Hoa Tư dẫn - Phần II - Chương 5 - Phần 3

Oanh Ca toàn thân áo tím, đứng dưới tán mai trắng, mái tóc
đen dài chấm gót, vầng trán trắng ngần vương hoa tuyết trông như tuyết rơi trên
bích ngọc, môi hơi mím, cô ngoái đầu, ngay tôi đã quen nhìn mỹ nhân cũng không khỏi
sững sờ, vội vàng nhìn sang Mộ Ngôn đang uống trà bên cạnh, sắc mặt chàng vẫn bình
thường, không thấy tỏ ra xúc động. Có tiếng chân bước đến gần, trong rừng mai vắng,
giọng Oanh Ca chầm chậm vang lên: “Đại nhân mời Cẩm Tước ra đây không biết vì nguyên
cớ gì?”.

Tiếng bước chân dừng lại, người đàn ông vận đại hỉ bào tay
cầm chiếc ô màu nhạt, đứng yên trong khoảng trống đầy hoa tuyết: “Oanh Ca…”.

Khuôn mặt thanh thú của mỹ nhân áo tím lộ vẻ băn khoăn: “Đại
nhân… đại nhân nhận nhầm người rồi?!”.

Môi ép ra nụ cười: “Cẩm Tước, Cẩm là cẩm tú lương duyên, Tước
là dương tước hàm hoàn, phu nhân thứ chín của Trịnh hầu. Oanh Ca mà đại nhân vừa
nói đã chết từ bốn tháng trước, tôi không phải là Oanh Ca, người đại nhân cưới hôm
nay mới là Oanh Ca”.

Dãy núi phía xa uy nghi tĩnh mịch, tuyết lẫn trong gió, Dung
Tầm đứng trước cô, cách năm bước, môi động đậy, nhưng không thành lời, lát sau,
rút trong người ra một cái cốc gốm hình thù kỳ quái, thành sáng bóng nhưng đầy vết
rạn, có vẻ như đã được ghép lại từ những mảnh vỡ.

Chàng nhìn cô, ánh mắt thâm sâu đặc như mực: “Ta thấy vật
này ở Thanh Trì cư, nghe nói đó là món quà em định tặng ta?”.

Cô giơ tay đón chiếc cốc: “Thế ư? Để tôi xem”. Cô buông tay,
chiếc cốc rơi đúng vào hòn đá dưới chân, vỡ vụn.

Chàng nhìn cô, trầm ngâm: “Em hận ta?”.

Bất chấp uy nghi của phu nhân quân vương, cô ngồi xuống, cúi
nhìn những mảnh gốm vỡ, lát sau đột nhiên bật cười: “Chiếc cốc này tôi từ Triệu
quốc phi ngựa trăm dặm hộc tốc mang về, định tặng chàng, chỉ sợ không kịp sinh nhật
chàng, tay bị thương, lẽ ra phải đợi chữa trị xong quay về cũng không muộn, sao
có thể muộn, lúc đó tôi quá ngốc, đã nghĩ là cả năm chàng chỉ có một ngày sinh,
không ngờ tôi về sớm mà vẫn muộn, tôi đã đưa chàng lên quá cao, đến mức nhất định
phải trân trọng, phải đối xử tinh tế chu toàn, kỳ thực chàng hoàn toàn không cần
sự trân trọng và tinh tế chu toàn của tôi, trong mắt chàng tôi chỉ là một công cụ”.

Cô đưa tay vuốt món tóc mai ướt tuyết, môi vẫn cười, “Tôi
giữ lời, giúp chàng nốt việc cuối cùng để hôm nay chàng có thể cưới Cẩm Tước như
ý nguyện, tôi không nợ chàng nữa. Nhớ quá sâu sẽ bị tổn thương. Chàng thấy có phải
không?”.

Chiếc ô màu nhạt hơi rung rung, rừng mai tĩnh mịch, chỉ có
tiếng tuyết rơi lạo xạo trên ô, giống như ai đi chân trần trên lá khô mùa thu. Chàng
giơ tay định kéo cô lên, nhưng cô đã tự đứng dậy.

