Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 21 - phần 1
Phần V: UNG CHÍNH
I.
Cha con như vậy
Vào giờ Tý ngày hai mươi ba tháng tám (năm
1735), năm Ung Chính thứ tám, Đại Thanh Thế Tông tiên hoàng đế Ái Tân Giác La
Dận Chân, chúng ta quen gọi là hoàng đế Ung Chính đã qua đời hết sức thần bí
tại vườn Viên Minh, Bắc Kinh lúc năm mươi tám tuổi.
Ung Chính chết thật đáng ngờ, vì trước đó
không có bất cứ một dấu hiệu nào. Theo “Thế Tông thực lục” và bản ghi chép năm
tháng của cận thần Trương Đình Ngọc, vào ngày hai mươi, Ung Chính “thỉnh thoảng
bất an” nhưng “vẫn nghe chính như thường”. Ngày mười tám, ngày hai mươi, xử lý
việc lớn quân cơ trọng yếu, ngày hai mươi mốt làm việc bình thường. Nhưng, vào
lúc canh khuya ngày hai mươi hai, đột nhiên sai triệu kiến hoàng tử Hoằng Lịch
(tức Càn Long), Hoằng Trú, hoàng đệ Doãn Lục, Doãn Lễ, cận thần Ngạc Nhĩ Thái,
Trương Đình Ngọc… lúc này Ung Chính đã không nói được nữa. Sau một vài giờ tiếp
theo, người đã mất không kịp cho ai biết mật chỉ truyền vị cất ở đâu(1), chẳng
trách Trương Đình Ngọc tỏ ra “kinh hãi muốn chết”.
Nơi cung đình thời cổ Trung Quốc đầy những
bí mật không thể tiết lộ, ánh nến tiếng rìu(2), sự đời bao phức tạp. Những người tận mắt nhìn thấy đã thành
thiên cổ từ lâu, những gì liên quan đến chứng cứ cũng bị tiêu hủy từ lâu, còn
lại vài ba manh mối dấu tích có thể khảo chứng: 1. Trước đó, Ung Chính không có
bệnh gì nặng; 2. Ung Chính chết đột ngột; 3. Trước lúc chết, Ung Chính tự thấy
nguy hiểm đang rình rập. Nếu như chết vì bệnh cấp tính thì đó là bệnh gì? Vì
sao các sách sử không nói, dù chỉ là một chữ, về căn nguyên bệnh, tình trạng
bệnh, tên của bệnh? Trương Đình Ngọc “kinh hãi muốn chết”, kinh hãi vì Ung
Chính chết đột ngột, ngoài cái đó, liệu còn gì cảm thấy khó nói nữa?
(1) Lúc Ung Chính qua đời, Hoằng Lịch với thân
phận là hiếu tử, kêu khóc đau xót, Trương Đình Ngọc, Ngạc Nhĩ Thái muốn tìm
ngay mật chỉ, để dễ bề thống nhất, thái giám tổng quản không rõ mật chỉ giấu ở
đâu. Trương Đình Ngọc nói: Thường ngày Đại Hành hoàng đế không có nhiều văn
kiện dán kín, tìm cho ra chiếc hộp, ngoài bọc giấy vàng, phía sau ghi một chữ
“phong”, là xong”. Lúc này mới tìm được mật chỉ, truyền ngôi cho Hoằng Lịch
(Tác giả).
(2)
Ánh nến tiếng rìu chỉ nghi án Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận mất. Nghe nói, lúc
Triệu Khuông Dận mất, bên cạnh chỉ có người con là Triệu Quang Nghĩa (Thái Tông
sau này) và dưới ánh nến có bóng người di dộng, lại nghe có tiếng rìu bổ xuống
mặt đất (Tác giả).
Xem ra, Ung Chính chết có phần không rõ
ràng.
