Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 22 - phần 1
II.
Anh em như vậy
Với cách sắp đặt tinh tế của Khang Hy, Dận
Chân là vị hoàng đế thứ năm của đế quốc Đại Thanh, là Ung Chính. Nhưng số phận
mang tính bi kịch của Dận Chân là ở chủ định này: Không có cách sắp đặt tinh tế
của Khang Hy, Dận Chân không thể là hoàng đế, và cũng chính vì sách sắp đặt
tinh tế đó, Dận Chân hết sức không thoải mái.
Ngay từ đầu, mọi người hoài nghi, cho rằng
Dận Chân lên ngôi là bất chính. Vì quyết định của Khang Hy không được tự Khang
Hy tuyên bố, mà do Long Khoa Đa tuyên bố. Theo hồi ức của Ung Chính, lúc Khang
Hy bệnh nặng, vì Dận Chân thay mặt cúng tế ở đàn Nam Giao, nên đang trai giới.
Sau khi phụng chiếu về vườn Sướng Xuân, chỉ nghe được Khang Hy nói về bệnh
tình, không thấy nói về việc kế vị. Chỉ sau Khang Hy “rồng ngự trên ngai” mới
được nghe Long Khoa Đa thuật lại “Hoàng khảo di chiếu”. Vì Ung Chính không được
chuẩn bị về mặt tư tưởng, nên “nghe xong là kinh hoàng, ngất xỉu luôn”. Thực là
kỳ lạ. Khang Hy “trong lòng đã có dự định” truyền ngôi cho Ung Chính, vì sao
không nói thẳng với con, việc gì phải nhờ miệng Long Khoa Đa? Nếu nói là để giữ
bí mật thì ngay lúc hấp hối còn bí với mật gì nữa? Huống hồ Long Khoa Đa đã
biết thì còn gì là bí mật? Long Khoa Đa là loại người nào, lấy tư cách gì để
thay thiên tử tuyên chiếu? Chỉ một mình Long Khoa Đa là đại thần tuyên chiếu,
ngộ nhỡ nếu đó là chiếu giả thì sao? Luôn có vấn đề. Đương nhiên, Ung Chính còn
nhớ, trước lúc Ung Chính vào vườn Sướng Xuân, Khang Hy đã gặp Doãn Chỉ, Doãn
Hựu, Doãn Tự, Doãn Đường, Doãn Nga, Doãn Tường và Long Khoa Đa. Khi Long Khoa
Đa tuyên bố: “Tứ a ca nhân phẩm cao quý, rất hiểu ý trẫm, có thể kế thừa đại
thống, thay trẫm lên ngôi hoàng đế”. Cũng tức là, biết di mệnh không chỉ có một
mình Long Khoa Đa, không có khả năng Long Khoa Đa sửa đổi chiếu. Nhưng những
người khác đều biết ai là hoàng đế, duy có người trong cuộc là không biết, ở
đây có gì đó hơi kỳ lạ. Một điều kỳ lạ nữa là, trong quá trình đó chỉ được nghe
Ung Chính nói, không một ai trong số bọn Doãn Chỉ đứng ra làm chứng.
Chẳng trách, trong lòng mọi người có sự
nghi ngờ và nghi ngờ dễ biến thành quỷ ám. Ung Chính tự biết, ngôi vị hoàng đế
này có phần “không được rõ ràng”; chẳng phải lễ pháp Hán gia quy định: Lập đích
lấy trưởng và truyền thống Đại Thanh là lập vua lấy hiền. Lập trưởng phải là
Doãn Chỉ, lập hiền phải là Doãn Tự. Không có điều nào hợp với Dận Chân. Chẳng
trách, sau khi nghe Long Khoa Đa tuyên chiếu, Dận Chân đã “nghe xong thấy kinh
hoàng, ngất xỉu luôn”; chẳng trách Doãn Lễ nghe xong cũng “thần sắc căng thẳng
như điên dại”. Vì mọi người đều không được chuẩn bị về mặt tư tưởng, còn Ung Chính
cũng vờ như chưa được chuẩn bị về tư tưởng.
Đương nhiên, Ung Chính có chuẩn bị. Nhưng
trước hết, Ung Chính luôn vờ như không lưu tâm đến ngôi vị lớn (cũng chính từ
đó để có tín nhiệm, mưu cầu ngôi vị). Lúc này chỉ còn cách là vờ đến cùng.
