Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 21 - phần 2
Sau khi phế truất thái tử vào ngày mùng bốn tháng chín năm thứ bốn mươi bảy, đột nhiên vào tháng mười một, Khang Hy hạ lệnh để các đại thần Mãn Hán trong triều tiến cử thái tử, lệnh nói rõ, trừ Đại a ca Doãn Chi, đều có thể lựa chọn trong số các hoàng tử. Khang Hy tỏ rõ, mọi người ưng ai thì lập người đó. Kết quả không ngoài dự đoán, người được “nhiều phiếu” nhất là Doãn Tự. Không ngờ hoàng đế Khang Hy lại trở mặt, không những không lập Doãn Tử làm thái tử, còn ra lệnh điều tra xem ai là người cầm đầu ủng hộ Doãn Tự. Lúc đầu quần thần còn yên lặng bảo vệ lẫn nhau, nhưng chống thế nào được với sự công kích mạnh mẽ của Khang Hy cuối cùng đã tra ra: Người cầm đầu là nghị chính đại thần, đại học sĩ Mã Tề, thứ đến là người cậu ruột kiêm nhạc phụ của Khang Hy, Đồng Quốc Duy, ngoài ra còn có Vương Hồng Tự… Khang Hy không hề nể mặt, đã cách chức và bắt giam Mã Tề, cách chức người em, lệnh Vương Hồng Tự lui về nghỉ, xét xử tất cả những ai tiến cử Doãn Tự.
Việc làm của Khang Hy là quá đáng và vô lý. Lý do Khang Hy không lập Doãn Tự cũng rất miễn cưỡng. 1. Doãn Tự chưa có kinh nghiệm hành chính. 2. Doãn Tự từng phạm sai lầm. 3. Sinh mẫu Doãn Tự xuất thân ti tiện. Chưa có kinh nghiệm có thể tích lũy, từng phạm sai lầm có thể sửa chữa, sinh mẫu xuất thân không tốt có thể thay đổi, chỉ cần tuyên bố loại bỏ gốc gác ti tiện là xong, hơn nữa bà ta đã được phong là Lương phi! Xem ra, không muốn lập Doãn Tự mới là nguyên nhân thật sự. Nhưng không lập Doãn Tự thì thôi, cớ chi phải hãm hại số người ủng hộ kia? Những người ủng hộ do phụng thánh chỉ mới ghi tên Doãn Tự. Chỉ ý chỉ nói không được tiến cử Doãn Chi, không nói không được tiến cử Doãn Tự. Cho nên tiến cử Doãn Tự là không trái thánh chỉ. Thần tử đã không trái thánh chỉ, chính hoàng thượng đã nuốt lời. Rõ ràng đã nói “ý các khanh ưng ai, trẫm sẽ làm theo”, lúc này mọi người đã chọn Doãn Tự, vì sao không theo? Chẳng nhẽ lại nói đó bỏ đó, không suy nghĩ gì nguyên tắc vua không nói chơi?