Ung Chính chết đột ngột, sử sách chính
thống không truy tìm nguyên nhân, hình như muốn che giấu điều gì, khiến mọi
người sinh nghi, đoán này đoán nọ. Các nhà sử học suy đoán có phần khách quan,
có phần đáng tin như Trịnh Thiên Đỉnh cho là trúng phong, Phùng Nhĩ Khang cho
là trúng độc (uống đan dược). Cách nói trong dân gian, các nhà tiểu thuyết có
phần khó hiểu, thậm chí là ngụy tạo. Và khác hẳn là tác giả Nhị Nguyệt Hà trong
tác phẩm “Hoàng đế Ung Chính”, ông nói có thể vì tuẫn tình, có thể vì loạn luân
mà tự sát, rõ ràng, đây là sự biên tạo sai lầm vô căn cứ(3). Bộ phim truyền hình dài tập “Ung Chính
vương triều”, với lời lẽ hàm hồ, ám chỉ Ung Chính mệt mỏi quá sức mà chết, nghe
qua cũng có lý, nhưng mệt mỏi quá sức không thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến cái chết. Dân gian gần như không mấy thiện cảm với vị hoàng đế này, luôn
nói là “chết không được yên” như muốn khẳng định có kẻ thù đã giết chết Ung
Chính. Cách nói này được nhiều người hưởng ứng, được lan truyền và càng lan truyền
càng thần bí, rằng vào năm 1981, lúc khai quật địa cung của Ung Chính, phát
hiện thấy người nằm trong quan tài đã mất đầu. Kẻ thù giết người, cắt thủ cấp
mang theo, chuyện này từ xưa đã có. Vào thời Đường, đô đốc Kiềm Châu là Tạ Hữu,
theo ý Võ Tắc Thiên đã bức chết Linh Lăng vương Lý Minh. Về sau, Tạ Hữu bị kẻ
thù ám sát, cắt thủ cấp mang theo, và thủ cấp đó được làm thành chiếc bô đái
của con Lý Minh là Lý Tuấn. Nhưng trên thi thể Ung Chính có thủ cấp hay không
thì không ai biết. Vì lần khai quật khảo cổ này không được tiếp tục tiến hành,
nên không có ai mở quan tài của Ung Chính, vậy thì làm gì có chuyện “có thân
không có đầu”? Có thể thấy câu chuyện thật vô căn cứ.
(3)
Bình tâm mà xét, “Hoàng đế Ung Chính” viết khá tinh tế, nắm chắc tính cách của
Ung Chính, nhưng lúc xây dựng nhân vật Kiều Dẫn Đệ và giải thích về nguyên nhân
cái chết của Ung Chính lại khiến mọi người rất không hài lòng, vì vậy các nhà
phê bình gọi “tán hươu tán vượn là Nhị Nguyệt Hà” (Tác giả).
Nhưng thích khách lại có tên có họ rõ ràng.
Truyền thuyết nói thích khách là Lã Tứ Nương. Nghe nói, Lã Tứ Nương là con gái
Lã Lưu Lương, lại có người nói là cháu gái của Lã Lưu Lương. Lúc Lã gia gặp
nạn, cô ta may mắn thoát nạn và được một cao thủ võ lâm thu nhận. Vị đại hiệp
này là một hòa thượng, vốn là kiếm khách của Ung Chính, được biết Ung Chính
không hài lòng với mình nên hòa thượng đã dạy cho Lã Tứ Nương mấy chiêu kiếm
thần bí, giúp cô ta thâm nhập vào cung trả thù nhà.
Vẫn là một câu chuyện hoang đường. Nhưng
từng có một người là Lã Lưu Lương, là nhân vật chủ yếu trong một án quan trọng
dưới thời Ung Chính. Nói về vụ án này thì hơi dài. Vào tháng chín (năm 1728)
năm Ung Chính thứ sáu, bỗng dưng có tên đưa thư người Hồ Nam, bước vào nha môn
tổng đốc Xuyên Thiểm, Lã Chung Kỳ. Người này là Trương Hy, là học trò của tú
tài Tằng Tĩnh, Hồ Nam, thư do Tằng Tĩnh viết. Nội dung rất đơn giản, muốn Nhạc
Chung Kỳ mưu phản. Lý do rất dễ hiểu, vì Nhạc Chung Kỳ là cháu chắt của Nhạc
Phi(4), người Thanh là con
cháu của người Kim, làm gì có chuyện con cháu Nhạc Phi không chống lại người
Kim, làm gì có chuyện con cháu Nhạc Phi không chống lại người Kim còn giúp
người Kim cầm quân đánh giặc? Đương nhiên, phải lợi dụng lúc trong tay có binh
quyền, để phản Thanh phục Minh, báo thù cho người Hán, rửa hận cho tổ tiên.