Nhưng rồi lại dẫn tới điều phiền hà khác: Điều mà mọi người không thể ngờ, bản
thân đương sự cũng không thể ngờ, vậy điều gì khiến hoàng đế Khang Hy đã nghĩ
tới? Chỉ có một kết luận: Khang Hy cũng chưa nghĩ tới, Long Khoa Đa đã làm
chiếu giả. Long Khoa Đa không sao rửa sạch vết nhơ này. Đã không thể nói di
chiếu là giả, cũng không có cách gì để chứng minh là thật. Cho nên Long Khoa Đa
đã nói: “Ngày Bạch Đế Thành nhận mệnh cũng là ngày chết đã đến”. Long Khoa Đa
biết rất rõ, mình sẽ bị phiền hà.
Ung Chính càng bị phiền hà. Ung Chính không
chỉ phải chứng minh, người tiên đế chọn là mình, mà còn phải chứng minh sự lựa
chọn của tiên đế là chính xác. Biện pháp duy nhất là gắng sức làm việc và trị
lý tốt đất nước. Có thể đó cũng là điều Khang Hy kỳ vọng ở Ung Chính. Khang Hy
là hoàng đế sáu mươi mốt năm, ngài biết rõ, làm hoàng đế không phải dễ. Khang
Hy càng không muốn giang sơn do mình tạo ra lại mất trong tay một kẻ kế vị ham
chơi và tắc trách. Điều đó làm cho Khang Hy cảm thấy có được giang sơn không
dễ, nên chưa bao giờ dám thờ ơ, buông lỏng. Cách suy nghĩ của Khang Hy là có
lý. Nhưng cũng có việc mà Khang Hy chưa nghĩ tới, cách sắp đặt như vậy, sẽ gây
thêm phiền hà cho người kế vị: Mọi người không phục. Rất nhiều người nghĩ mãi
mà không hiểu: Dựa vào cái gì để Lão Tứ làm hoàng đế? Vì hắn dốc sức làm việc
sao?
Thập tứ a ca Doãn Đề là người không phục
nhất.
Sau khi là Đại tướng quân vương, suy nghĩ
của Doãn Đề đã khác trước. Quan hệ giữa Doãn Đề và tập đoàn Doãn Tự cũng mất đi
nhiều: Trước kia Doãn Đề thường ủng hộ Doãn Tự, lúc này Doãn Tự lại ủng hộ Doãn
Đề. Doãn Đường là can tướng của tập đoàn Doãn Tự đã công khai tạo dựng dư luận,
nói Doãn Đề “tài đức song toàn, trong anh em tôi không ai bằng, sau này tất đại
quý”. Miệng nói mình không bằng, là muốn đề cao Doãn Đề, hạ thấp Dận Chân. Doãn
Đề cũng thường xuyên liên lạc với Doãn Đường, còn nói: “Phụ hoàng tuổi cao, lúc
thế này lúc thế nọ, nên cho ta biết tin thường xuyên”. Bề ngoài thì ra vẻ quan
tâm đến sức khỏe phụ hoàng, nhưng thực chất là sợ phụ hoàng bệnh nặng, không kịp
về kinh thành đoạt ngôi vị. Doãn Đề một mặt chỉ huy quân chiến đấu, mong có
được chiến công, làm vốn về mặt chính trị; mặt khác chiêu hiền nạp sĩ, chuẩn bị
về mặt dư luận, chuẩn bị về mặt tổ chức giúp việc đăng cơ sau này. Lúc bấy giờ,
xã hội rộ lên chuyện “Thập tứ gia lễ hiền đãi sĩ”, còn có người tên Trương Khải
nói Doãn Đề: “Nguyên Vũ mà nắm quyền, quý không kể hết”. Tóm lại, câu nói Thập
tứ gia kế thừa đại thống đã lan truyền khắp thiên hạ.
Sau này, cách nói trong dân gian càng
truyền càng khác với nguyên bản. Một cách nói là: Lúc Khang Hy bị bệnh “giáng
chỉ triệu Doãn Đề về kinh, Long Khoa Đa đem giấu đi, ngày tiên đế lên trời,
Doãn Đề không đến, Long Khoa Đa truyền chỉ lập đương kim (Ung Chính)”. Lời nói
này chỉ có thể lừa được dân chợ búa. Long Khoa Đa là loại người nào? Long Khoa
Đa không phải là Tào Tháo, một tay che trời, có thể “ép thần tử lệnh chư hầu”.