Lúc này mới rõ, Khang Hy làm vậy là có ý đồ, mục đích là dụ rắn ra khỏi hang, xem xem thế lực, khả năng của Doãn Tự lớn đến chừng nào. Lúc đầu Khang Hy cũng thích Doãn Tự, sau này dần dần không hài lòng, nhất là việc Doãn Tự mua chuộc lòng người. Khang Hy nói: “Bát a ca muốn có hư danh ở mọi nơi, ngoài những việc do trẫm khoan dung, ban ân, tất cả đều quy công về mình, thực không đáng là người”. Khang Hy luôn nghĩ mình là người duy nhất nắm trọn đại quyền, nên việc đó đã làm Khang Hy rất phẫn nộ, thậm chí còn lớn tiếng, ai dám nói tốt cho Doãn Tự, dù chỉ là một chữ “trẫm sẽ chém đầu”, vì “quyền này há chịu cho người khác mượn được sao?”. Để bộ mặt thật của Doãn Tự bị phơi bày ra giữa thanh thiên bạch nhật, để thăm dò thế lực của Doãn Tự, Khang Hy tự soạn và đạo diễn vở kịch “tiến cử thái tử” và ngay từ đầu đã sắp đặt rất chu đáo: 1. Lúc cúng bái trời đất, tổ tiên đã nói “thần tuy có nhiều con, nhưng không ai bằng thần” (Khang Hy xưng thần với trời đất, tổ tiên), muốn ám chỉ Doãn Tự cũng không đủ tiêu chuẩn. 2. Minh lệnh cấm chỉ các hoàng tử “gắn kết lòng người, lập đảng tranh giành”, hướng của đầu mâu là rất rõ ràng. 3. Mượn chuyện của một thầy bói tên Trương Minh Đức nói về Doãn Tự “sau tất đại quý” để chê trách Doãn Tự nuôi chí bừa bãi, âm mưu đoạt đích, lệnh bắt giam ngay, ra lệnh nghị xử, thực tế là muốn cảnh tỉnh Doãn Tự, đồng thời cảnh cáo “Bát gia đảng”. Trước khi tiến cử thái tử mấy hôm, Khang Hy luôn động viên, nhắc nhở. Mùng một tháng mười, Khang Hy tuyên bố: Chọn người vào ngôi vua “trẫm đã tính toán xong”, nhưng không báo trước với mọi người, cũng không muốn cho ai biết. Ngày mùng tám, tháng mười một, Khang Hy lại nói, “trẫm đã định đoạt” ai làm thái tử, hết thảy đều do một mình Khang Hy định đoạt. Nếu đã sắp đặt nhiều như thế, cớ sao ngày mười bốn lại tuyên bố tiến cử thái tử, hơn nữa còn đồng thời hạ lệnh Mã Tề không được tham dự, ý tứ đã quá rõ ràng. Đáng tiếc bọn Mã Tề ngu dốt chậm hiểu, lại cứ đưa Doãn Tự lên lò nướng. Khang Hy đã tuyên bố không cho Mã Tề nhúng tay, nhưng ông ta lại không kìm nổi sự phấn chấn, chạy đến nội các để tạo dư luận, nói mọi người tiến cử Doãn Tự! Rất rõ ràng là lợi dụng chức quyền để gây ảnh hưởng. Ngạc Luận Đại, A Linh A, Quỹ Tự... càng chẳng ra thể thống gì, họ viết một chữ “Bát” trong lòng bàn tay, nhìn thấy triều thần là xòe ra, ngang như bí mật móc ngoặc. Điều ấy làm sao Khang Hy có thể chấp nhận được? Kỳ thực, bọn Mã Tề chỉ cần hơi động não là đã hiểu dụng ý của Khang Hy. “Trẫm đã có tính toán” với “trẫm đã quyết định”, vậy cần gì triều thần tiến cử, còn mất công làm gì? Huống hồ, Khang Hy cũng nói: “Bát a ca Doãn Tự xưa nay gian trá”, rõ ràng là đã rào trước đón sau đủ cả.
Có điều, kết quả cuối cùng làm Khang Hy hết sức kinh ngạc. Khang Hy không thể ngờ, Doãn Tự chỉ là một Bối lặc mà thế lực đã lớn đến như vậy. Nếu là thái tử sẽ như thế nào? Bọn Mã Tề không tiếc thân, lần nữa ngầm bảo, cứ tiến cử, dứt khoát tiến cử Doãn Tự, đây chẳng khác gì một buổi diễn tập quân sự để bức cung đình. Vì vậy, Khang Hy nói: “Trẫm sợ ngày sau tất có kẻ giống như chó lợn, sẵn đội ân lớn, vì hắn dấy binh gây nạn, buộc trẫm nhường ngôi mà lập người kế vị”. Khang Hy tỏ rõ: “Nếu đúng là vậy, trẫm chỉ còn cách ngậm cười mà chết”. Khang Hy nghi ngờ và phòng ngừa Doãn Tự đến mức đó thì rõ ràng là không muốn truyền ngôi cho Doãn Tự.
