Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển IX - Chương 156 - 157
156. Mơ thấy chó sói[1]
[1] Mộng
lang.
Ông họ Bạch là người tỉnh Trực Lệ. Con trai lớn là Giáp đi
làm quan ở phương nam, hai năm đường xa bặt tin. Có người họ Đinh là họ hàng xa
tới thăm, ông lâu không gặp nên bày tiệc khoản đãi. Đinh vốn là phù thủy, lúc chuyện
trò ông hỏi việc dưới âm phủ, Đinh trả lời có nhiều điều huyễn hoặc, ông không
tin lắm nhưng cũng chỉ mỉm cười. Kế chia tay, vài hôm sau ông vừa đi nằm thấy
Đinh lại tới, mời cùng đi chơi. Ông đi theo, vào tới một tòa thành, lát sau
Đinh chỉ một cái cổng nói: “Cháu ông ở trong ấy đấy.” Lúc ấy ông có đứa cháu
con người chị đang làm Tri huyện ở đất Tấn (vùng Sơn Tây), ngạc nhiên hỏi: “Sao
nó lại ở đây?” Đinh đáp: “Nếu ông không tin, cứ vào sẽ biết.” Ông vào, quả thấy
cháu mặc áo đội mũ Ngự sử ngồi trên công đường, quân hầu vác cờ cầm kích dàn
hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ra, nói: “Còn nha môn của công tử cách đây
cũng không xa, ông có muốn tới xem không?” Ông bằng lòng. Giây lát tới một tòa
nhà, Đinh bảo: “Ông vào đây!” Nhìn vào cổng thấy một con sói lớn chắn đường, sợ
quá không dám bước tới, Đinh lại nói: “Ông cứ vào đây!” Qua một lần cổng nữa
thấy trên thềm dưới sân toàn là sói, con nằm con ngồi. Nhìn tới thềm thì thấy
xương trắng chất cao như núi, ông càng sợ hãi, Đinh bèn lấy mình che cho ông đi
vào.
Công tử Giáp vừa từ nhà trong ra, thấy cha và Đinh mừng lắm,
mời ngồi rồi gọi người hầu sửa soạn cơm rượu. Chợt có con sói lớn ngoạm một xác
người chết vào. Ông run bần bật đứng lên hỏi: “Cái đó dùng làm gì?” Giáp đáp: “Để
làm cơm.” Ông vội ngăn cản, lòng hoảng hốt không yên, cáo từ định đi ra nhưng
bị đàn sói cản lại. Đang còn chưa quyết lui tới ra sao chợt thấy lũ sói kêu gào
chạy tứ tán, con chui vào gầm giường, con rúc xuống dưới ghế, ngạc nhiên không
rõ vì sao. Giây lát có hai lục sĩ mặc giáp vàng trợn mắt bước vào, rút dây sắt
ra trói Giáp, Giáp ngã lăn xuống đất hóa thành con cọp, răng nhe lởm chởm. Một
người tuốt kiếm sắc toan chặt đầu, người kia ngăn lại nói: “Khoan đã, khoan đã!
Đó là việc tháng tư năm sau, cứ tạm bẻ răng nó trước.” Rồi rút ngọn chùy lớn ra
đập, răng cọp gảy rơi xuống đất, cọp đau quá rống vang. Ông khiếp sợ, chợt tỉnh
dậy mới biết là mình nằm mơ, lấy làm lạ cho người mời Đinh nhưng Đinh từ chối
không tới.