Giọng chàng khe khẽ dưới tán ô: “Ta đã phụ em”.

Cô gật đầu: “Chàng đã phụ tôi. Chàng và Cẩm Tước, hai người
đã phụ tôi”.

Chiếc ô rơi xuống đất, chàng không cúi nhặt, ánh mắt trở nên
âu yếm dịu hiền, tôi nghĩ tôi không nhìn nhầm, nhưng tôi mong là tôi nhìn nhầm,
thần sắc đó giống như cái buổi sáng lúc cô mười lăm tuổi, trong rừng trúc chàng
luyện đao cho cô, lúc đó cô vẫn là đứa trẻ, sợ sấm sét, nhìn thấy máu là choáng,
chàng thường cười cô, nét mặt cũng như bây giờ thật âu yếm thật dịu hiền.

“Ta đã phụ em, hận ta đi, như thế cũng tốt”.

Có những phụ nữ hâm mộ kẻ giết người, có vẻ vô lý, thực ra
xuất phát từ ý nghĩ lãng mạn, cho rằng sát thủ rất mạnh mẽ yêng hùng, khi gắn bó
với anh ta mới biết thật thảm khốc.

Giết chết một sát thủ không khó, làm sát thủ động lòng mới
khó, cuộc đời của họ giống như đi trên dây giữa hai bờ vực thẳm, chỉ có nguy hiểm
không có cảm giác an toàn, với xã hội họ luôn có thái độ thù địch chống đối.

Tôi biết có một cách khiến sát thủ động lòng, chính là giao
tính mệnh của mình cho họ. Điều này có cơ sở logic vững chắc, thử nghĩ, những người
đó luôn phải đối mặt với hiểm nguy sinh tử, hiểu rõ nhất sự yếu đuối rất nhân tính
trước cái chết, chỉ cần giữ được tính mạng, mọi thứ khác đều không quan trọng, dẫu
là kẻ keo kiệt nhất hạng, khi kề dao vào cổ hỏi cần tiền hay cần mạng, nhất định
kẻ đó cũng không nói tôi cần tiền, hãy giết tôi đi.

Nếu có thể trao tính mạng cho người khác, không nói một sát
thủ, một thích khách, cho dù một phàm nhân cũng khiến họ cảm động đến có thể xả
thân tương cứu. Tôi không biết Dung Viên có hiểu, nhưng bất luận có hiểu hay không,
trong đêm trừ tịch ở vương cung, khi một con báo tuyết to đã trưởng thành điên cuồng
lao vào Oanh Ca, phản ứng đầu tiên của chàng không phải là trốn vào một góc mà là
kéo Oanh Ca về phía sau.

Dung Viên là Trịnh quốc đệ nhất đao thuật, người trong thiên
hạ hình dung đao pháp Trịnh hầu nhanh như chớp giật, hoàn toàn không thể nhìn ra
chiêu thức, ánh đao vừa lóe, đao đã thu về cắm vào bao, người bị chém thậm chí chưa
kịp nhận ra, người ra tay đã đi xa. Theo lý, đao pháp nhanh như vậy, chém một, hai
con báo tuyết là chuyện có thể, cái khó ở chỗ, trong bữa tiệc đêm trừ tịch đó Dung
Viên lại không mang đao theo người, phản ứng của cơ thể nhanh đến mấy, trong tay
ôm một người, né tránh cũng khó khăn.

Còn con báo tuyết vồ mồi vốn rất nhanh, khi thịnh nộ càng
khủng khiếp. Bộ vuốt sắc bất ngờ chồm lên vai trái Dung Viên, bảy vị phu nhân xung
quanh đồng thanh thét lên, cùng lúc các thị vệ lao đến, một người kịp thời đâm kiếm
trúng ngực con báo tuyết, con vật trúng thương gầm lên, lao đến ngoặm đứt nửa cánh
tay thị vệ đó. Cả toán thị vệ lập tức quây vòng tròn quanh con thú, bảo vệ Dung
Viên phía sau. Nhưng con báo trúng thương điên cuồng lồng lộn còn lao đến cắn xé
làm mấy thị vệ bị thương nặng.