Rõ ràng “Bát gia đảng” của Doãn Tự đã phạm sai lầm. Họ chỉ biết “được lòng người là được thiên hạ”, nhưng không biết thiên hạ đó là của ai, thiên hạ đó bị hoàng đế giữ chặt trong tay, vậy “được lòng người” không bằng “được lòng vua”. Thậm chí, càng được lòng người thì càng không được lòng vua. Vì bất kỳ một vị vua độc tài nào đều không muốn người khác được ủng hộ hơn mình. Nếu là thời đại chính trị dân chủ, cách làm để giành phiếu của bọn Mã Tề có thể có hiệu quả, nhưng đây là thời quân chủ, thực không hiểu, phải chăng là sai lầm!
Có điều, việc làm của Doãn Tự đã giúp đỡ nhiều cho Dận Chân.
Trong hoạt động tiến cử thái tử lần này, Dận Chân được bao nhiêu phiếu chúng ta không thể biết, nhưng khẳng định là rất ít, thậm chí không có. Bởi vì phần lớn “phiếu chọn” đã bị Doãn Tự lấy mất, quá nửa số phiếu còn lại là đề cử lại thái tử bị phế Doãn Nhưng. Dận Chân cũng làm như vậy. Dận Chân tự biết lúc này mình chưa là gì cả, và cũng không muốn là chim lộ đầu trước, các anh em của mình ai cũng đầy dã tâm và đều là những chiếc đèn đầy dầu. Để cho số người đó thượng đài, không bằng vực thái tử bị phế dậy, chắc sẽ có những ngày yên vui hơn.
Dận Chân cũng chẳng có nhân duyên gì. Ngược hẳn với Doãn Tự - một “Bát hiền vương” ai nhìn thấy cũng yêu, Dận Chân là “Lãnh diện vương” nổi tiếng ai nhìn thấy cũng sợ. Dận Chân không gần gũi đặc biệt với bất kỳ ai (chỉ thân mật đặc biệt với anh em Doãn Tường) và cũng không xa lánh đặc biệt với bất kỳ ai, gặp ai cũng chỉ là công việc với công việc. Nếu được Khang Hy trao cho việc gì đó, Dận Chân chỉ biết tới vương pháp, không biết nể mặt. Vào năm thứ năm mươi hai, (năm 1713), Thục Huệ phi của hoàng đế Thuận Trị qua đời, tang lễ hết sức sơ sài, Khang Hy lệnh cho Dận Chân xem xét lại. Dận Chân tìm ra ngay những người phụ trách là Mãn Đốc, Mã Tiến Thái, Mã Lương, Hách Dịch, Mã Tề… và nghiêm khắc xử lý họ. Năm thứ bốn mươi tám (năm 1709), Khang Hy trách cứ Ngạc Luân Đại vì tội kết đảng. Ngạc Luân Đại biết mình là quốc thích nên không sợ, Dận Chân liền nói với Khang Hy: “Việc gì phụ hoàng phải bực bội vì mấy kẻ phản nghịch đó. Loạn thần tặc tử đó đã có quốc pháp xử trị, nếu giao việc này cho thần, thần sẽ cho chém luôn”. Dận Chân thiết diện vô tư, chấp pháp như sơn, đương nhiên không mấy ai thích.
