Hoa Tư dẫn - Phần II - Chương 6 - Phần 1
Chương
6
Oanh Ca ra đi không cáo biệt. Mặc dù lão đại phu của y quán
vô cùng kinh ngạc, nhưng chuyện này thực ra cũng nằm trong dự liệu của tôi, hai
ngày trước, vừa mới xuống giường được cô đã nóng ruột muốn đi, chỉ là cơ thể còn
quá yếu, mới ra đến cổng gặp gió đã ngã gục.
Nhìn Oanh Ca lảo đảo khụy xuống, tôi nghĩ, chỉ cần có sức
để bước, cô ấy sẽ lập tức rời y quán, không đợi thêm một ngày. Cô nôn nóng muốn
tìm câu trả lời, không thể chờ thêm một khắc. Quả nhiên, chưa đến hai ngày, cô để
lại tiền thuốc, lẳng lặng ra đi.
Tôi không biết có nên tiếp tục đuổi theo Oanh Ca, bởi vì thân
phận Nguyệt phu nhân thật giả thế nào hầu như đã biết, ngoài Dung Viên rốt cuộc
đã chết hay chưa, thực ra không còn nghi vấn nào nữa, nhưng nếu chuyện này kết thúc
ở đây, có nghĩa là ngày chia tay giữa tôi và Mộ Ngôn sắp đến.
Tôi không biết nên làm gì để cứu vãn, tôi muốn ở bên chàng
thêm ít nữa, có thể do chàng không yên tâm để tôi đi một mình, ít nhất sẽ cùng tôi
đi tìm Quân Vỹ và Tiểu Hoàng? Nếu thế, liệu có nên viết thư cho Quân Vỹ bảo anh
ta hãy trốn thật xa, cả đời này đừng để cho chúng tôi tìm thấy?
Cho dù thế nào cũng nên thăm dò ý tứ Mộ Ngôn.
Đi thật nhanh đến tìm chàng, nhưng Mộ Ngôn không có trong
phòng, mới sực nhớ nửa canh giờ trước nhìn thấy một con bồ câu trắng đưa thư đậu
vào cửa sổ phòng chàng, có lẽ Mộ Ngôn ra ngoài gặp khách. Tôi vừa quay ra vừa suy
nghĩ chuyện về Thập Tam Nguyệt, nếu Dung Viên quả thật đã chết, vậy lời đồn chàng
ta bị bệnh qua đời liệu có đáng tin?
Trong lịch sử cũng có không ít những truyền thuyết như vậy,
nhưng vương cung là nơi quy tụ những danh y giỏi nhất nước, một bậc quân vương khó
có thể chết vì bệnh. Nếu đúng như Mộ Ngôn nói, Bình hầu Dung Tầm lên ngôi là do
bức cung chứ không phải Cảnh hầu chủ động nhường ngôi, như vậy tin đồn cái chết
vì bệnh của Cảnh hầu nửa năm sau rất đáng nghi ngờ.
Tôi nghĩ lại, tiền triều tông thất bạc nhược, xã tắc suy yếu,
có nhiều chư hầu, công tử Tương Nghi Mộc của Tây Tấn giết phụ thân và huynh đệ cướp
ngôi, bị Tề hầu lên án, mới liên kết với chư hầu trong thiên hạ cùng thảo phạt Tây
Tấn, không đầy hai tháng, Tây Tấn đại bại, quốc thổ chia năm xẻ bảy, phần lãnh thổ
lớn nhất bị nhập vào Tề quốc.
Nếu tôi là phận nam nhi, biết Hoa Tư dẫn có thể thăm dò bí
ẩn riêng tư của người khác, biết đâu Vệ quốc sẽ không diệt vong.