Oanh Ca mặt tái nhợt, tay giằng đao của thị vệ đứng gần, Dung
Viên cau mày, nghiêng người khéo léo cướp thanh đao trong tay cô, trở tay đẩy cô
vào lòng Dung Tầm lúc này vừa xông ra cứu.

Đèn lồng trong cung sáng suốt mười dặm trong màn đêm bảng
lảng sương khói, hoa tươi khắp nơi, một cảnh đêm đông huy hoàng hiếm có, phút chốc
ánh nến hồng đã loang loáng ánh đao, nhuộm sắc máu, Trịnh hầu trẻ tuổi ung dung
thể hiện đao pháp nhanh như ánh sao băng, chỗ ánh đao lướt qua chùm tia máu vọt
lên không trung tản mạn sương khói, con báo tuyết giãy giụa gục xuống, đầu lăn lông
lốc mấy vòng như một quả cầu.

Trong đình bất chợt im phăng phắc, môi Oanh Ca run run, một
tay đẩy Dung Tầm ra, lê váy dài loạng choạng chạy về bên Dung Viên đang cầm trường
đao, giơ tay vuốt bờ vai bị thương của chàng, chợt tròn mắt thất kinh, máu đen đang
thấm qua thường phục màu bạc, thần sắc chàng vẫn không thay đổi, hơi nhíu mày nhìn
cô, vẻ không vui: “Cướp đao nhanh như thế để làm gì?”. Ngừng lại rồi tiếp, “Những
lúc như thế này chỉ cần đứng sau ta là được”.

Cô không thể nói nên lời, mặt càng tái nhợt, môi run run,
ôm chặt cánh tay chàng, dường như mọi nỗ lực của chàng đều là gắng gượng, quả nhiên
chàng gục xuống ngay sau đó.

“Độc, vuốt con báo
tuyết đó có độc”.

Sự thật là Dung Viên đã quá gắng sức, khi ngự y hốt hoảng
lao đến, chàng vừa ngã ra, trường đao rơi xuống, Oanh Ca cố đỡ chàng, nhưng cả hai
đều ngã ra đất. Cô nhổm dậy, quỳ trên nền tuyết nhuốm máu đỏ ôm lấy chàng, hoang
mang nhìn vết thương vẫn đang tuôn máu trên vai chàng, nhìn đôi mắt nhắm nghiền
và khuôn mặt đã trắng bợt của chàng, đôi môi tím ngắt ghé sát vành tai cứ xúc động
là đỏ ửng của chàng, cô khẽ nói: “Nếu chàng chết, em sẽ đi theo chàng”.

Dung Tầm bên cạnh nghe vậy ngẩng phắt đầu, nhìn thẳng vào
Oanh Ca đang ôm Dung Viên, nhìn sâu vào đôi mắt đen như nhân hạnh đào của cô, lúc
này dù ánh trăng chiếu vào cũng không thấy ánh sáng.

Dung Viên đúng là bị trúng độc, mặc dù tôi tin là có nhiều
người mong chàng ta chết, nhưng chung quy không phải là kịch độc có thể nôn ra máu
chết ngay, cho dù cách thức đầu độc cao tay hơn nhiều so với dùng thuốc chuột, nhưng
được cứu chữa kịp thời, nên chất độc đâu dễ phát huy hết công hiệu giống như giết
chết một con chuột được.

Oanh Ca túc trực ở điện Thanh Lương suốt ba ngày đêm không
ngủ, Dung Viên cuối cùng tỉnh lại, mặc dù sắc mặt suy yếu xanh xao, nhưng đôi mắt
đen lại tràn đầy sinh khí khác thường. Chàng khoác áo choàng mỏng ngồi dựa đầu giường
chăm chú nhìn Oanh Ca bê bát thuốc đi đến: “Lúc đó nàng đã nói gì?”.