Vì vậy, trong khi các vương tử khác mưu đoạt ngôi vị, Dận Chân không tỏ thái độ, không chỉ không nhiệt tình mà còn không tham gia. Dận Chân biết mình không có ưu thế đặc biệt nào; nói về đích, thứ, Dận Chân không bằng Doãn Nhưng; nói về học thức, Dận Chân không bằng Doãn Chỉ; nói về vận may, Dận Chân không bằng Doãn Tự; thậm chí về tài cán, Dận Chân còn không bằng đứa em của mình là Doãn Đề. Đã vậy thì tranh giành làm gì, ngồi xem hổ báo đấu nhau còn hơn, biết đâu còn thành ngư ông hưởng lợi. Dù không có lợi, cũng chẳng mất gì. Vì vậy, trong lúc bọn Doãn Tự đang tối mắt tối mũi vì tranh giành đoạt đích, thì Dận Chân chẳng khác gì “người nhàn nhất trong thiên hạ”, tham thiền lễ Phật, ngâm thơ vịnh nguyệt: “Ở rừng mừng được cảnh phồn hoa, ngẩng cúi đất trời bát ngát xa. Ngàn thuở công danh là cái bóng, trăm năm vinh nhục kính soi hoa. Chén vàng chán ngán xuân sắp hết, đường huệ um tùm ác đã tà. Cảnh khói Ngũ hồ nghe nói đẹp. Cớ chi tơi nón móc câu sa?”. Nghiễm nhiên thành người siêu trần thoát tục, chẳng tranh giành gì với đời.
Khang Hy rất tán thưởng Dận Chân, từng biểu dương Dận Chân, nói lúc Doãn Nhưng bị giam cầm, không một ai kêu xin cho hắn, “chỉ riêng Tứ a ca rộng lượng hơn người, thấu hiểu đại nghĩa”, mấy lần tấu xin. “Làm việc thì hết lòng, đáng là vĩ nhân”. Dận Chân nghe xong, cả người run rẩy sợ hãi “không dám tuân theo”. Dận Chân thừa hiểu, không thể bảo vệ được thái tử, ngoài thái tử ra không ai làm được nên cứ làm thử xem sao. Nhưng việc làm phải giữ kín, để những người công kích thái tử khỏi khó chịu. Vì vậy, trước mặt Khang Hy, Dận Chân không hề thừa nhận mình đã bảo vệ thái tử. Nào ngờ, Dận Chân lại được thêm tiếng thơm là khiêm tốn.
Có nhiều sự việc chứng minh Dận Chân khiêm tốn và nhân ái. Trước Khang Hy, Dận Chân không chỉ nói đỡ cho thái tử, còn nói đỡ cho các anh em khác, “đã nhiều lần trần tấu cho các anh em khác”. Thậm chí Dận Chân còn đề xuất, cùng là anh em nhưng Doãn Đường và mấy người khác tước vị quá thấp (Bối tử), tình nguyện giáng thấp thế tước của mình phân phong cho các em, địa vị mọi người được ngang bằng. Đây có thể là làm trò, có thể hoàn toàn là vờ vĩnh, nhưng Khang Hy lại rất coi trọng. Khang Hy từng nói với quần thần: “Trẫm xem sử sách, xưa nay một khi thái tử bị phế sẽ không còn đường sống, sau đó chẳng ai thương tiếc”. Khang Hy hoàn toàn không muốn, sau khi mình qua đời, Doãn Nhưng bị anh em sỉ nhục tàn hại, không được yên thân. Đại a ca hận Doãn Nhưng đến xương tủy, Bát a ca Doãn Tự ở thế đối đầu với Doãn Nhưng. Hai người này làm hoàng đế, Doãn Nhưng sẽ chẳng được yên. Trong lúc mọi người đang xô cho tường đổ, Tứ a ca Dận Chân lại nói đỡ cho Doãn Nhưng, nên dưới tay người này, Doãn Nhưng sẽ không quá khổ (trên thực tế, sau này Ung Chính luôn đối xử tốt với Doãn Nhưng và gia đình hắn). Có nhiều khả năng Khang Hy sẽ chọn Dận Chân, giống như năm nào Lý Thế Dân lập Lý Trị, không lập Lý Thái.