(4)
Theo “Nhạc Tương Cần công hành lược” của Nhạc Quýnh con cháu của Nhạc Chung Kỳ
thì Nhạc Chung Kỳ là cháu đời thứ hai mươi mốt của Nhạc Phi. Nhưng Nhạc Chung
Kỳ trước sau trung thành với vương triều Đại Thanh, năm Càn Long thứ mười chín
(năm 1754) qua đời tại dinh thự, thọ sáu mươi chín tuổi (Tác giả).
Nhạc Chung Kỳ nhận thư và không dám giấu,
vội vàng tấu trình lên Ung Chính. Một tổng đốc dám làm phản, muốn lật đổ Đại
Thanh là việc cực kỳ nghiêm trọng! Việc thẩm lý vụ án đã nhanh chóng có kết
quả: Trương Hy chịu sự chỉ đạo của Tằng Tĩnh, còn Tằng Tĩnh lại chịu ảnh hưởng
của Lã Lưu Lương. Lã Lưu Lương người Thạch Môn, Chiết Giang, khi đó tiếng tăm
rất lớn, mọi người tôn xưng là “Đông Hải phu tử”. Tư tưởng chủ yếu của Lã Lưu
Lương là “Hoa Di chia cắt, là nghĩa của quân thần”, cũng tức là lập trường dân
tộc cao hơn lập trường giai cấp. Theo lập trường giai cấp, hoặc nói, theo luân
lý cương thường, thần dân phải trung với vua, sĩ nhân phải đứng về phía chính
quyền hiện tại. Nhưng Lã Lưu Lương lại cho rằng, nếu là vua “khác loài”, nếu là
chính quyền “Di Địch” thì không chỉ không trung mà còn phải phản. Trong điều
kiện lịch sử lúc đó, tư tưởng của Lã Lưu Lương được coi là một phát minh lớn,
về mặt đạo đức đã giúp giải quyết mâu thuẫn giữa “trung quân” và “phản Thanh”;
tư tưởng đó làm bao nhiêu trí thức đương thời phải “say mê”, làm cho chính
quyền Đại Thanh cảm thấy bị uy hiếp. Vì vậy, Ung Chính phán xử rất nặng đối với
Lã Lưu Lương; Lã Lưu Lương và con là Lã Bảo Trung, môn sinh Nghiêm Hồng Quỳ đều
bị mở quan tài băm xác, cắt đầu thị chúng; con thứ là Lã Nghị Trung, môn sinh
Thẩm Tại Khoan lập tức bị chém đầu, tịch thu gia sản; con cháu Lã thị bị đầy ra
Ninh Cổ Tháp, vĩnh viễn làm nô lệ; trước tác của Lã Lưu Lương, bị đại học sĩ
viết bài phê phán khắp đất nước.
Tằng Tĩnh và Trương Hy lại nhận sự ưu đãi
lớn. Hai người không những không bị chém đầu, ngược lại còn được mặc áo quan,
nghênh ngang trên lưng ngựa đi rao giảng khắp cả nước. Vì họ đã “ăn năn hối
hận”, đã thoát thai thay xương đổi cốt, biến thành người mới. Tằng Tĩnh từng
viết “Tri tân lục”, công kích Ung Chính với mười tội lớn, mưu cha, bức mẹ, giết
anh, giết em, tham tài, thích giết, nát rượu, dâm sắc, lạm sát người trung, tùy
tiện bừa bãi. Lúc này, Tằng Tĩnh lại viết “Quy nhân thuyết” kể lại quá trình
cải tạo tư tưởng, tự kiểm điểm phê phán, ca tụng ân đức của thánh triều. Ung
Chính cho lấy “Quy nhân thuyết” và án trình, khẩu cung của vụ án cùng thượng dụ
của mình biên tập thành “Đại nghĩa giác mê lục” gồm bốn quyển mười hai vạn chữ
rồi in và ban bố cả nước, tổ chức học tập thảo luận. Tằng Tĩnh và Trương Hy trở
thành giảng giải viên tốt nhất.