Cô cúi đầu, múc một thìa thuốc đưa lên miệng thổi, đưa sát
miệng chàng, “Uống thuốc đi đã, hết nóng rồi”.

Chàng cụp mi mắt: “Không uống”.

Mặt cô lộ vẻ bất bình, đổ thìa thuốc vào bát, lặng lẽ nhìn
chàng, từ từ lấy ra trong ống tay áo một con xúc xắc: “Vậy, cái này tặng chàng”.

Chàng nhìn cô, cầm xúc xắc nhìn kỹ dưới đèn, miệng lẩm nhẩm:
“Xúc xắc gắn đậu tương tư...”. Lát sau, cầm xúc xắc trong tay, ánh mắt như cười:
“Tại sao tặng ta quân xúc xắc này?”.

Cô ngẩng đầu lườm chàng, “Chàng không biết ư?”.

Dung Viên lắc đầu: “Ta không biết”.

Cô nhao đến hai tay ôm mặt chàng, dụi mũi vào mũi chàng: “Chàng
không biết thật ư?”.

Chàng nắm tay cô, ngẩng nhìn cô: “Không ai dám đối với ta
như vậy, như thế là khi quân, đợi ta bình phục...”.

Cô nghiêng đầu nhìn chàng, má ửng đỏ như hoa mùa xuân lại
nở sau tiết đông hàn: “Đợi chàng bình phục thì sao?”.

Chàng không nói, lặng lẽ nhìn cô.

Cô trượt xuống, gục trên đầu gối chàng, nói như tự an ủi:
“Thiếp đợi chàng bình phục, nhanh bình phục nhé”.

Xúc xắc gắn đậu tương tư, thiếp tương tư chàng, chàng hỡi
có hay.

Sau đó, mọi chuyện như Mộ Ngôn nói, Oanh Ca và Dung Viên chung
sống ba năm, được sủng ái nhất Trịnh cung, mùa xuân năm sau được phong chính phu
nhân. Tôi không biết trên đời liệu có tình yêu vĩnh hằng, hoặc như Mộ Ngôn nói,
một cuộc tình dang dở giữa lúc đẹp nhất mới có thể vĩnh hằng, như Thẩm Ngạn và Tống
Ngưng ngày nào.

Sử Trịnh không thấy ghi chép chuyện này, đó là bí mật Trịnh
cung được giấu kín. Dung Viên bố cáo thiên hạ Tử Nguyệt phu nhân lâm bệnh qua đời,
từ khi biết thân phận Oanh Ca chúng tôi đã biết nhất định có ẩn tình, nhưng không
nghĩ ẩn tình chỉ là sự tự tôn của bậc quân vương.

Năm Cảnh hầu thứ mười, chuyện Oanh Ca tráo đổi thân phận vào
cung bị bại lộ. Dung Viên nổi giận. Oanh Ca bị phạt giam mười năm trong núi Đình
Hoa để sám hối, mười năm không được xuống núi.

Núi Đình Hoa ở ngay sát biên giới Trịnh - Triệu, là thánh
sơn của Trịnh quốc, tương truyền là nơi hóa thân của một nữ thần được vương thất
sùng bái, đàn ông không được đến, đàn bà nếu không được vương thất cho phép, cũng
không được lui tới, ai trái lệnh sẽ bị tru di.

Năm đó Oanh Ca hai mươi ba tuổi, lừa dối Dung Viên ba năm,
chàng chôn vùi mười năm tuổi xuân của cô ở nơi núi sâu cách biệt thế gian. Thị vệ
trói cô áp giải khỏi Dung Nguyệt cung, cô muốn gặp chàng lần cuối cũng không được.

Hai tháng đầu bị nhốt ở núi Đình Hoa, ngày đêm cô suy tính
tìm cách phá trận pháp trong núi trốn ra, cuối cùng mình đầy thương tích, cô cũng
thoát ra được, đi suốt ngày đêm trở về vương cung ở kinh thành, dọc đường nghe tin
triều đình ra bố cáo mình bị bệnh qua đời, và vị phu nhân thứ sáu của Dung Viên,
Như phu nhân Hồng Châu đã mang thai cốt nhục của chàng.