Trí tưởng tượng của tôi từng bay bổng cho rằng mình không
gặp thời. Ý nghĩ không thể nào gạt đi đó khiến tôi không khỏi bàng hoàng tiếc nuối,
cuối cùng tôi hiểu tại sao các bậc tiền bối tu luyện Hoa Tư dẫn bằng cách lấy mạng
sống của người khác không ai có kết cục tốt đẹp, bởi vì bản thân bí thuật đó đã
là một tham vọng, dễ mê hoặc lòng người nhất, khi gieo mầm tham vọng, nếu không
tự kiềm chế, cuối cùng sẽ có ngày bị chính bông hoa lớn nở ra từ mầm tham vọng đó
đè chết.
Ngay bản thân tôi dù chỉ là người chết cũng không kìm nổi
ảo tưởng có Hoa Tư dẫn tôi sẽ được những gì, nhưng chung quy, nếu nhìn nhận lại
biến cố trong cung của Trịnh quốc, ngoài có giá trị đối với các nước chư hầu trên
mảnh đất Đại Triều sóng gió này thì chẳng liên quan gì đến tôi.
Ra khỏi y quán, nhìn núi non trùng điệp phía xa, không biết
nên đi đâu tìm Mộ Ngôn, băn khoăn một hồi, quyết định đi dạo men theo con phố. Không
có Tiểu Hoàng đi cùng, cảm thấy hơi buồn, nhưng lại nghĩ, nếu có Tiểu Hoàng, tìm
thấy Mộ Ngôn, chẳng phải nó sẽ cản trở hai chúng tôi hay sao, vậy là lại không muốn
có nó nữa.
Ngày đã tàn, nền trời xanh màu ngọc bích, mặt trời lặn hắt
lên chùm hào quang sáng rực, gió vẳng đến tiếng hát từ những thuyền cá trên sông,
thành trì nhỏ lúc hoàng hôn thực êm ả. Thong thả, lúc đi lúc dừng, ngẫu nhiên bước
vào một cửa hiệu bán đồ cổ, thực ra tôi không mấy hứng thú với đồ cổ, nhưng lúc
này mắt vừa liếc đến một nơi, hai chân đã không thể nhúc nhích, đó là một chiếc
trâm bạch ngọc chạm khắc tinh xảo lóng lánh trong ánh chiều muộn.
Đứng ngây trước quầy hồi lâu, cảm thấy chưa đã, lay ông chủ
đang ngủ gật bên cạnh lấy ra cho xem, cầm lên ngắm nghía, lại ngơ ngẩn một hồi.
Lão chủ quán cười nheo nheo hai mắt: “Chiếc trâm này có đến
hai trăm năm tuổi, là ngọc thượng hạng, chế tác thượng hạng, vừa mới nhập hôm qua,
cô nương vừa nhìn đã thích vậy là rất có duyên với nó, nếu cô nương thích, lão xin
để lại cho cô với giá ba trăm kim thù”.
Tôi lại thở dài, thẫn thờ hồi lâu, đừng nói ba trăm kim thù,
ngay một đồng tôi cũng không mua nổi. Nhưng chiếc trâm này quả thực rất hợp với
Mộ Ngôn, khiến tôi không thể bỏ đi.
Chia tay với Mộ Ngôn là tất yếu, mà ngày tái ngộ lại xa vời
vô định, hai mươi năm nay chàng gặp gỡ bao nhiêu cô gái, hai mươi năm sau, và hai
mươi năm sau nữa chàng còn gặp bao nhiêu cô gái nữa, tôi chỉ là một trong những
cô gái chàng đã gặp mà thôi, nhất định có ngày chàng sẽ quên.
Tôi vùi đầu vào lòng bàn tay, hồi lâu, ngẩng đầu buồn bã nhìn
ông chủ: “Tôi có thể dùng vật gì để đổi lấy cái này?”.
Ông ta băn khoăn, lại hỏi sang chuyện khác: “Chiếc trâm này
có can hệ gì với cô nương ư?”.
