một cách rõ nét.

“Cũng có nét giống, đặc biệt là cái mũi, còn cả đôi mắt chuột nhỏ mà tròn nữa”. Ông phó rít một hơi thuốc sâu kèn rồi nói.

Nhiếp Phong lại đem ra một bức ảnh khác khá cũ, đây là bức ảnh chụp Hồ Quốc Hào mặc bộ đồ vải siu đăng trên báo chí Hải Nam đã lâu.

“A, đúng là nó, đại đội trưởng Hồ Tử Hạo”.

“Bác nói ông ta là Hồ Tử Hạo”.

Nhiếp Phong cực kỳ phấn kích.

Thì ra Hồ Quốc Hào vốn có tên là Hồ Tử Hạo năm đó giữ chức đại đội trưởng đại đội hai.

Nhiếp Phong hỏi ông Phó vì sao anh có hỏi vài người họ đều trả lời không thấy nghe nói về chuyện chiếc dây thép buộc cửa.

“Là do đại đội trưởng Hồ không cho mọi người có mặt ở hiện trường nói ra”.

“Sao lại thế được”.

“Ở đại đội hai Hồ Tử Hạo là một tên chúa đất, đám thanh niên trí thức đặt cho ông ta cái biệt hiệu ‘Tên phỉ mặt cười’”.

Ông Phó kể hết những việc xấu xa mà Hồ Tử Hạo đã làm, tất cả những việc đó người trong đại đội đều biết tường tận. Đã có không biết bao nhiêu thiếu nữ xinh đẹp trong đại đội bị hắn cưỡng bức làm hại, chỉ có những người dung mạo xấu xí mới may mắn thoát khỏi bàn tay hắn. Hồ Tử Hạo giở trò cố ý bố trí nữ thanh niên trí thức mà hắn để mắt tới đứng gác một mình, đợi đêm xuống hắn lấy xe đạp đi một vòng nói là để kiểm tra gác, thừa cơ hội dùng sức mạnh hãm hiếp người ta. Hắn còn thường xuyên lấy cớ điểm danh, trong đêm tối mò vào các gian nhà có nữ thanh niên trí thức ngủ lật màn thò tay vào sờ soạng lung tung, khiến đám thiếu nữ sợ hãi không dám kêu la. Hắn còn có sở thích quái dị, trước mặt đông người động chân động tay với nữ thanh niên trí thức, sau đó còn mặt dày vô sỉ tuyên bố: “Có như vậy mới tiêu trừ sự ngăn cách về tư tưởng khiến mọi người thân thiết như một nhà, tạo thuận lợi cho công tác”.

Đại đội hai vốn là một đại đội tiên tiến. Nhưng do Hồ Tử Hạo làm xằng làm bậy khiến lòng người hoang mang. Có nữ thanh niên trí thức nửa đêm nghe tiếng chuột chạy cũng ngỡ tiếng bước chân Hồ Tử Hạo, giật mình kinh hãi la toáng lên.

“Bác có biết người có tên là Hồng Diệc Minh không ạ?”. Nhiếp Phong hỏi ông Phó về người bạn chí cốt luôn ở bên Hồ Quốc Hào ngay cả khi sống và chết.

Ông Phó hỏi lại: “Nhà báo cũng biết người này hả?”.

“Cháu đã từng gặp”.

“Ông ta là chính trị viên đại đội hai, đồng hương của Hồ Tử Hạo”.

“Thì ra là vậy...”. Nhiếp Phong đã lờ mờ hiểu ra tất cả.

Anh tiếp tục hỏi ông Phó về tình hình sau đó của Hồ Tử Hạo.

Theo lời ông Phó kể sau này toàn bộ sự việc cán bộ binh đoàn làm nhục các nữ thanh niên trí thức bị bại lộ. Nghe nói đích thân thủ tướng Chu Ân Lai giám sát việc điều tra. Mười mấy quân nhân đại đội mười tám trung đoàn mười sáu sư đoàn bốn huyện Hà Khẩu bị tuyên án tù. Bảy tội phạm trong đó có ba tên bị xử tử hình, hai tên án tử chờ thi hành, hai tên tù chung thân, thuộc sư đoàn một huyện Cảnh Hồng. Thanh niên trí thức đại đội hai đứng lên tố cáo Hồ Tử Hạo khiến hắn bị bãi miễn mọi chức vụ chờ thẩm tra. Sau khi nghe tin tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn độc lập thuộc sư đoàn một giả..., đại đội trưởng đại đội một Trương bị xử bắn, Hồ Tử Hạo dự cảm số phận của mình cũng sẽ như vậy ngay đêm hôm đó hắn tìm cách trốn qua biên giới, đào tẩu sang đất Myanmar. Căn cứ vào những tội ác do thanh niên trí thức tố cáo nếu bị đưa ra xét xử Hồ Tử Hạo ít nhất cũng lãnh án tử chờ ngày thi hành. Người báo tin này cho hắn chính là chính trị viên đại đội Hồng Diệc Minh. Ông ta và Hồ Tử Hạo vừa là đồng hương vừa là chiến hữu, trong chiến tranh đã có lần Hồ Tử Hạo cứu ông ta thoát chết.

Hồng Diệc Minh do làm việc này nên cũng bị xử lý điều chuyển công tác đến địa phương khác. Mãi đến sau này thanh niên trí thức đại đội hai mới biết được anh trai của “cô em ngốc” Đinh Lam, Cường Tử mất tích hai năm về trước cũng là do bị hai tên Hồ Tử Hạo và Hồng Diệc Minh ám hại.

Tất cả mọi việc đều trở nên rõ ràng.

Ông Phó còn nói cho Nhiếp Phong biết. Sau khi vụ hỏa hoạn xảy ra tiếng kêu khóc gào thét vang vọng khắp nơi. Anh trai Hạnh Nhi, Hắc Oa đang bị điều đi gác ở bên ngoài thôn nhìn thấy lửa cháy ngút trời hướng Lam Tước Lĩnh, một nửa khoảng trời rực cháy. Anh biết đã xảy ra chuyện vội vàng chạy trở về đại đội. Nhưng khi chạy đến nơi gian nhà tranh thứ ba nơi Hạnh Nhi ở đã trở thành đống tro tàn chỉ còn những ngọn lửa xanh leo lét khét lẹt. Hắc Oa sững sờ đứng như tượng gỗ, đôi môi mím chặt muốn khóc mà không có giọt nước mắt nào trào ra. Anh liều mạng xông đến đống tro tàn quỳ xuống hai tay cào bới tìm kiếm trong đống tro leo lét chỉ còn lại chiếc đàn acmonica cháy đen...

Chia tay ông Phó dưới tán lá cây đa tỏa bóng râm mát, ông già nói với Nhiếp Phong, mấy ngày trước có một người đàn ông trung niên lạ mặt đến mặc niệm trước các ngôi mộ, còn mang đồ cúng vào động Sư Tử nằm trong núi để làm lễ tế vong, nghe ông già tả lại hình dáng người đó thì đúng là Chung Đào.

Nhiếp Phong ngẩng đầu lên nhìn trời xanh, trong lòng anh như có hàng vạn cơn sóng vỗ.

Bên tai dường như vọng lại tiếng gào thét uất hận gào xé tâm can.

Mọi thứ đều có thể quên đi

Duy có mối tình đầu ở Vân Nam

Tình yêu của tôi, huyết hải thâm thù của tôi

Tên phỉ mặt cười cho dù ngươi có chạy đến chân trời góc bể

Ta nhất định sẽ tìm thấy ngươi.

Báo cáo nội dung xấu