Do mình đầy vết thương, cô đi rất chậm, mới đến nửa đường
đã bị thị vệ truy đuổi bắt được. Đường trường hoang vắng, trên trời một mảnh trăng
lưỡi liềm cùng mấy đốm sao tàn, Dung Viên tưởng là đang ở kinh thành xa ngàn dặm
bỗng vén rèm kiệu, dưới ánh trăng nghiêng, hiện ra khuôn mặt ẩn gió sương.

Mũi đao dài kéo lê trên đất, cô khó nhọc lết từng bước đến
trước mặt chàng, như một đóa hoa rơi, để lại vệt máu dài sau lưng. Cô ngẩng đầu
nhìn chàng, mắt ngấn lệ long lanh, giọng nghẹn ngào: “Lúc đó chàng đã nói với thiếp,
chàng không như họ, chàng quên rồi ư?”.

Cô nắm ống tay áo chàng: “Xúc xắc thiếp tặng, chẳng phải ngày
đêm chàng vẫn mang bên người đó sao, chàng...”.

Dung Viên ngắt lời cô, rút trong ống tay ra con xúc xắc, khẽ
bóp, lớp bột trắng rơi xuống như cát: “Cô nói vật này?”.

Cô kinh ngạc nhìn chàng, ánh nước trong mắt càng dâng, nhưng
trước khi tụ thành giọt đã bị ép tan đi, môi run run rất lâu, mới phát ra tiếng:
“Kỳ thực, chàng đã sớm biết thiếp không phải là Cẩm Tước đúng không? Cố tìm lý do
để giam cầm thiếp”. Đột nhiên cô bật cười, “Chàng đã chán thiếp rồi chăng?”.

Cô giơ tay bịt mắt mình, giọng thấm buồn như nói với mình,
hai má lại ngấn nước: “Sao thiếp có thể tin chàng như vậy, những người trong vương
thất đâu có hiểu sự quý giá của nhân tâm”.

Xung quanh tĩnh lặng, cô từ từ buông tay, khóe mắt vẫn còn
ánh nước, hai mắt lại mở to kiên cường, “Nghe nói Hồng Châu phu nhân đã có thai,
chúc mừng chàng”. Những mạt bụi từ mảnh ngà bị bóp vụn bay theo gió, trong bóng
đêm như dệt ra một dải sa mỏng, tay Dung Viên chợt cứng đờ, ngẩng đầu nhìn cô, đôi
mắt sâu hoang vắng, xa xăm như ánh sao cuối trời ngày xuân.

Ngày xưa khi tình vẫn nồng, Dung Viên thường dạy đao pháp
cho Oanh Ca, chị đã từng là hộ vệ của Dung Tầm, em biết đao thuật cũng chẳng có
gì lạ, nhưng dạy thì dạy, chưa bao giờ thực sự đấu với cô một lần. Trận duy nhất
này lại là đêm nay sau khi đã chia lìa. Ngàn vạn đóa anh đào tan tác dưới ánh đao
như bóng chớp của chàng, theo gió bay xa, chàng chộp tay cô giao cho thị vệ: “Không
đưa được phu nhân về núi, hãy mang đầu đến gặp quả nhân”.

Đó là lần cuối cùng họ gặp nhau.

Núi Đình Hoa quanh năm hiu quạnh, mặc dù nhân gian khắp nơi
khói tỏa, duy chỉ nơi này bị lãng quên, xuân về oanh ca lảnh lót, hạ đến cây xanh
ngút ngàn, thu sang lá đỏ xao xác, đông tới tuyết trắng mênh mang. Oanh Ca không
nhắc tới Dung Viên nữa, cũng không tìm cách trốn khỏi núi Đình Hoa. Trong ba năm
Trịnh quốc đã xảy ra bao biến cố, nhưng không một tin tức nào lọt tới núi này.