Khang Hy muốn triệu ai, Long Khoa Đa làm sao mà ngăn nổi? Khang Hy muốn truyền
ngôi cho ai, Long Khoa Đa làm sao mà thay được? Giao tiếp đế vị lại không phải
chuyện đùa, lý đâu lại có chuyện người dự định không có mặt, tạm thời có thể
thay bằng “nhân viên dự bị”? Cách nói đó không chỉ để hạ thấp Ung Chính mà còn
là xem thường Khang Hy.
Một cách nói nữa, cũng chỉ có thể để lừa
dân chợ búa, nói nguyên bản của di chiếu là “Truyền vị Thập tứ tử Dận Trinh”
(Dận Trinh là một tên khác của Doãn Đề), đã bị Ung Chính và Long Khoa Đa sửa
đổi thành “Truyền vị cho tứ tử Dận Chân”. Đúng là không khéo thì không thành
sách. Một là “Thập tứ tử”, một là “Tứ tử”; một là “Dận Trinh”, một là “Dận
Chân”. Trinh đổi thành Chân, thập đổi thành vu (cho) còn khả dĩ. Rất tiếc,
người tạo ra sách sửa đổi này lại không hiểu hết quy chế của vương triều Đại
Thanh. Theo quy chế đó, đàng trước phải có chữ hoàng. Dận Chân không thể viết
thành “Tứ tử”, phải viết là “hoàng Tứ tử”, Dận Trinh cũng không thể viết là
“Thập tứ tử”, mà phải viết là “hoàng Thập tứ tử”. Và cứ vậy mà sửa thì chiếu
thư sẽ thành “truyền vị hoàng cho Tứ tử”, không ai hiểu được… Hơn nữa, đây là
triều Thanh, không phải triều Minh. Chiếu thư truyền ngôi ngoài văn bản Hán văn
còn có văn bản Mãn văn. Ung Chính cũng thế, Long Khoa Đa cũng thế, có thể sửa
đổi văn bản bằng chữ Hán, không thể thay đổi văn bản bằng chữ Mãn.
Rõ ràng, cách dựng chuyện Ung Chính cướp
ngôi của Doãn Đề là không có chứng cứ. Nhưng nhiều người lại cho rằng ngôi vị
hoàng đế phải được truyền cho Doãn Đề. Và cứ như vậy thì khó mà tránh khỏi xung
đột giữa giữa Doãn Đề và Ung Chính.
Doãn Đề là người rất có chí khí. Ung Chính
nói Doãn Đề “khí ngạo tâm cao”, đúng như vậy. Năm đó, Khang Hy chê trách Doãn
Tự, Doãn Đề đã xuất hiện đòi sự công bằng, lúc này thì bảo tọa của mình bị lão
ca cướp mất, tự nhiên cả người đã hừng hực, nóng ran lên.
Thế là Doãn Đề đã hết sức vô lễ với Ung
Chính. Sau khi Khang Hy băng hà, Ung Chính hạ lệnh Doãn Đề về kinh, khóc trước
linh cữu. Ung Chính có ý đoạt lại binh quyền, tránh việc Doãn Đề có thể dấy
binh làm loạn ở tây bắc. Nhưng việc đứa con có hiếu bận rộn vì tang lễ thì
không ai phản đối. Việc đầu tiên của Doãn Đề vào kinh là đến bái yết Đại Hành
hoàng đế (hoàng đế vừa qua đời, chưa có thụy hiệu vẫn gọi là Đại Hành hoàng đế)
đến Tử cung (đặt linh cữu của hoàng đế), Ung Chính cũng có mặt ở đó. Nhưng Doãn
Đề chỉ khóc lóc trước linh cữu mà không bái lạy vua mới. Ung Chính tỏ ra rộng
lượng, vì không muốn căng thẳng với người anh em vừa về ngay trong tang lễ, sợ
gây ảnh hưởng xấu. Ung Chính liền đến gặp nhưng Doãn Đề vẫn không có phản ứng
gì. Một thị vệ người Mông Cổ tên là Lạp Tích ở cạnh, bước ra dàn hòa, hắn kéo
Doãn Đề đến hành lễ trước hoàng đế. Doãn Đề nổi giận, trách mắng Lạp Tích, còn
làm khó cho Ung Chính. Doãn Đề nói, đệ là em của hoàng thượng, còn hắn chỉ là
tên nô tài hạ tiện. Nô tài thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vương gia là thể
thống gì đây? Nếu đệ sai lầm, xin hoàng thượng xử trị. Nếu đệ không sai, mong
hoàng thượng giết Lạp Tích để giữ quốc thể.