Tôi lắc đầu: “Không có can hệ gì, chỉ là tôi muốn có nó để
tặng một người nhưng không có tiền, tôi nghĩ có lẽ người ấy sẽ thích vật này, sẽ
suốt đời...”. Nói đến đây lại ngẩn ra, cảm thấy Mộ Ngôn sẽ không suốt đời dùng chiếc
trâm này, lại miễn cưỡng nói chữa: “Đằng nào khi người ta giữ nó, có lẽ sẽ nhớ đến
tôi”.
Chủ quán nhìn tôi hồi lâu: “Vậy cô nương định dùng vật gì
để đổi?”.
Tôi ngẫm nghĩ: “Ở đây ông có nhận nuôi hổ không, bốn chân,
vẫn còn sống”.
“...”.
Cuối cùng tôi dùng một bức họa để đổi lấy chiếc trâm bạch
ngọc đó, lão chủ quán còn trả lại tôi một trăm kim thù, khi nhận bức họa còn cười
nói: “Nếu không biết rõ lai lịch, lão cơ hồ còn tưởng bức họa này của cô nương là
bút tích của công chúa Văn Xương”.
Tôi sửng sốt: “Ông thật uyên thâm, nếu là bút tích thật, ông
bảo nó đáng giá bao nhiêu?”. Ông ta vuốt râu cười: “Không dưới một vạn đồng vàng”.
Tôi kìm chế để khỏi xông vào lấy thêm vài món đồ cổ nữa. Lại thầm nghĩ, trên đời
này ngoài tôi ra, còn ai biết bức sơn thủy vẽ thành Tùy Viễn này trị giá một vạn
đồng tiền vàng, mà nếu như quả thật tôi còn sống, bức họa đó sao có thể có giá như
vậy. Diệp Trăn chết rồi, bút họa của Diệp Trăn cũng chết rồi, cho dù tôi có vẽ tiếp,
những gì vẽ ra cũng chỉ là phế phẩm mà thôi.
Khi ra khỏi hiệu đồ cổ, các nhà trên phố đã lên đèn, gặp lão
đại phu của y quán đi mua rượu, qua ông ta được biết, Mộ Ngôn đến Trích Tiên lâu.
Tôi tưởng đó là quán rượu, đang định vào ăn tối, cầm cái trâm trong tay phấn khởi
hỏi đường đến đó, vào đến cửa lầu mới biết đó là lầu xanh.
Nhất thời không biết cảm giác thế nào, chưa bao giờ nghĩ Mộ
Ngôn có thể vào lầu xanh, nhưng coi như vẫn giữ được bình tĩnh, lót tay ít tiền
cho tiểu nhị trong đó mới đến trước một cái đình hóng mát trên đài cao, nhìn thấy
một cô gái tư dung xinh đẹp ngồi trước cây đàn thất huyền, còn Mộ Ngôn dáng ung
dung nhàn nhã đang ngồi pha trà bên bộ ấm chén bằng đá mộc ngư.
Trong đình có một chiếc lò sưởi nhỏ rất xinh xắn, trong lò
than củi cháy đượm bốc ngọn lửa xanh, chắc là đốt bằng than gỗ trám, tôi nghĩ đến
một cái tên, đã cảm thấy mặt mình trắng bệch, Tần Tử Yên. Nghĩ đến đây, sự phẫn
nộ của người đến hỏi tội bỗng chốc tiêu tan, nếu cô gái kia là Tử Yên thật, lúc
này tôi đến có thể làm được gì? Thử hình dung khi tôi đến Mộ Ngôn sẽ giới thiệu
thế này: “Đây là Tử Yên, sang năm chúng tôi sẽ thành hôn, nhân tiện mời cô đến dự
tiệc rượu”. Phản ứng kìm chế nhất mà tôi có thể nghĩ ra là xông đến bóp cổ chàng
rồi cùng chết với chàng. Trở gót định quay ra, ngẩng đầu phát hiện ánh mắt hai người
ngồi trong đình đã cùng lúc dừng trên người tôi, đây là một cái đài cao đơn độc
ở hậu viên Trích Tiên lâu, có nghĩa xung quanh không có bất kỳ chỗ nào để trốn.