Qua việc xử trị vụ này, Ung Chính lấy làm
đắc chí. Từ lâu Ung Chính đã nói với các sủng thần Ngạc Nhĩ Thái và Điền Văn
Kính: “Gặp phải quái vật, không thể không có những xử lý đặc biệt”. Đương nhiên
cách “xử lý” của Ung Chính là “quá đặc biệt”! Một hoàng đế đang tại vị, tất
nhiên phải mượn cớ “cải tạo” tốt “phản tặc” để biện giải cho chính quyền của
mình, đúng là chuyện thần kỳ chưa từng thấy trong thiên hạ!
Xem ra, Ung Chính cũng có những nỗi khổ
riêng của mình,
Đúng là Ung Chính có tâm bệnh, một trong số
đó là ngôi vị có phần không rõ ràng.
Ngày mười ba tháng mười một (năm 1722),
Khang Hy năm thứ sáu mươi mốt, một đời hùng chủ Khang Hy đại đế bị bệnh và tạ
thế ở vườn Sướng Xuân. Người để lại cả một giang sơn bao la và cũng để lại một
vấn đề lớn lao: “Ai là người kế thừa? Lúc còn sống, Người chưa hề nói cho rõ
ràng, chỉ nói với các đại thần: “Sau khi trẫm muôn tuổi rồi, tất phải chọn một
người vững vàng, đáng tin cậy cầm trịch cho các ngươi, tất phải khiến cho các
ngươi dốc lòng tin phục, nhất định không đến nỗi gây lụy cho chư thần các
ngươi”. Từ đó, các đại thần luôn phải suy đoán, nhưng ít ai ngờ, người “kiên
định có thể gửi gắm” lại là Tứ a ca Ung Thân vương Dận Chân(5).
(5) Thậm chí có nhà sử học còn nghi ngờ,
chưa hẳn Khang Hy đã nói như thế.
Người có thể kế thừa vương vị vốn rất nhiều.
Theo quan niệm đông con nhiều phúc, thì
phúc khí của Khang Hy quả không nhỏ. Trước sau, Khang Hy có cả thảy ba mươi lăm
người con. Trừ đi mười một đứa chết yểu khi chưa mọc răng, bốn đứa chết yểu nửa
chừng, cũng còn đến hai mươi người. Trong đó, người lớn nhất là Doãn Chi(6) (ý là an, phúc, hỷ) năm mươi mốt
tuổi, sinh năm Khang Hy thứ mười một; nhỏ nhất là Doãn Bí (ý là thần bí, uyên
thâm) bảy tuổi, sinh năm Khang Hy thứ năm mươi lăm. Vào những năm cuối thời
Khang Hy, ngoài thái tử Nhị a ca Doãn Nhưng (ý là phúc) còn có ba thân vương:
Thành Thân vương Tam a ca Doãn Chỉ (ý là phúc, hỷ, tích phúc), Ung Thân vương
Tứ a ca Dận Chân (ý là chân thành hoặc thần để có phúc hựu), Hằng Thân vương
Ngũ a ca Doãn Kỳ (ý là may mắn, yên vui). Ba quận vương: Trực Quận vương Đại a
ca Doãn Chi, Thuần Quận vương Thất a ca Doãn Hựu (ý là thần linh bảo hộ), Đội
Quận vương Thập a ca Doãn Nga (ý là tế tự). Ngoài ra Bát a ca Doãn Tự tuy là
Bối lặc, nhưng năng lực mạnh, uy vọng cao, được nhiều người trong triều ủng hộ,
Thập tứ a ca Doãn Đề (ý là phúc) tuy là Bối tử nhưng đang cầm quân ở bên ngoài,
mang hàm “Đại Tướng quân vương”, uy phong cũng không nhỏ. Những người này đều
có tư cách kế thừa đại thống, Dận Chân chưa phải là người kế nhiệm ngôi vị
hoàng đế duy nhất.
(6)
Con của Khang Hy trong tên của họ có chữ thứ nhất là Dận, chữ thứ hai đều là
chỉ nghĩa, phần lớn dùng những chữ để tránh trùng tên. Sau khi Ung Chính lên
ngôi, để tránh húy, các huynh đệ đều đổi Dận thành Doãn. Để tránh làm độc giả
thấy rắc rối, trong cuốn sách này không kể trước sau đều đổi là Doãn. Còn riêng
Ung Chính, trước khi lên ngôi gọi là Dận Chân, sau khi lên ngôi gọi là Ung
Chính (Tác giả).