Như vậy là muốn tìm cớ để gây sự, đương
nhiên Ung Chính không thể nhẫn nhịn. Nhẫn nhịn Doãn Đề sẽ mất hết thể diện, thể
thống đất nước cũng sẽ mất hết. Từ thời Tây Chu đến Đại Thanh, thể thống Trung
Quốc luôn là lễ trị, không gì vượt khỏi chữ “Lễ”. Dù là thiên tử ngự ở cửu
trùng cũng không được phạm lễ. Thất lễ tức là thất đức. Thất đức, vua sẽ mất
nước, thần sẽ mất tước. Vì vậy, không hề nể nang, Ung Chính xóa bỏ tước vương của
Doãn Đề. Vương của Doãn Đề vốn là “vương giả” nên xóa đi cũng phải. Trước khi
được phong vương, Doãn Đề chỉ là Bối tử. Tước vương bị bỏ, Doãn Đề chỉ còn là Bối
tử, tước vị đứng hàng thứ tư(1). Vào năm thứ tư (1726), Ung Chính lại phải cách
bỏ tước vị đó. Mãi sau khi Càn Long lên ngôi, Doãn Đề mới được phóng thích. Năm
Càn Long thứ hai (năm 1737), Doãn Đề được phong là Phụ Quốc công; năm thứ mười
hai (năm 1747), tấn tước Bối lặc; năm thứ mười ba (năm 1748), phong là Tuân
Quận vương. Vị đại tướng quân vương hiển hách một thời giờ cũng chỉ như một đóa
hoa quỳnh.
(1)Sau
khi Nhân Thọ hoàng thái hậu qua đời, để an ủi linh hồn hoàng tỉ ở trên trời,
Ung Chính từng phong Doãn Đề là Quận vương, nhưng sau đó lại giáng xuống Bối tử
(Tác giả).
Sau khi bị mất tước vương, Doãn Đề còn được
phái đến Tuân Hóa giữ lăng Khang Hy. Thực tế là bị giam lỏng ở đây mười ba năm.
Đây cũng chỉ là biện pháp khi không có biện pháp nào. Doãn Đề là anh em cùng mẹ
với Ung Chính, cũng là địch thủ sống chết với Ung Chính, tha không được, dùng không
xong. Giết Doãn Đề dư luận không cho phép và sẽ ăn nói với thái hậu ra sao; nếu
dùng, hắn sẽ làm loạn, không chịu hợp tác. Để hắn nhàn nhã ở kinh thành cũng
không xong. Tiếng hô Doãn Đề nối ngôi còn rất mạnh, tất sẽ có người muốn dựa
vào hắn, hiến kế cho hắn, xuôi ngược vì hắn, giúp hắn xuất đầu lộ diện, không
khéo lại hình thành “đảng đối lập”. Nên biện pháp tốt nhất là, phái hắn ra Cảnh
lăng (lăng Khang Hy), cách biệt với đời, hết đường quậy phá.
Doãn Đề bị đưa ra Tuân Hóa, Doãn Đường bị
đưa lên tây bắc. Ung Chính luôn xem thường Doãn Đường, nói là “văn tài võ lược
đều không có”. Khang Hy gần như cũng không thích Doãn Đường, tận năm hai mươi
sáu tuổi mới được phong là Bối tử, còn Doãn Kỳ - người anh cùng mẹ, năm mười
bảy tuổi đã được phong là Bối lặc. Lúc Doãn Đường được phong là Bối tử, Doãn Kỳ
lại được phong là Thân vương, cao hơn Doãn Đường hai bậc. Tuy cùng một mẹ sinh
ra, nhưng tính cách hai người khác hẳn nhau. Doãn Kỳ đôn hậu lương thiện, được
Khang Hy yêu quý. Doãn Đường hoàn toàn không yên phận, là can tướng trong tập
đoàn Doãn Tự, luôn quay ngang quay ngửa, sinh chuyện thị phi, đương nhiên,
Khang Hy sẽ không tha. Sinh mẫu Doãn Đường là Nghi phi Quách Lạc La thị (tức là
một vai diễn do Đặng Tiệp đóng, trong bộ phim truyền hình dài tập Khang Hy vi
hành chiếu trên vô tuyến), người này cũng cậy được sủng ái mà kiêu ngạo. Lúc
Khang Hy qua đời, Nghi phi đang ngồi trên sập mềm, đã chạy thẳng đến Linh
đường, qua mặt Đức phi (sinh mẫu Ung Chính), Ung Chính đã thấy không vui. Về
sau lại tỏ ra không thức thời, ra vẻ là mẫu phi trước mặt Ung Chính - vị hoàng
đế vừa nối ngôi, Ung Chính lại càng không vui. Từ đó có thể hiểu, với địa vị
tôn quý, có uy vọng nhất định trong tôn thất, nếu Nghi phi liên kết với con,
mưu đồ làm loạn sẽ rất khó xử.