Ba năm sau, vú già được lệnh chăm sóc Oanh Ca ốm nặng, lúc
lâm chung bà nắm chặt tay cô, đôi mắt đục rơi lệ: “Bệ hạ lệnh cho lão nô hầu hạ
phu nhân mười năm, hôm nay lão nô đành phụ ủy thác của bệ hạ, phu nhân oán giận
bệ hạ, nhưng hai năm trước bệ hạ đã lâm bệnh quy thiên, người đã chết, mọi oán hận
cũng nên hóa thành cát bụi, bệ hạ mong phu nhân được sống bình yên, câu này lẽ ra
mười năm sau mới được nói với phu nhân, nhưng lão nô mệnh bạc, không được hầu hạ
phu nhân thêm nữa, phu nhân đã suy ngẫm tội lỗi ba năm, thực ra chẳng có lỗi gì,
nhưng ba năm, một nghìn ngày, thế gian dâu bể, có lẽ phu nhân đã nghĩ thông rồi?”.

Gió thổi qua cửa làm tắt ngọn nến, một lúc sau giọng Oanh
Ca vang vọng, tan trong gió: “Vừa rồi vú nói gì? Dung Viên, chàng, chàng làm sao?”.

Sự thực cho thấy Oanh Ca vẫn chưa nghĩ thông, nếu nghĩ thông
thì đã suốt đời làm bạn với ngọn đèn xanh trong núi Đình Hoa, chứ không bôn ba vượt
núi truy tìm kết cục năm xưa. Có thể thấy vú già không hiểu cô, cả đời cô luôn sống
rất tỉnh táo, đã quen như vậy, không biết rằng hồ đồ một chút chính là phúc, người
ta không nên làm khó chính mình.

Nhưng xuống núi cũng không có tiền, chưa bao giờ nghe có chuyện
người bị giam lỏng còn mang một đống tài sản vàng bạc, cho dù xiêm y lụa là ngọc
bội kim thoa do Dung Viên tặng cũng không thể tùy tiện đem cầm, đành quay lại nghề
cũ, vừa giết người kiếm tiền vừa đi tìm Dung Viên.

Trên thế gian có bao nhiêu kẻ muốn giết người nhưng không
có bản lĩnh ra tay, may họ có nhiều tiền, lần đầu tiên gặp Oanh Ca, cô nói cô không
tin Dung Viên đã chết, xem ra cô không tin thật.

Đó chính là giấc mơ của cô, mơ đến chỗ này lại ngoảnh đầu,
nghiền ngẫm lại những hồi ức đẹp đẽ của quá khứ, chìm đắm trong đó không thể thoát
ra. Cuối cùng tôi đã hiểu cô muốn gì, cô muốn Dung Viên, cho dù Dung Viên đã nhốt
cô trong núi, cô vẫn muốn chàng ta.

Nếu Dung Viên chưa chết, đối với cô chàng chỉ là người phụ
bạc, ba năm, năm năm, bảy năm, nhất định có ngày cô sẽ quên, nhưng mọi người đều
nói chàng đã chết, để lại bao mối hoài nghi, mà khi người đã chết, sự chia ly cuối
cùng lại biến thành hoài niệm, ngay cả những lời độc ác ngày xưa cố tình nói ra
để làm đau lòng cả hai dường như cũng không làm người ta đau lòng nữa, giống như
hồi ức về một cây xanh bị chặt, người ta chỉ còn nhớ hình ảnh huy hoàng cành lá
sum suê, mà quên đi vẻ khô héo điêu tàn của nó khi đông về.

Nhưng càng sợ hãi càng không thể sợ hãi, bởi vì không có ai
ở bên mình, cô nói không tin Dung Viên đã chết, nói chắc như đinh đóng cột nhưng
trong lòng lại vô cùng sợ hãi, vậy là ngày nghĩ đêm mơ. Giấc mơ phản ánh mong muốn
trong lòng, người ta trong lúc yếu đuối điều khó nhất là chống lại dục vọng trong
lòng, Oanh Ca mãi không tỉnh lại, bởi vì bản thân cô không muốn.