Tôi ngẩng đầu trợn mắt nhìn Mộ Ngôn, vẫn định đi về, mới bước
được hai bước đã nghe tiếng chàng chậm rãi vang lên phía sau: “Tôi đang pha trà
mới của Liên Tinh cô nương, đã đến rồi thì vào uống một chén rồi hãy về”.
Tôi không biết mình có nên qua đó không, chần chừ một lúc
mới đủng đỉnh đi đến, ngồi xuống một chỗ cách họ khá xa, Mộ Ngôn nhìn lướt tôi một
cái lại cúi đầu pha trà, chàng làm gì trông cũng rất duyên dáng.
Lúc này màn đêm đang lan tràn, bốn góc mái hiên cong của đình
hóng mát treo một chiếc đèn lồng, trong ngôi lầu chính phía trước Trích Tiên lâu
vẳng ra tiếng hát, có ngân lượng hậu hĩnh thì sẽ có hưởng thụ âm nhạc đích thực,
đây là nơi đơn giản nhất thế gian.
Nhưng vẫn còn một vấn đề cần giải quyết, tôi ghé đầu hỏi cô
gái ngồi sau cây đàn: “Cô thực sự tên Liên Tinh?”.
Cô gái không trả lời, người tiếp lời là Mộ Ngôn: “Liên Tinh
cô nương hôm trước từ Kiềm thành kinh đô Triệu quốc đến thành Tùy Viễn, sẽ lưu lại
đây hai tháng, bái vũ sư ở Trích Tiên lâu học múa”.
Tôi liếc chàng: “Hai người trước đây đã từng quen nhau?”.
Chàng đang rót nước nóng tráng ấm chén, rót lên cả nắp ấm,
cử chỉ rất duyên dáng đẹp mắt, như lưu thủy hành vân: “Không quen, sao?”.
Tôi nghiêm mặt: “Nói dối!”.
Cuối cùng chàng ngẩng đầu: “Ồ? Sao tôi phải nói dối?”.
Tôi nhìn mặt chàng, cảm thấy khuôn mặt đó quả thực rất đẹp,
sao có thể lừa người được: “Huynh nói cô ấy mới đến hai ngày, huynh cũng lần đầu
đến thành Tùy Viễn, sao có thể ngồi với nhau?”.
Liên Tinh nét mặt như cười như không, lên tiếng: “Nô gia trước
đây quả thực chưa gặp Mộ công tử, hôm nay có thể cùng công tử tương ngộ, chẳng qua
là cơ duyên, vả lại có những điều...”. Nói đoạn mỉm cười, liếc Mộ Ngôn “khá hòa
hợp với công tử mà thôi”.
Mộ Ngôn gật đầu tán đồng: “Chính là thế”. Nói xong vẫn tiếp
tục tráng cốc chén, rồi như chợt nhớ ra: “Ăn tối chưa?”.
Cảm giác của tôi lúc này là tức muốn chết.
Chàng cười, quay đầu nói với Liên Tinh: “Bảo mang ít đồ ăn,
xem ra cô ấy đói rồi”.
Tôi nghiến răng, đứng dậy bỏ đi: “Huynh mới đói, cả nhà huynh
đói”.
Kết quả đứng lên quá vội, chân giẫm vào gấu váy, suýt ngã
vào lò sưởi, bị chàng kéo lại: “Lại định làm gì thế?”.
Tôi mím môi, ép nước mắt không cho chảy ra: “Đi dạo!”.
Chàng để tôi ngồi xuống: “Ăn xong hãy đi”.
Tôi hất tay chàng: “Không ăn, tôi quen đi dạo trước bữa tối”.
Chàng cau mày: “Có thói quen đó từ lúc nào? Sao tôi không
biết?”.
Tôi nghiến răng: “Bắt đầu từ hôm nay”. “...”.