Thế là Ung Chính phải quản cả hai việc, tả
hữu cùng giương cung, nhắm vào cả hai mẹ con. Vào ngày mùng ba tháng mười hai
(Khang Hy qua đời được hai mươi hai ngày), Ung Chính tìm ra mấy sai sót để trị
tội ba tên thái giám bên cạnh Nghi phi: Trương Khởi Dụng đày ra vùng đất Lỗ làm
ruộng, Lý Tận Trung đày ra Vân Nam làm khổ sai, Hà Ngọc Trụ ra vùng biên cằn
cỗi, sung quân. Như vậy, là đánh chó còn ngó chủ nhà. Cùng tháng, Doãn Đường
được lệnh ra đại doanh tây bắc. Doãn Đường xin được lưu lại trong vòng một trăm
ngày khi phụ hoàng băng hà, nhưng Ung Chính không chuẩn y, buộc phải lên đường
ngay. Sau khi đến tây bắc, Doãn Đường được sắp xếp ở Đại Thông (phía đông nam
huyện Đại Thông, Thanh Hải). Một ngôi thành đơn độc, binh sĩ không nhiều, nói
là để bảo vệ, nhưng thực tế là giám sát. Cứ thế cho đến tháng hai, năm thứ mười
hai (năm 1724), Doãn Đường bị người Tông nhân phủ tham tấu, nói là “chống lại
quân pháp, bừa bãi nơi biên cương”, đáng phải cách bỏ tước vị Bối tử. Thực chất
là buộc Doãn Đường phải sung quân.
Đối với Doãn Nga, Ung Chính cũng không nể
tình. Năm thứ nhất (năm 1723), lãnh tụ tôn giáo Triết Bố Tôn Đan Ba Hồ Thổ Khắc
Đồ của Ca Nhĩ Ca, Mông Cổ đến Bắc Kinh bái yết linh đường Khang Hy, không lâu
sau bị bệnh chết. Triết Bố Tôn Đan Ba là hoàng giáo (Phật giáo truyền vào Tạng),
là một trong bốn vị Phật sống, cùng với ba vị Phật sống khác chia nhau nắm giữ
việc giáo hội ở một khu. Đạt Lai nắm Tiền Tạng, Ban Thiền nắm Hậu Tạng, Triết
Bộ Tôn Đan Ba nắm vùng Mạc Bắc (Ngoại Mông), Chương Gia nắm Mạc Nam (Nội Mông),
tất cả thuộc triều đình nhà Thanh. Một vị lãnh tụ dân tộc chính giáo hợp nhất
bị bệnh và mất ở kinh thành, đương nhiên phải cử vương gia đưa tiễn, Ung Chính
liền cử Doãn Nga. Doãn Nga không đi, nói là không có tiền mua ngựa. Về sau,
Doãn Nga đành phải xuất phát, nhưng đi đến Trương Gia Khẩu thì dừng lại. Trước
tình hình đó, Ung Chính liền giao việc khó khăn này cho Tổng lý vương đại thần
Doãn Tự, lệnh cho để nghị xử. Doãn Tự kiến nghị lệnh gấp để Doãn Nga tiếp tục
lên đường, đồng thời trách phạt trưởng sử Ngạch Nhĩ Kim không chịu khuyên can.
Ung Chính lại nói, Doãn Nga không muốn đi, việc gì phải bắt hắn đi? Hắn không
chịu nghe lời Ngạch Nhĩ Kim, trách phạt có tác dụng gì? Doãn Tự hết cách, chỉ
còn biết mạnh dạn tấu xin cách tước vương của Doãn Nga. Đương nhiên, lần này
Ung Chính đã chịu “phê chuẩn”. Doãn Nga bị cách bỏ thế tước Quận vương, điều về
giam giữ tại kinh thành, còn bị kê biên gia sản, số kim ngân là hơn sáu mươi
vạn lạng, chưa kể đồ trang trí bằng vàng bạc, đất đai và nhà cửa. Có điều, tuy
mắc tội hơi sớm, nhưng cũng vì họa mà có phúc. Doãn Nga biến thành đồ “chó
chết”, từ đó Ung Chính cũng không hạ độc thủ chỉnh trị tiếp. Vì vậy, Doãn Nga
được sống đến khi Ung Chính qua đời, còn được Càn Long thả ra, phong là Phụ
Quốc công, đến năm Càn Long thứ sáu (năm 1741) mới mất.