Người kế nhiệm ngôi vị hoàng đế vốn là Doãn
Nhưng. Doãn Nhưng là con của Hiếu Thành Nhân hoàng hậu họ Hách Xá Lị, và cũng
là đích tử duy nhất của hoàng đế Khang Hy. Hoàng hậu sinh hạ Doãn Nhưng xong
liền qua đời. Theo lệ truyền thống của vương triều tộc Hán, Doãn Nhưng được lập
là thái tử năm lên hai tuổi, tức là Khang Hy năm thứ mười bốn (năm 1675) và lần
đầu bị phế là vào năm Khang Hy thứ bốn mươi bảy (năm 1708), là thái tử đúng ba
mươi ba năm. Đã có một số vấn đề trong thời gian đó: 1. Tính cách Doãn Nhưng
trở nên ngang bướng, tàn nhẫn, tham lam, kiêu kỳ dâm dật, tàn bạo bất nhân. 2:
Là thái tử chẳng ra gì, tỏ ra thiếu kiên nhẫn, Khang Hy cảm thấy bị uy hiếp.
Khang Hy nói: “Trẫm không ngờ nay gặp chim độc, ngày mai gặp nạn, ngày đêm lo
ngại không yên”. Mùa hạ năm thứ bốn mươi bảy(7) (năm 1708), Khang Hy tuần thú biên ải, phát hiện thấy đêm nào
Doãn Nhưng cũng quanh quẩn bên ngoài doanh trướng của mình, như muốn giám sát
động tĩnh của phụ hoàng, Khang Hy thấy rất khó chịu, liền ra lệnh bắt Doãn Nhưng
và tuyên bố phế truất ngôi vị thái tử.
(7)
Tức năm Khang Hy thứ mười bảy. Từ đây trở về sau có nhắc đến năm Khang Hy nào
đó, năm Ung Chính nào đó đều lược bỏ niên hiệu (Tác giả).
Ngôi vị thái tử bị khuyết, một số hoàng tử
thấy mình có tư cách kế vị đã ngóng chờ đỏ cả mắt. Trong số đó, Đại a ca Doãn
Chi là người sốt ruột nhất, chờ đợi nhất. Theo Doãn Chi, đích tử bị phế, phải
đến lượt trưởng tử. Vì vậy, Doãn Chi hận mình không thể đẩy nhanh thái tử vào
chỗ chết. Doãn Nhưng bị phế, Khang Hy giao cho Doãn Chi coi giữ. Doãn Nhưng bị
quản rất chặt. Doãn Nhưng nói: “Phụ hoàng nói ta có nhiều việc sai lầm, việc
nào cũng đúng. Riêng việc phản nghịch ta không có lòng dạ đó, mong thay ta tấu
lại rõ ràng”. Doãn Chi cự tuyệt thẳng thừng, nói phụ hoàng đã có chỉ, lời nói
của ngươi không cần phải tấu lên! Như vậy là không nghĩ gì đến tình huynh đệ,
ngay như người luôn phản đối thái tử là Cửu a ca Doãn Đường (ý là phúc hựu)
cũng thấy chẳng ra gì, Dận Chân thì quả quyết: “Huynh không tấu thì đệ tấu! Sự
tình quan trọng nhường ấy, không thể thấy chết mà không cứu!”. Lúc này Doãn Chi
đành phải dâng tấu. Nhưng trong con mắt các huynh đệ, Doãn Chi đã thành kẻ tiểu
nhân vô tình vô nghĩa.
Tiểu nhân thì không bao giờ nhận biết được
năng lực của mình. Khang Hy vốn đã xem thường Doãn Chi(8). Doãn Chi ngộ nhận, tưởng Khang Hy không
giết Doãn Nhưng là do không nỡ, nên đã chạy tới cầu xin, nói, nếu phụ hoàng
thấy không tiện, nhi thần xin được làm thay. Vở diễn đã lòi đuôi, Khang Hy thấy
phẫn nộ và căm ghét, vừa hận hắn cốt nhục tương tàn, không còn lòng nhân ái;
vừa buồn cười vì hắn ra vẻ thông minh, đã lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân
vương. Vừa khéo, ngài lại vừa phát hiện một âm mưu khác: Để có thể lật đổ thái
tử, Doãn Chi đã móc nối với một người Mông Cổ hành nghề ma thuật có tên Ba Hán
Cách Long, làm phép yểm bùa, rủa chết thái tử chẳng trách thái tử lại ngang
ngược như vậy. Khang Hy liền hạ lệnh cách tước và bắt giam Doãn Chi, gọi Chi là
“loạn thần tặc tử”, nói hắn là “hủy hoại quốc pháp, thực không thể dung”. Chỉ
những kẻ hết tình mới chửi rủa anh em, chỉ những kẻ bất hiếu mới để phụ hoàng
mang tội giết con. Doãn Chi làm loạn quốc pháp là bất trung, tàn sát cốt nhục
là bất nhân. Doãn Chi đã tự vác đá đập vào chân mình, không được làm thái tử
lại làm tội đồ.