Đi khá xa, sau lưng truyền đến tiếng cười nhẹ của Liên Tinh:
“Xem ra tiểu cô nương giận lắm”. Chỉ trách thính giác tôi quá tốt, nhưng đồng thời
lại muốn nghe phản ứng của Mộ Ngôn, dỏng tai nghe, chỉ có một câu, “Kệ cô ấy”. Nước
mắt lập tức trào ra, thầm nghĩ, đáng ghét, con người đó thật đáng ghét.
Trên trời sao dần dần mọc dầy, giống như lẵng hoa nở trong
đêm, tôi ngồi trong cái lều tranh phía sau y quán suy nghĩ sự đời, gió hồ thổi qua,
cảm thấy hơi lạnh, rụt tay vào ống tay áo.
Cái gọi là nghĩ thì dễ làm thì khó, đúng là một đạo lý bất
biến từ cổ chí kim, giống như tôi luôn mong mình suy nghĩ thông thoáng, cũng luôn
cho là thực ra mình đã nghĩ thông, khi xảy ra sự việc mới thấy, nghĩ thông hay không
chỉ là trong ý niệm, mà ý niệm này quả là đa biến. Ngửa nhìn bầu trời nhưng lại
không nhìn thấy những vì sao sáng, mà dường như lại nhìn thấy những áng mây lững
lờ trôi trên nền trời đen, tôi thở dài.
Chưa thở hết, sau lưng có tiếng chân bước, không cần ngoái
đầu cũng biết là Mộ Ngôn, tôi vội ngậm miệng, giả bộ không phát hiện ra chàng, cũng
tuyệt nhiên không mở miệng hỏi chàng. Mộ Ngôn cười, tự ý đến ngồi bên cạnh: “Vừa
rồi biết được một tin rất thú vị, có muốn nghe không?”.
Tôi ngoảnh mặt đi: “Không!”.
Chàng để hộp thức ăn xuống: “Tôi lại tưởng cô sẽ vui”. Chàng
dừng lại, “Liên quan đến Cảnh hầu Dung Viên”.
Tôi ngoảnh lại: “Sao? Vậy thì nghe tạm”.
Tôi tưởng sẽ nghe được tin về tung tích của Dung Viên, nhưng
chỉ thấy hơi ngạc nhiên khi được tin, sau khi Dung Viên thoái vị, luôn có thánh
dược Bách Lý Việt bí mật ở bên, Mộ Ngôn tay cầm cái quạt vẻ phấn khởi: “Bách Lý
Việt là người cuối cùng ở bên Cảnh hầu, Dung Viên sống hay chết, vụ hỏa hoạn ở hành
cung Đông Sơn là thế nào, chỉ cần hỏi ông ta là biết”.
Ý nghĩ nào đó lóe lên trong đầu, tôi vội hỏi: “Có phải Oanh
Ca đến thành Tùy Viễn là để tìm Bách Lý Việt? Bách Lý Việt, bây giờ ông ấy ở đâu?”.
Mặc dù biết Quân sư phụ có qua lại với Bách Lý Việt, nhưng nghe nói, hành tung của
vị thánh dược này luôn bất định, chắc là ẩn cư ở một nơi hoang vắng nào đó.
Mộ Ngôn mỉm cười gật đầu: “Đoán rất đúng, không chỉ có thế,
Bình hầu Dung Tầm sở dĩ xuất hiện trên chiếc thuyền bình dân kia, có lẽ cũng là
đến thành Tùy Viễn tìm Bách Lý Việt”.
Tôi hơi ngạc nhiên: “Chàng ta tìm Bách Lý Việt làm gì? Lẽ
nào Cảnh hầu thực sự chưa chết, ngay chàng ta cũng không biết tông tích Dung Viên?”.
Mộ Ngôn đăm chiêu nhìn tôi: “Chuyện đó không nghe nói, theo
tin tôi hỏi được, Nguyệt phu nhân được Bình hầu sủng ái trong cung không hiểu sao
tự nhiên chết, lúc sắp an táng, một thầy bói thân tín nói với Bình hầu Nguyệt phu
nhân số chưa tận, còn có thể cứu, vậy là đi khắp nơi tìm danh y, mười mấy ngày trước
đã hỏi thăm biết được Bách Lý Việt đang ẩn cư ở thành Tùy Viễn”.