Ông bèn ghi lại giấc mơ, sai con thứ đưa thư tới cho Giáp,
răn bảo thống thiết. Người em tới nơi, thấy răng cửa của anh gãy hết, sợ hãi
hỏi thăm, thì ra vì say rượu ngã ngựa. Hỏi lại thời gian thì đúng ngày cha nằm
mơ, càng sợ hãi, đưa thư của cha ra. Giáp đọc thư tái mặt, một lúc mới nói: “Đó
là ảo mộng ngẫu nhiên phù hợp, có gì lạ.” Lúc ấy Giáp đang hối lộ quan trên để
được tiến cử nên không để bụng về giấc mộng gở của cha. Người em ở lại vài hôm
thấy lũ nha lại sâu mọt đầy công đường, kẻ hối lộ người chạy chọt nườm nượp ra
vào đến khuya vẫn không ngớt, rơi nước mắt can anh. Giáp nói: “Em ở nhà quê nên
không biết điều cốt yếu của việc làm quan. Quyền thăng hay truất mình là ở quan
trên chứ không phải trăm họ, nên cứ quan trên vui lòng tức là quan tốt chứ
thương yêu trăm họ thì làm sao cho quan trên vui lòng được?” Người em biết
không thể can ngăn được bèn trở về kể hết cho cha. Ông Bạch nghe thế khóc lớn,
không biết làm sao, chỉ còn cách bỏ tiền bạc ra giúp người nghèo, hàng ngày cầu
khấn thần linh, chỉ xin nếu thằng con ngỗ nghịch bị báo oán thì đừng làm lụy cả
vợ con.
Năm sau, có tin báo Giáp được tiến cử về bộ Lại, người chúc
mừng tới chật cổng. Ông chỉ than thở nằm bẹp, thác bệnh không ra tiếp một ai.
Không bao lâu nghe tin con trai về kinh gặp cướp, thầy tớ đều bị giết. Ông trở
dậy nói với mọi người: “Cơn giận của quỷ thần chỉ dành cho riêng nó, ơn che chở
cho nhà ta như vậy không phải không sâu nặng đâu,” rồi thắp hương lạy tạ. Người
tới an ủi đều cho rằng đó chỉ là tin đồn thất thiệt trên đường, riêng ông tin
chắc không hề nghi ngờ, cứ định ngày xây mộ. Nhưng Giáp vốn chưa chết. Trước là
tháng tư Giáp thôi chức lên đường, vừa ra khỏi huyện liền gặp cướp, dốc hết
rương hòm ra nộp nhưng chúng nói: “Bọn ta tới đây để rửa nỗi căm tức của dân cả
một huyện, đâu phải chỉ vì bấy nhiêu!” Rồi chém đầu Giáp. Lại hỏi đám gia nhân
rằng Tư Đại Thành là ai? Tư vốn là tay chân tâm phúc của Giáp, giúp kẻ dữ làm
điều ác. Đám gia nhân đều chỉ vào y, bọn cướp cũng chém luôn. Lại có bốn tên
nha lại sâu mọt là tay sai vơ vét tiền bạc cho Giáp, được Giáp đưa theo về kinh
cũng bị lôi ra chém chết. Bấy giờ bọn cướp mới chia của cải, chất lên ngựa
phóng đi.
Hồn Giáp nằm bên đường, thấy một vị quan lớn đi ngang hỏi
người bị giết là ai, toán quân mở đường bẩm: “Là Tri huyện họ Bạch ở huyện mỗ.”
Vị quan nói: “Đó là con họ Bạch, không nên để y cuối đời phải nhìn thấy cảnh
thảm khốc này, cứ chắp đầu lại cho hắn.” Lập tức có một người nhặt đầu Giáp đặt
lên cổ, nói: “Kẻ gian tà không cần chắp cho ngay ngắn, cứ cho vai đỡ cằm là
được,” rồi bỏ đi. Lát sau Giáp sống lại, vợ con tới nhặt xác thấy còn thoi thóp
bèn chở về, từ từ đổ nước cháo cho, cũng uống được nhưng phải sống nhờ ở quán
trọ vì nghèo quá không về được. Khoảng nửa năm, ông Bạch được tin đích xác, sai
con thứ tới đón về. Giáp tuy sống lại nhưng mắt nhìn thấy lưng, không giống con
người nữa. Con trai người chị ông Bạch thì làm quan có tiếng tốt, năm ấy được
tiến cử làm Ngự sử, đều đúng như ông mơ thấy.
Dị Sử thị nói: Trộm
than rằng trong thiên hạ quan là cọp mà lại là sói, ở đâu cũng vậy. Cho dù quan
không phải là cọp thì nha lại cũng sẽ là sói, huống hồ kẻ làm quan còn dữ hơn
cả cọp sao? Phàm điều người ta lo là không thể nhìn thấy phía sau mà thôi, đây
cho sống lại mà lại còn làm cho nhìn thấy được phía sau, bài học của quỷ thần
mới sâu xa làm sao!