Vì vậy, sau năm thứ năm mươi mốt (năm 1712), Khang Hy càng ngày càng tin tưởng Dận Chân, càng ngày càng giao thêm nhiều việc, thậm chí vào ngày đại lễ đăng cơ sáu mươi năm, Khang Hy còn cử Dận Chân thay mặt đến cúng tế ở Tam đại lăng. Ba lăng ở Thịnh Kinh là: Vĩnh lăng - lăng tổ tiên gia tộc Ái Tân Giác La, Phúc lăng - lăng Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Chiêu lăng - lăng Thái Tông Hoàng Thái Cực, đều là phần mộ tổ tiên vương thất Đại Thanh. Dận Chân thay cha tế tổ, rõ ràng địa vị của Dận Chân trong mắt phụ hoàng là không thấp. Trước lúc Khang Hy qua đời, Dận Chân còn được thay cha ra tế trời ở đàn Nam Giao, vào ngày Đông chí. Đó là lễ lớn của đất nước. Một hoàng tử được thay vua cha đi cúng tế thì gần như đã được ngầm chỉ định là người kế vị.
Do xem trọng và quý mến Dận Chân nên vào những năm cuối đời, Khang Hy thường đến hoa viên nhà Dận Chân để cùng mọi người tận hưởng niềm vui của trời đất. Trong số các hoàng tử, chỉ có Dận Chân và Doãn Chỉ được hưởng niềm vinh hạnh đặc biệt này. Có thể vì hai người đã không vướng bận nhiều trong cuộc đấu tranh đoạt đích! Sử liệu đã chỉ rõ, trong giai đoạn này, cũng chỉ có hai người quan tâm đến sức khỏe của Khang Hy, khuyên cầu hoàng thượng chữa bệnh, tiến cử thầy thuốc, xem xét đơn thuốc và cách dùng thuốc. Và cũng chỉ qua hai người này, Khang Hy còn cảm nhận được tình thâm cốt nhục.
Khang Hy ban tặng một khu vườn cho Dận Chân, đó là vườn Viên Minh nổi tiếng, tuy quy mô lúc đó không lớn lắm. Vườn Viên Minh đã bị liên quân tám nước đốt hủy hết đó, sau này Ung Chính và Càn Long đã cho sửa chữa và mở rộng trên cơ sở vườn cũ. Khang Hy đã ban tên cho khu vườn là vườn Viên Minh. Sau này, Ung Chính đã giải thích “Viên mà nhập thần, đó là người quân tử. Minh mà sáng chói, đó là trí tuệ con người”. Rõ ràng là ý nghĩa sâu xa. Mùa xuân năm thứ sáu mươi mốt (năm 1722), Khang Hy đến đài Mẫu Đơn vườn Viên Minh xem hoa, đã nhìn thấy Hoằng Lịch (Càn Long sau này) con thứ tư của Dận Chân, Khang Hy vui mừng, cho đưa Hoằng Lịch về cung, tự mình nuôi dạy. Mọi người coi việc này là một trong những nguyên nhân Khang Hy truyền ngôi cho Dận Chân: “Để Hoằng Lịch là hoàng đế, thì trước hết phải để cha hắn làm hoàng đế!”(9).
(9) Trước đây đã có tiền lệ, lúc Minh Thành Tổ lập tự, còn do dự giữa Nhân Tông Chu Cao Sí hay Hán vương Chu Cao Húc, các triều thần nói: “Xin hãy xem cháu của hoàng thượng”, nên Thành Tổ quyết luôn (Tác giả).