Tôi không nén nổi, bật cười: “Chàng ta đúng là rất có lòng,
thân là quân vương tôn quý lại thân chinh đi thỉnh cầu lang y, tình với Cẩm Tước
quả là sâu nặng”. Vừa nói như vậy bỗng dưng nhớ ra, như thế này hóa ra đang nói
chuyện tâm tình với Mộ Ngôn, vội vàng mím môi, làm bộ giận dữ, từ giờ bất luận chàng
nói gì, nhất định không chịu tiếp lời.
Chàng cau mày: “Vừa rồi còn tốt thế, lại sao rồi?”. Nhưng
tôi vẫn làm thinh.
Lát sau, chàng thở dài: “Đói bụng nên phá quấy phải không?
Ăn tối chưa?”. Hóa ra từ đầu chí cuối chàng đều tưởng tôi đói nên giận dỗi, tôi
thở một hơi dài, ngoái đầu lườm chàng: “Đây không đói! Không ăn!”.
Bàn tay đang mở nắp hộp cơm dừng lại: “Cái gì?”.
Tôi đang định hùng hồn nhắc lại lần nữa, miệng đã bị chàng
nhét một viên bánh chẻo to đùng, nheo mắt nhìn tôi: “Vừa rồi nói gì, nói lại xem”.
Miệng tôi bị nghẹn bởi cái bánh, lòng có dư, sức không đủ,
cố sức định nhè cái bánh ra. Chàng lại tiếp: “Dám nhè ra thử xem”. Tôi vốn định
thử nhè ra, nhưng sau lưng bỗng nhiên có con gì kêu “choác” một tiếng, giật nảy
người, nuốt vội cái bánh, đang định mở miệng nói, đôi đũa gắp chiếc bánh khác đã
đưa sát miệng tôi: “Vừa rồi đã mua cho cô bánh chẻo nhân tôm phỉ thúy trên phố,
nào, ăn cái nữa”.
Mặc dù vừa rồi coi như bị thua, nhưng nhất quyết không chịu
lép vế, tôi tức giận ngoảnh đầu sang bên: “Không ăn, đã nói là không ăn, huynh lắm
chuyện quá!”.
Đôi đũa dừng trên không, chàng thu đũa về, giọng thản nhiên:
“Được, không ăn thì đem cho người khác”.
Tôi còn tưởng vừa rồi mình nói quá, nghe thấy chàng nói vậy,
lại tức sôi người, vốn định kiềm chế, nhưng không kiềm được, cảm thấy mắt sắp đỏ
lên, muốn giả bộ tỏ ra lạnh lùng, nhưng chẳng biết làm gì nữa, đành cố nén khóc:
“Mang đi thì mang đi, mang cho cái cô Liên Tinh kia ăn, cô ta nhất định cảm kích,
ăn xong sẽ đánh đàn cho huynh nghe, đằng nào tôi cũng chẳng biết gì, miễn cưỡng
đánh một khúc là lấy tính mạng người ta”.
Tôi như bị nghẹn, không nói được nữa, trong ống tay áo là
chiếc trâm mua định tặng chàng, chiếc trâm bỏ bao nhiêu công sức mới có được, vậy
mà chàng lại đầu mày cuối mắt với cô gái khác. Lại còn cho là tôi giận dỗi vì đói
bụng. Chàng không biết cả đời này tôi không biết đói là thế nào.
Mộ Ngôn nhìn tôi, ánh mắt lạ lùng, như có gì suy nghĩ, lại
mông lung như mặt đầm sâu dưới trăng, lúc sau bỗng hạ giọng nói: “A Phất, cô...”.