Lúc này, Doãn Đề bị giam lỏng ở Tuân Hóa,
Doãn Đường bị đưa ra tây bắc, Doãn Nga bị giam cầm ở kinh thành, các phần tử
cốt cán của “Bát gia đảng” hết bề động đậy, Ung Chính đã có thể ra tay với Doãn
Tự.
Sau hồi suy nghĩ sách hoạch thật chu đáo, Ung
Chính mới tấn công Doãn Tự.
Khang Hy vừa qua đời, Ung Chính đã nhiệm
mệnh Doãn Tự làm tổng lý sự vụ đại thần, cùng Doãn Tường, Mã Tề, Long Khoa Đa
trông nom nội các, như vậy là vượt cấp tấn phong Doãn Tự từ Bối lặc thành Thân
vương, kiêm quản lý Phiên viện và bộ Công. Hoằng Vượng - con Doãn Tự được phong
là Bối lặc, địa vị cao nhất so với các đứa cháu khác, chỉ thấp hơn con của thái
tử bị phế Doãn Nhưng - Hoằng Tích (tước vị Quận vương). Người cậu của Doãn Tự
là Cát Đạt Hồn cũng được tước bỏ dòng dõi hạ cấp, nâng thành Kỳ dân, được thế
tập chức tá lĩnh. Bè cánh của Doãn Tự như Tô Nỗ, Phật Cách, A Nhĩ A Tùng (con
của A Linh A), Mãn Đô Hộ, Đồng Cát Đồ… đều được gia quan tiến tước, bè cánh kéo
nhau làm quan, có thể nói, trong lúc Doãn Đề, Doãn Đường, Doãn Nga đang bị công
kích thì Doãn Tự cùng vây cánh hoạn lộ thênh thang, lên tận trời xanh.
Vì thế, Ung Chính luôn phải giải thích
“lòng dạ Khang Thân vương (Doãn Tự) không thể dùng, còn những người khác luôn
có uẩn khúc, không thể không dùng”. Uẩn khúc là gì? Nói trắng ra, Doãn Tự là
lãnh tụ “đảng phản đối”, nhưng cũng là người có tài. Đối với loại người này chỉ
có hai cách, hoặc là đánh hoặc là kéo. Nếu đánh, phải đánh cho tới nơi tới
chốn, đánh cho không còn một chiếc răng nào, đánh cho mãi mãi không ngóc đầu lên
được. Ngày đầu lên ngôi, Ung Chính chưa có đầy đủ những điều kiện này. Kéo cũng
có cái hay của kéo. Và nếu kéo được, lực lượng của mình sẽ thêm mạnh. Nếu không
kéo được, thì ít nhất cũng được ổn định mấy hôm, thế cũng tốt.
Với những người hay chơi trò chính trị thì
thì không thể không hiểu chính sách này. Đương nhiên Doãn Tự cũng hiểu và hiểu
rất sâu. Doãn Tự hiểu, đây là biện pháp cho trước để được sau: Muốn ném thì
phải nâng, nâng thật cao rồi mới ném thật mạnh,
gọi là trèo cao ngã đau. Doãn Tự được phong vương, bên nhà ngoại đến
chúc mừng, phúc tấn (vợ cả) của Doãn Tự Ô Nhã Thị nói, có gì đáng vui đâu mà
chúc mừng, biết đâu lại sẽ có một ngày phải mất đầu! Về phần mình, Doãn Tự cũng
từng nói với các triều thần: “Hôm nay hoàng thượng ra ân, biết đâu ngày mai lại
có ý giết?”. Thậm chí A Nhĩ A Tùng không dám nhận chức thượng thư bộ Hình. Vì
bộ Hình là chốn thị phi, A Nhĩ A Tùng sợ Ung Chính dùng chức vụ này để giết
mình. Cho nên, Ung Chính còn phong quan tiến tước nhưng không ai dám nhận.