Kỳ thực, Khang Hy luôn có cảm tình với Dận Chân. Sau khi phế thái tử lần thứ nhất, vào ngày mười sáu tháng mười một, Khang Hy từng nói với quần thần, Khang Hy so sánh mấy vị hoàng tử, chưa bình phẩm về Đại a ca Doãn Chi và Tam a ca Doãn Chỉ. Khang Hy nói về Ngũ a ca Doãn Kì “Tâm tính rất thiện, thuần hậu với người khác”; về Thất a ca Doãn Hựu, Khang Hy nói: “Tâm tính tốt, cử chỉ thân thiện”. Khang Hy nói về Bát a ca Doãn Tự “chư thần tấu nói là hiền”. Doãn Kì, Doãn Hựu, Khang Hy nói tốt, Doãn Tự được các quần thần nói tốt, thân sơ khác biệt đã quá rõ ràng. Khang Hy đã nói rất nhiều về Dận Chân. Khang Hy nói: “Riêng Tứ a ca được trẫm nuôi dưỡng, lúc nhỏ thường vui buồn thất thường, đến lúc có thể hiểu được ý trẫm, đã biết thương trẫm, ân cần khẩn thiết, có thể coi là rất hiếu đễ”. Khang Hy quý mến Dận Chân hơn các hoàng tử khác.
Mấy lời nói của Khang Hy rất đáng tin. Dận Chân được Khang Hy nuôi dưỡng, đương nhiên nhiên là thân với hoàng thượng hơn các hoàng tử khác. Sau khi thái tử bị phế, Dận Chân liền trở thành “mũi nhọn thứ hai”. Điều đó chỉ càng thêm nguy hiểm. Doãn Chi, Doãn Nhưng thất bại là một ví dụ cụ thể. Dận Chân thông minh ở chỗ, không coi mình là “mũi nhọn thứ hai”. Người khác thì đua tranh giành giật, ngược lại Dận Chân bỏ tránh thật xa, và chỉ chú tâm vào hai chữ “hiếu đễ”, tự nhiên là được lòng vua. Thậm chí Dận Chân còn sửa đổi luôn cả tật “vui buồn thất thường” (không sửa mà giả vờ), lại càng được Khang Hy tán thưởng. Chính nhờ vào sự cố gắng khắc chế đó, Dận Chân đã khác với các hoàng tử trong cuộc phân tranh, biểu hiện một thái độ khác với mọi người.
Dận Chân không thực nhiệt tình với việc mưu cầu ngôi vị. Điều đó làm cho Khang Hy thêm phần thiện cảm. Đương nhiên, không phải Khang Hy không biết Dận Chân vờ ra như vậy. Nhưng Khang Hy là người sáng suốt. Khang Hy thừa hiểu, làm gì có chuyện “không tranh giành” giữa các hoàng tử tài cán và năng lực. Và đã không có sự siêu thoát thực sự thì có thể vờ được là tốt. Có thể vờ là trong lòng còn có vua cha, không đến đoạn mưu phản bức bách cung đình, và Khang Hy cũng chỉ yêu cầu có vậy, Khang Hy đã tận mắt nhìn thấy, vì tranh đoạt ngôi vị mà các hoàng tử đã xắn tay áo ra trận, giết đỏ cả mắt, sướt cả da mặt, tình nghĩa anh em, công ơn cha mẹ đều đã mất sạch. Lúc đó, có một vài người biết vờ vĩnh, có thể vẫn giữ được lớp sa mỏng thấm đượm tình người. Có được người tự nguyện vờ vĩnh như vậy để tiếp nối, hẳn sau này bản thân sẽ không phải chết đường chết chợ. Đương nhiên, người đó cũng sẽ không bỏ xác mình không chôn, để đi đánh nhau với anh em. Vì vậy, Khang Hy biết Dận Chân đang vờ vĩnh, nhưng không nói toạc ra, mà cùng Dận Chân hát nốt vở kịch. Khang Hy tự biết, chẳng bao lâu nữa sẽ phải rời bỏ sân khấu, có thể hát hết vở kịch, thì coi như công đức đã viên mãn.
Thứ nữa, một người biết vờ là người luôn có tính toán trong lòng và một người làm vua, không thể không có tính toán. Là hoàng đế, đâu chỉ biết cả đời luôn nói thật, không dối trá, chỉ biết bộc lộ thực tình? Bí quyết của hoàng đế là luôn phải thật thật giả giả, thế mới là “thiên uy khó lường”, tài năng hơn người. Cho nên, tuy biết Dận Chân vờ thoát tục, vờ tự nhiên, Khang Hy chỉ biết tán thưởng, không hề phản cảm.