Mộ Ngôn đập cái quạt: “Làm thế nào đưa cô ta ra, đã nghĩ ra
cách chưa?”.

Chàng hỏi rất đúng lúc, tôi đang định nói ra ý nghĩ đó, không
trung đột nhiên bùng nổ những tiếng sấm ầm ầm, giống như dòng Thiên Hà trên trời
nổi sóng, chớp mắt đã mưa như trút nước, nước mưa theo tiếng sấm xé tầng mây dày
xối xả trút xuống, màn mưa chọc thủng bầu trời lớp lớp bao vây thành Tứ Phương trong
đêm.

Từ xa một âm thanh kinh hoàng truyền đến, cổng thành đóng
chặt đột nhiên bật tung, một con sóng khổng lồ cao mấy trượng ồ ạt tràn vào thành,
như con mãnh thú tham lam há mồm đầy máu. Đã tưởng giấc mơ này tương đối bình yên,
không ngờ nguy hiểm ập tới trong chớp mắt. Nước lụt không ảnh hưởng đến tôi, tôi
không cần hít thở, chỉ cần viên giao châu không bị tổn hại là không sao. Mộ Ngôn
lại khác, chàng là người sống. Đầu tôi đột nhiên trống rỗng, nước lũ như con mãnh
thú chồm tới.

Tại sao tôi lại đưa chàng vào giấc mơ của Oanh Ca, để chàng
gặp nguy hiểm. Nước lũ đục ngầu chớp mắt đã dâng lên tới cổ, viên giao châu trong
ngực đập thình thình, như một trái tim thực sự, một trái tim sống, tôi nghĩ nhất
định là do Mộ Ngôn, không còn khả năng nào khác, giơ tay túm lấy Mộ Ngôn, tay vừa
giơ lại bị chàng túm lấy, má chạm vật gì ấm áp, giơ cánh tay còn lại sờ soạng xung
quanh, sờ đúng gò mũi thẳng và đôi môi mềm mềm âm ấm của chàng. Đúng là Mộ Ngôn,
chàng đang ở bên tôi.

Mộ Ngôn biết bơi, cho dù phải kéo tôi cũng bơi rất tốt, nhưng
sóng từng trận lớn ập tới, dù bơi giỏi đến mấy cũng khó khăn.

Trong thế giới câm lặng trùng trùng sóng nước, mắt dần thích
nghi ánh sáng, nhưng không có phản ứng gì nhất định sẽ khiến Mộ Ngôn lo lắng, tôi
liền giơ tay ôm mặt chàng, cách làn nước cũng có thể nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên
của chàng, đây là ánh mắt tôi luôn muốn nhìn, là đôi môi tôi luôn muốn hôn.

Khi tôi hôn Mộ Ngôn, không biết vẻ mặt chàng thế nào, khoảng
cách quá gần đương nhiên không thể nhìn thấy. Tôi đang tiếp khí cho chàng trong
nước, nhưng không biết làm thế nào để mở hàm răng, chuyện này sư phụ chưa từng dạy
tôi, Quân Vỹ cũng chưa từng viết trong tiểu thuyết, dụng cụ cần sử dụng chỉ có thể
là đầu lưỡi, nhưng phải vừa dán môi vào môi chàng để nước khỏi tràn vào, vừa phải
dùng đầu lưỡi cậy răng chàng nên hơi khó khăn.

Chúng tôi duy trì tư thế môi dán môi, sóng nước cuộn dềnh
rùng lắc từng cơn, một tay Mộ Ngôn quắp eo tôi, cơ thể càng ép sát, tôi nắm chắc
vai Mộ Ngôn, dán môi càng chặt, đẩy khí trong ngực vào miệng chàng. Hai mắt Mộ Ngôn
bất chợt mở to, không khí nhiều như vậy, thực ra đã đủ, nhưng tôi vẫn không muốn
rời môi khỏi môi chàng, sau này có lẽ không còn cơ hội như thế nữa.