Tôi ngắt lời chàng: “Tôi xấu xí, lại luôn quấy rầy huynh,
đằng nào chuyện của Thập Tam Nguyệt cũng làm rõ rồi, ngày mai huynh đi đi, đi tìm
cô Liên Tinh kia đi, đừng theo tôi nữa”.
Nói xong ngay tôi cũng giật mình, bất giác run run. Sao tôi
lại muốn đuổi chàng, hơn nữa tôi cũng đâu thấy phiền phức gì, nhưng lời tiếp lời
cứ thế nói ra, khiến lòng tôi đau nhói từng cơn, hình như Mộ Ngôn cũng buồn, mà
tôi vốn làm gì biết cảm giác đau chứ.
Chàng lại mỉm cười, thong thả phe phẩy cái quạt: “Đuổi tôi
mau như vậy, phải thanh toán hết tiền công cho tôi trước đã chứ”.
Tôi cảm thấy lạ: “Tôi nợ huynh tiền công bao giờ?”.
Chàng chống đầu nhìn tôi: “Sau khi gặp lại ở Bích sơn tôi
đã làm hộ vệ cho cô mười ngày, không nhanh quên như vậy chứ?”.
Tôi tức giận: “Tôi đâu có nói thuê huynh làm hộ vệ, là huynh
tự làm!”.
Chàng không nói, chỉ phe phẩy quạt.
Tôi cảm thấy bực mình, chủ yếu là không ngờ chàng đáng ghét
như vậy, còn nhớ hôm nay dùng bức tranh đổi chiếc trâm, sau khi hối lộ lão bộc ở
Trích Tiên lâu còn lại hơn chín mươi kim thù, vừa lần túi tiền trong ống tay vừa
bực mình hơn, tôi còn chưa kịp móc tiền ra, chàng đã gập quạt lại, lạnh lùng nói:
“Một ngày một trăm kim thù, chỉ tính nửa tháng thôi, vậy là một nghìn năm trăm kim
thù, trả xong tiền công, sáng mai tôi lên đường, không làm phiền cô nữa”.
Bàn tay tôi dừng lại trong ống tay áo, kinh ngạc nhìn chàng:
“Sao lại đắt thế?”.
Chàng dửng dưng nhìn tôi, dửng dưng phe phẩy quạt, dửng dưng
mở miệng: “Con người tôi, so với những hộ vệ khác cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ
khác một chữ thôi, đó là: đắt”.
Tôi cảm thấy, tôi bị chàng chọc tức muốn chết.
Buổi tối hôm đó kết thúc bằng việc tôi ném túi tiền vào đầu
Mộ Ngôn.
Nhưng mới sớm hôm sau đã cảm thấy nên đi xin lỗi Mộ Ngôn.
Nghĩ lại, nếu chàng cho tôi là người thất thường cũng chẳng có gì lạ, chàng không
hề biết tôi thích chàng, giống như một lính hầu đi công cán với quan phủ, khi cần
đi bộ lại nhất định cưỡi ngựa, còn đòi cưỡi chung ngựa với quan phủ, mà lại ấp úng
không nói ra được nguyên do, quan phủ đó ngoài cảm thấy anh ta bị thần kinh cũng
chẳng có ý nghĩ nào khác.
Từ trước tới giờ tôi chẳng qua chỉ mong một cái ngoái đầu
của Mộ Ngôn, ôm hy vọng mong manh như vậy để quên thời gian, cuối cùng ngày chàng
xa tôi càng tới gần, mỗi ngày càng gần, nhưng không hề khiến tôi thỏa mãn, trái
lại càng muốn được nhiều hơn.
Luôn không muốn nghĩ, nhưng cuối cùng đã có thể bình tĩnh,
suy nghĩ kỹ, mới nhận ra tình trạng như vậy thật đáng sợ. Tình cảm của tôi đối với
Mộ Ngôn thực ra không thuần túy như tôi tưởng, cứ thế này nhất định không ổn, có
lẽ thực sự cần suy nghĩ lại, chủ động rời xa chàng.