157. Cung trời[1]
[1] Thiên cung.
Quách
sinh là người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều có
bà già mang cho một bình rượu, lấy làm lạ vì không biết duyên cớ. Bà già cười
nói: “Không cần hỏi, cứ uống vào sẽ có chuyện hay,” rồi bỏ đi. Sinh mở bình
ngửi thử, thấy thơm lừng bèn uống. Chợt say lịm không biết gì nữa, khi tỉnh dậy
thì thấy đang nằm chung với một người, sờ thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực
nức, té ra là con gái, hỏi thì không đáp, Quách bèn làm luôn. Kế lấy tay mò lên
vách thấy toàn bằng đá, không khí ẩm thấp đầy hơi đất như trong mồ, cả sợ ngờ
là bị ma dụ. Nhân hỏi cô gái: “Nàng là thần gì?” Nàng đáp: “Ta không phải là
thần mà là tiên, đây là động phủ. Ta cùng ngươi vốn có túc duyên, xin chớ ngờ
vực, cứ ở lại đây. Qua một lần cửa nữa, chỗ có ánh sáng lọt vào là nơi đại tiểu
tiện.” Nói rồi trở dậy đóng cửa đi mất. Hồi lâu Quách thấy đói, có nữ đồng mang
bánh bao, miến vịt vào, cứ cho ăn mò trong bóng tối, tối đen như mực không biết
ngày hay đêm. Không bao lâu cô gái vào ngủ mới biết đã là đêm, Quách nói: “Ngày
không ánh mặt trời, đêm không ánh đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu nếu cứ
thế này thì Hằng Nga khác gì La Sát, thiên đường khác gì địa ngục?” Cô gái cười
nói: “Vì ngươi là người trần tục, nhiều lời dễ lộ nên ta không muốn ra mặt gặp
nhau. Vả lại mò mẫm trong bóng tối thì xấu đẹp cũng có thể biết, cần gì đèn
đuốc?”
Ở vài
hôm, Quách vô cùng buồn chán, mấy lần xin về. Cô gái nói: “Đêm mai cùng chàng
lên Thiên cung chơi một lần rồi sẽ chia tay.” Hôm sau chợt có a hoàn nhỏ cầm
đèn lồng vào nói: “Nương tử chờ chàng đã lâu.” Quách theo ra, dưới ánh sao đêm
vằng vặc chỉ thấy vô số lầu gác. Qua mấy đoạn hành lang chạm vẽ tới một nơi
trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Bước vào thì thấy một
mỹ nhân trang điểm lộng lẫy ngồi quay mặt về hướng nam, tuổi khoảng hai mươi,
áo gấm lóa mắt, đầu đính minh châu rủ xuống bốn phía, dưới đất bày đầy đuốc
ngắn soi rõ cả gấu quần, đúng là người trời. Quách hoang mang váng vất, bất
giác quỳ xuống, cô gái sai tỳ nữ đỡ dậy dìu vào ghế. Phút chốc các món bát trân
bày lên la liệt, cô gái rót rượu nói: “Uống chén này để đưa chàng về.” Quách
khom người thưa: “Trước giáp mặt mà không biết người tiên, thật rất thẹn thùng,
nếu cho chuộc lỗi, xin làm kẻ bầy tôi trung thành suốt đời.” Cô gái quay nhìn
tỳ nữ mỉm cười rồi sai dọn tiệc vào phòng ngủ. Trong phòng cũng màn gấm tua
thêu, chăn là thơm phức, nàng bảo Quách ngồi lên giường. Uống thêm một lúc, mấy
lần nói: “Chàng xa nhà đã lâu, nay tạm về cũng không sao.” Hết canh một Quách
vẫn chưa cáo từ, cô gái gọi tỳ nữ cầm đèn lồng tiễn ra. Quách im lặng, giả say
lăn ra giường, lay gọi gì cũng không động, nàng bèn sai các tỳ nữ đỡ dậy cởi
quần áo ra, một nàng vuốt chỗ kín của Quách nói: “Gã trai này mặt mũi ôn nhã mà
sao cái này chẳng có chút gì văn vẻ!” Đặt Quách xuống giường rồi cùng cười rộ
đi ra.