(8)
Trước sau Khang Hy luôn đánh giá Doãn Chi là kém cỏi, độc ác, tàn bạo thậm chí
là loại “hạ tiện, vô sỉ”, còn nói mình đã chán ghét y từ lâu? Kỳ thực Doãn Chi
chưa chắc đã là tiểu nhân. Trong các hoàng tử y là kẻ hết lòng vì Khang Hy
nhất, nhưng vì tranh ngôi đoạt vị, nên đã bị xem thường, khinh bỉ như vậy (Tác
giả).
Khang Hy vội vàng phế truất thái tử, ngoài
tình thế buộc phải thế, còn có ý giết gà dọa khỉ. Nào ngờ gà đã giết, còn khỉ
đã leo cao hơn. Bản thân Doãn Nhưng tà ý vẫn chưa chết, dã tâm các hoàng tử
khác cũng ngày một dâng cao. Điều đó làm Khang Hy hết sức đau lòng. Khang Hy
vốn rất hãnh diện về những đứa con của mình. Khang Hy xem thường các hoàng tử
triều Minh, cho rằng bọn chúng chỉ biết ngồi mát ăn bát vàng, không có năng
lực, ngu xuẩn hệt như lợn, chẳng trách triều Minh đã bị diệt vong. Và ngược lại
với các quy định ở triều Minh là không cho các hoàng tử can dự chính sự, Khang
Hy đã phóng tay để các hoàng tử trưởng thành tham dự triều chính, xử lý chính
sự, thậm chí là cầm quân đánh giặc. Kết quả, đứa con nào của Khang Hy cũng tinh
anh giỏi giang, biểu hiện là nhân tài, nếu không thống soái được toàn cục thì
ít ra cũng có thể lo liệu được từng mặt. Đương nhiên, người có đầu óc nghĩ
nghìn cũng có thể sẽ mất một. Khang Hy chỉ nghĩ các hoàng tử từng trải có tài,
có thể đảm bảo cho giang sơn vương triều Đại Thanh tồn tại mãi mãi, nhưng không
nghĩ phần lớn những người tài luôn có dã tâm, ai cũng có năng lực thì khó có
chuyện nhường nhau. Xem ra con quá ít, quá xuẩn cũng không được, nhưng nếu vừa
nhiều vừa tài cũng thêm phiền phức. Đúng như các bậc tiên hiền từng nói: “Trong
phúc có họa, trong họa có phúc”. Việc xấu có thể biến thành việc tốt, việc tốt
cũng có thể biến thành việc xấu.
Vì thế, Khang Hy phải sử dụng một số biện
pháp mạnh. Trước hết có lời cảnh cáo: “Trong các a ca, nếu ai có mưu đồ hòng
làm hoàng thái tử, người đó sẽ là quốc tặc, pháp luật không dung”. Như vậy, rất
có thể trong một thời gian ngắn sẽ phải giam cầm mấy hoàng tử lớn tuổi âm mưu
nghi kỵ hoặc có tư cách kế thừa như Tam a ca Doãn Chỉ, Tứ a ca Dận Chân, Ngũ a
ca Doãn Kỳ, Bát a ca Doãn Tự, Thập tam a ca Doãn Tường cũng bị nhốt từ lâu. Về
sau, Khang Hy trả lại ngôi vị cho thái tử bị phế, coi đó là thủ đoạn hòng dẹp
yên sự tranh giành ngôi vị giữa các a ca. Nhưng tất cả biện pháp đó đều vô
dụng. Thái tử bị phế chưa tiếp thu được bài học nào, không chỉ không hề hối cải
mà còn ghê gớm hơn, càng bạo ngược vô đạo, xa xỉ hết mức, cuối cùng phục chức
được ba năm đã lại bị phế. Các hoàng tử khác cũng không biết sợ, số người tham
gia vào cuộc tranh giành ngôi vị càng thêm đông, như Doãn Đường, Doãn Nga, Doãn
Đề… Tất cả đều đã nổi lên mặt nước. Bọn họ, hoặc đơn thương độc mã, hoặc kết bè
kết đảng, hoặc tạo dựng dư luận, hoặc thám thính cơ mật, hoặc thiết kế mật
thất, tóm lại họ đang xét đoán phương hướng, mong thực hiện được. Trong số đó,
được chú ý nhất là Bát a ca Doãn Tự.