Trong nước thực ra cũng có cái hay, ai cũng nín thở, hôn nhau
trong khoảng cách gần như vậy, Mộ Ngôn cũng sẽ không phát hiện ra tôi là người chết.
Mặc dù cơ bản không giống nụ hôn, nhưng tôi có thể giả vờ coi là thế.

Con người mà tôi yêu này thực sự rất mạnh mẽ, nhưng trong
thời khắc này cũng cần tôi bảo vệ, tôi sẽ bảo vệ chàng thật tốt, không để chàng
bị một vết thương nào, mặc dù nguy hiểm chàng lâm vào là do tôi gây ra...

Khi thế nước nhỏ dần, chúng tôi tóm được một khúc gỗ, Mộ Ngôn
kéo tôi lên đó, phóng mắt nhìn quanh, đúng là một vùng quê trong mơ, nhưng không
nhìn thấy Oanh Ca ở đâu, cho dù muốn đưa cô ra khỏi giấc mơ cũng không biết làm
sao.

Nhưng lại nghĩ, đây là giấc mơ của Oanh Ca, mộng cảnh đều
do tiềm thức của cô tạo ra, cô là tất cả trong giấc mơ đó, giống như Hoa Tư mộng
tôi dệt cho khách, mặc dù không nhìn thấy họ, nhưng đâu đâu cũng có ý thức của họ...
Tôi thầm nghĩ, cuối cùng hiểu, cúi đầu nhìn dòng nước lũ cuồn cuộn bên dưới khúc
gỗ, tôi nói ra một câu lẽ ra nên nói sớm hơn: “Dung Viên chưa chết, chàng đang đợi
cô, tôi biết chàng ở đâu, cô có muốn đi cùng tôi?”.

Cơn lũ đột nhiên dừng lại. Tôi chỉ tia sáng phía trước, chính
là kết mộng lương để ra khỏi giấc mơ, nói tiếp: “Đi ra từ chỗ kia, cô sẽ tìm thấy
chàng”.

Trong y quán, Oanh Ca cuối cùng mơ màng tỉnh lại, mắt mơ hồ
nhìn chúng tôi, không nói một câu. Cô không thể nhớ trong giấc mơ đã xảy ra những
gì. Do toàn thân ướt sũng tôi và Mộ Ngôn phải về phòng thay quần áo, đành gọi lão
đại phu dậy chăm sóc Oanh Ca. Vầng đông đã hơi rạng, qua hàng giậu thấp bao quanh
đình viện, có thể nhìn thấy cánh đồng lúa bát ngát phía xa. Mộ Ngôn cười: “Đi ra
từ chỗ kia cô sẽ tìm thấy chàng là thế nào? Tôi cứ tưởng cô chưa bao giờ nói dối,
chưa bao giờ đánh lừa người khác”.

Tôi khẽ thanh minh: “Không phải là đánh lừa, nếu trong mộng,
suốt đời cô ấy cũng không thể tìm thấy Dung Viên, trong hiện thực, bất luận Dung
Viên sống hay chết, nhất định có ngày cô ấy có thể tìm ra sự thật. Oanh Ca đầu óc
luôn tỉnh táo, không tự dối mình, cũng không muốn dùng thứ khác đánh lừa bản thân,
cho dù trong mơ”.

Chàng ngắt lời tôi: “Thế còn cô?”.

Tôi lắc đầu đi nhanh về phía trước: “Tôi chưa bao giờ nằm
mơ”. Người chết không nằm mơ, ngủ tôi còn không cần, huống hồ là mơ.

Chàng dừng lại, thay đổi chủ đề khác hóc búa hơn: “Vậy vừa
rồi trong nước lũ, cô làm gì vậy?”.

Tôi choáng váng, quay đầu giả bộ trấn tĩnh nhìn chàng: “Tôi
tiếp khí cho huynh, huynh xem, mặc dù tôi biết Hoa Tư dẫn, nhưng vẫn cần có một
số dị năng khác...”.

Chàng mỉm cười nhìn tôi, nhưng không nói gì chỉ gật đầu: “Đi
thay quần áo thôi”.

Báo cáo nội dung xấu