Nhưng theo ý của nhiều người, Khang Hy đã chọn Thập tứ a ca Doãn Đề(10). Tháng ba năm thứ năm mươi bảy (năm 1718), Doãn Đề được bổ nhiệm là “Đại tướng quân vương”. Tháng mười hai đem quân ra đóng ở Tây Ninh, tranh đấu với lũ giặc ở miền tây bắc. Tập đoàn Doãn Tự rất coi trọng lần bổ nhiệm này. Theo họ, bổ nhiệm hoàng tử chức Đại tướng quân nhằm để khảo nghiệm là cho cơ hội. Nếu khảo nghiệm tốt lại được lập chiến công, và đương nhiên sẽ là người kế thừa hoàng vị.
(10) Vào những năm cuối đời, Khang Hy có phần quý mến Doãn Chỉ hơn. Doãn Chỉ có tài được Khang Hy tín nhiệm. Khang Hy luôn để Doãn Chỉ và Dận Chân tiến hành nhiều việc quan trọng. Sau sự việc của Doãn Nhưng, Doãn Chi, Doãn Chỉ tuổi cao nhất nên cũng muốn làm thái tử. Năm Ung Chính thứ tám (năm 1730), Doãn Chỉ có chuyện bị lột tước giam cầm, Ung Chính liền muốn thanh toán nợ với Doãn Chỉ, nói Doãn Chỉ “tự coi mình là người chờ để kế vị” sau khi thái tử bị phế. Đúng là Doãn Chỉ có ý đó, từng phái thân tín là Mạnh Quang Tổ đến các nơi liên hệ với đốc phủ. Nhưng Khang Hy chỉ xử trảm Mạnh Quang Tổ lại không truy hỏi Doãn Chỉ là người chủ mưu. Khang Hy còn ngầm muốn bọn thuộc thuộc hạ phải trả nợ thay cho Doãn Chỉ. Rõ ràng, Khang Hy đã rất quý tài năng của Doãn Chỉ. Khang Hy để Doãn Chỉ chủ trì Mông Dương Trai trong vườn Sướng Xuân, nghiên cứu luật, toán học, lịch pháp, thiên văn, chức vụ ngang như viện trưởng viện khoa học hoàng gia. Một nhân vật có học làm hoàng đế chưa hẳn đã hợp (Tác giả).
Thậm chí Doãn Đường đã nói với Doãn Đề: “Sớm lập công, để được làm thái tử”. Theo suy nghĩ thông thường thì chức Đại tướng quân vương là sự quá độ tiến tới ngôi vị thái tử. Vì vậy, nghi thức tiễn Doãn Đề cầm quân ra trận được tiến hành hết sức long trọng: Khang Hy tự thân tế lễ, thân trao ấn sắc, chư vương cùng các quan nhị phẩm trở lên tề tựu tiễn đưa tại quân doanh cửa Đức Thắng môn. Vì vậy, sau lúc Doãn Nhưng bị phế, Doãn Chi bị tù, Doãn Tự bị chỉ trích, Doãn Đề trở thành người đoạt đích có tiếng hô hào cao nhất.
Thực ra đây chỉ là màn khói Khang Hy cố ý tạo ra, mục đích là phân tán sự chú ý của mọi người, để Dận Chân khỏi bị công kích từ bốn phía và mình cũng được yên. Vì vậy, Khang Hy phong cho Doãn Đề - kẻ hai mặt và hàm hồ, chức vị: Đại tướng quân vương. Chức vị này nghe thì vô cùng thần kỳ thực tế thì chẳng là gì cả: Tướng quân không ra tướng quân, vương không ra vương. Nói là tướng quân nhưng lại là vương gia, nói là vương gia vậy lại không có phong hiệu. Kỳ thực, chỉ là “vương giả”. Mọi người thích nghĩ gì thì nghĩ, thích nói gì thì nói. Thủ pháp hàm hồ không rõ ràng luôn là cốt lõi của quyền thuật truyền thống Trung Quốc.