Chưa sắp xếp xong ý nghĩ trong đầu, chợt cửa phòng bị đẩy
ra, tôi ngẩn người nhìn Mộ Ngôn nét mặt thản nhiên đứng ở cửa, nói theo phản xạ:
“Chào...”. Chưa nói xong, không biết có phải do căng thẳng, đột nhiên cắn vào lưỡi...
Trong ấn tượng của tôi, tư thái Mộ Ngôn luôn phong nhã nhàn
tản, rất ít khi thấy chàng nghiêm túc, lại còn có một cử chỉ thất lễ, tự đẩy cửa
vào khi chưa được người ta cho phép. Một bức họa được mở ra trên bàn, tôi ghé lại
nhìn, lại cắn vào lưỡi lần nữa, chính là bức họa tôi bán cho ông chủ hiệu đồ cổ
hôm qua.
Ngẩng nhìn qua cửa sổ, quanh bờ giậu tre, những bông hoa thích
diệp điểu la(*) khoe mình dưới nắng. Mộ Ngôn ngồi bên bàn, cánh tay nhàn tản chống
mép bàn, ánh mắt lạ lùng hướng vào tôi vẻ thăm dò, lát sau mỉm cười, cúi đầu nhìn
bức tranh sơn thủy mở rộng trên bàn, khẽ nói: “Vẽ khá lắm, nhưng từ nay đừng vẽ
nữa”.
(*)
Thích diệp điểu la là một loài cây thân cỏ, sinh trưởng quanh năm, lá giống lá phong
dài và nhọn, hoa màu đỏ. Thường mọc thành khóm, được trồng làm cảnh.
Tôi thấy lạ, hỏi: “Sao huynh có bức họa này?”.
Chàng không phủ nhận: “Cô kiếm được rất nhiều tiền, thành
Tùy Viễn bé tí, đột nhiên cô có nhiều tiền như vậy, hỏi loanh quanh là biết ngay”.
Tôi không nói gì, bụng nghĩ mình vẫn giận chàng, không nên
tỏ ra thân mật, nhưng vừa rồi đã quyết định xin lỗi chàng, vậy là bỗng dưng không
biết nên tỏ thái độ thế nào.
Chàng lại như chưa yên tâm, ngón tay gõ xuống bàn, vẻ mặt
nghiêm túc, nhắc lại lần nữa: “A Phất, nhớ đấy, từ nay không được vẽ nữa”.
Tôi không hiểu: “Tại sao?”.
Chàng không trả lời, tiếp tục ngắm bức tranh: “Nghe ông chủ
hiệu nói, bức tranh này đáng giá bốn trăm kim thù, vậy cô gán nợ cho tôi, tính ra
cô vẫn còn nợ tôi một ngàn kim thù, ồ, nên tiếp tục cố gắng”.
Tôi bất lực, phản đối: “Huynh không thể vô lý như vậy”.
Chàng cười giễu tôi: “Với trẻ con lý lẽ làm gì, trước giờ
lúc nào cô chẳng vô lý!”. Không đợi tôi phản ứng, chàng đã mang nghiên mực đến:
“Tranh đẹp đấy, nhưng tiếc là chưa có đề từ, muốn một đề từ thế nào?”.
Ánh nắng chiếu xiên, tôi nhìn chàng trong ánh sáng vàng như
mật đó, bỗng nghĩ tới cái đêm sao đầy trời năm xưa, tôi bị rắn độc cắn ngất xỉu,
chàng bế tôi, xiêm áo thoảng mùi hương mai, đêm trường mênh mang.
Mộ
Ngôn lại giục: “A Phất?”.
Tôi
lặng lẽ nhìn chàng: “Đối hoa đối tửu, lạc mai thành sầu, thập lý trường đình thủy
du du”(*).
(*) Nghĩa là: Uống rượu bên hoa, mai
rụng sầu dâng, nước hững hờ trôi mười dặm trường đình.