Sách lược đấu tranh của Doãn Tự là mua
chuộc lòng người.
Doãn Tự xếp hàng thứ tám trong các hoàng
tử, là Bối lặc, tước vị tương đối cao. Theo chế độ nhà Thanh, phong tước cho
hoàng tử, hoàng tôn có bốn cấp: Thân vương, Quận vương, Bối lặc, Bối tử. Bối
lặc là cấp thứ ba, xếp hàng trước Doãn Tự có Tam a ca Doãn Chỉ, Tứ a ca Dận
Chân, Ngũ a ca Doãn Kỳ đều được phong là Thân vương. Lục a ca Doãn Tộ qua đời
năm Khang Hy thứ hai mươi tư, Thất a ca Doãn Hựu lại được phong là Quận vương.
Ngay cả Thập a ca Doãn Nga xếp ở hàng sau cũng được phong là Quận vương, vì
sinh mẫu của Doãn Nga là quý phi. Chế độ trong nội cung triều Thanh, dưới hoàng
hậu có bảy cấp: Hoàng quý phi, quý phi, phi, tần, quý nhân, đáp ứng, thường
tại. Sở dĩ Doãn Nga được phong vương, vì cấp bậc của sinh mẫu rất cao, chỉ ở
dưới sinh mẫu của Doãn Nhưng (là hoàng hậu) và sinh mẫu Doãn Tường (là hoàng
quý phi). Sinh mẫu Doãn Tự là tiện nhân ở “phòng giặt đồ”, chuyên môn làm những
việc ti tiện như thu gom áo quần trong gia đình phạm nhân trọng tội. Quý trưởng
tiện ấu (quý con lớn, xem thường con bé) đều là lễ pháp; nhờ mẹ, con được xem
trọng cũng là quy chế. Nên Doãn Tự chẳng thể nói được gì. Vả lại lúc này cũng
chấm dứt chế độ phong tước cho hoàng tử còn nhỏ tuổi. Doãn Tự kém Doãn Nhưng
một tuổi, nên tâm lý Doãn Tự có phần mất cân bằng.
“Xuất thân không tốt” là áp lực với Doãn
Tự, nhưng đồng thời cũng là động lực giúp Doãn Tự phấn đấu vươn lên. Doãn Tự,
nhân phẩm hơn người, học thức phi phàm, dáng dấp đoan trang, phong độ nho nhã,
hoàn toàn không xấu tính xấu nết như Giả Hoàn trong “Hồng lâu mộng”, Khang Hy
có thiện cảm với Doãn Tự, nên năm mười tám tuổi Doãn Tự được phong là Bối lặc,
là một trong số các huynh đệ ít tuổi được phong. Doãn Tự nhân ái lịch thiệp,
chan hòa lễ phép với mọi người, thành tâm kết giao với sĩ nhân. Vì vậy, các đại
thần trong triều hết lời tán thưởng, “đúng là người hiếu học, đúng là vương tử
giỏi”. Ngay như người anh của Khang Hy là Dụ Thân vương Phúc Kim cũng nói trước
mặt Khang Hy, “có tài có đức”, “tâm tính tốt”; đối với Doãn Tự, đúng là việc có
phần chủ động có phần bị động. Nói chủ động, vì Doãn Tự biết “được lòng người
là được thiên hạ”, muốn giành giật ngôi vị, phải có được lòng người. Nói bị
động, vốn liếng Doãn Tự dùng để tranh giành với các hoàng tử khác không nhiều,
nhân duyên là thứ duy nhất.
Nhưng nhân duyên may mắn đó lại làm hại
Doãn Tự.