Khang Hy suy nghĩ sâu xa. Thực tình, Khang Hy rất quý Doãn Đề và cũng thực tình không yên tâm về Doãn Đề. Vì Doãn Đề đã bước lên “thuyền giặc” của Doãn Tự. Ngày hai mươi chín tháng chín năm thứ bốn mươi bảy (năm 1708), Khang Hy trách mắng Doãn Tự ham hố hư danh, mua chuộc lòng người, “mềm yếu thành gian, mưu đồ chí lớn”, hạ lệnh bắt giam, Doãn Đề đã xuất hiện biện hộ cho Doãn Tự, lời lẽ cử chỉ hết sức xúc động, kết quả bị đánh đòn. Khang Hy bực đến đoạn đã rút kiếm và suýt nữa đã chém đầu Doãn Đề. Đối với Doãn Đề, có thể chỉ là nghĩa khí anh em (Khang Hy nói là nghĩa khí Lương Sơn Bạc), nhưng trong mắt Khang Hy, đây là tín hiệu nguy hiểm: Doãn Đề bảo vệ Bát ca của hắn đến như vậy, nếu Doãn Tự muốn làm chính biến, người đem quân đến bức cung đình hẳn là Doãn Đề. Vì vậy Khang Hy luôn muốn tách Doãn Đề ra khỏi Doãn Tự. Lúc này là cơ hội tốt, không thể bỏ qua. Việc quân ở tây bắc rất quan trọng và khẩn trương, cần có hoàng tử trẻ tuổi, năng lực ra trấn thủ. Doãn Đề có tư cách và năng lực, phái đi là rất hợp. Doãn Đề là Bối tử, một bước lên tới Đại tướng quân vương, thực hả lòng, lại có khả năng giành được chiến công nên vui vẻ ra đi. Quân thần cho rằng Khang Hy đã ngầm chọn Doãn Đề, phái cử xuất chinh là để tích lũy kinh nghiệm quân sự và vốn liếng chính trị, nên cũng không ầm ĩ về chuyện lập tự, triều đình được yên ổn, cũng không phải suy nghĩ về lũ tiểu nhân muốn dựa dẫm Doãn Đề. Doãn Đề ở tận biên cương, dù muốn bợ đỡ cũng chẳng được. Cách sắp xếp của Khang Hy quả là nước cờ hay.
Đây cũng là cách hạn chế các hoàng tử, Doãn Đề có muốn theo đuổi ngôi vị cũng chẳng làm được chuyện gì. Dận Chân có đối thủ, cũng không thể cong đuôi; bọn Doãn Tự có hy vọng, sẽ không mạo hiểm. Và như vậy, Khang Hy mới được yên vui trong những năm cuối đời. Đương nhiên, Khang Hy cũng để cho mình một đường rút: Nếu phát hiện thấy Dận Chân không được như mong muốn, chỉ cần triệu Doãn Đề về là xong. Doãn Đề là “Đại tướng quân vương” đảm nhiệm ngôi vị cũng chẳng có gì là đường đột. Nếu Dận Chân có thể kế vị, cũng là dễ nói chuyện với bên phía Doãn Đề, vì Doãn Đề chỉ là “vương giả”, vậy có gì phải oán trách. Hơn nữa, một người mưu sâu chí xa như Khang Hy, sớm đã sắp xếp xong về mặt nhân sự. Niên Canh Nghiêu nô tài của Dận Chân nắm giữ lương thảo của đại quân và khống chế đường về của Doãn Đề. Có Niên Canh Nghiêu trông giữ ở đó, Doãn Đề không thể bức cung đình, không thể mưu phản.
Khang Hy đúng là Khang Hy, không ai đùa được với Khang Hy, kể cả các hoàng tử.