Cô gái
cũng lên nằm, Quách trở mình, nàng hỏi: “Say lắm không?” Quách đáp: “Tiểu sinh
có say đâu! Chỉ là mới nhìn thấy người tiên tâm thần đã điên đảo đó thôi.” Cô
gái nói: “Đây là Thiên cung, trời chưa sáng đã phải ra, nếu vào động phủ thấy
buồn chán thì chẳng bằng sớm từ biệt.” Quách nói: “Nay có người ban đêm nhặt
được đóa hoa, mò cánh ngửi mùi mà không có đèn đuốc, tình cảnh ấy làm sao chịu
được?” Nàng cười, sai lấy thêm đèn đuốc. Vừa sang canh tư đã gọi tỳ nữ cầm đèn
ôm áo đưa Quách ra. Vào động phủ thấy trần thiết tinh xảo, chỗ ngủ lót nệm da,
trải thảm lông dày cả tấc. Quách đã cởi giày khoác chăn mà người tỳ nữ còn bịn
rịn chưa đi, để ý nhìn kỹ thấy dung mạo xinh xắn bèn đùa hỏi: “Người chê ta
không văn vẻ là nàng phải không?” Cô ta cười đá vào cái gối nói: “Chàng cứ nằm ưỡn
ra đi, đừng có lắm lời.” Nhìn chiếc giày của cô ta thấy đính viên ngọc trai to
bằng hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo cô ta vào lòng, ôm ấp vuốt ve, cô ta không
kìm được cứ rên lên. Quách hỏi bao nhiêu tuổi, đáp mười bảy. Hỏi: “Xử nữ cũng
biết tình sao?” Đáp: “Thiếp không còn là xử nữ, nhưng hoang vắng đã ba năm rồi.”
Quách hỏi dò tên họ quê quán thứ bậc người tiên, cô ta nói: “Đừng hỏi! Đây dù
không phải thượng giới cũng là cõi trần hiếm có, nếu cứ muốn biết rõ e không có
đất mà chôn đâu,” Quách nghe thế không dám hỏi nữa.
Đêm sau
cô gái quả mang đèn tới cùng nhau ăn ngủ, ngày nào cũng vậy. Một đêm nàng vào
nói: “Vẫn mong cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay
phải quét dọn thiên cung, không thể lưu chàng ở đây được nữa, xin cùng chuốc
chén từ biệt.” Quách rơi nước mắt, xin cho chiếc áo lót làm kỷ vật. Cô gái
không cho, chỉ tặng một cân vàng ròng, trăm hạt ngọc châu. Uống cạn ba chén,
Quách bỗng say lịm. Khi tỉnh dậy thấy tay chân như bị trói chặt, không duỗi
chân được, cũng không ngóc đầu lên được. Gắng sức lăn lộn thì nhào xuống
giường, mò mẫm thấy mình bị nhét vào cái túi gấm, ngoài có dây buộc chặt. Ngồi
lên ngẫm nghĩ, thấy cái giường mờ mờ mới biết đang trong phòng sách nhà mình.
Lúc ấy Quách rời nhà đã ba tháng, người nhà đều cho là đã chết. Quách lúc đầu
không dám kể rõ chuyện, sợ bị tiên trừng phạt, nhưng lòng vẫn lạ lùng ngờ vực,
thỉnh thoảng lại lén kể cho bạn bè, nhưng không ai biết duyên cớ do đâu. Cái
túi chăn vẫn để ở đầu giường, mùi hương ngát phòng, xem kỹ thì là loại vải Hồ
Châu tẩm hương liệu, trân trọng cất đi.
Sau có
quan lớn Mỗ nghe chuyện, hỏi kỹ rồi cười nói: “Đó là người quen của Giả hậu[2], chứ người tiên nào lại làm
thế. Nhưng nên giữ kín chuyện này, lộ ra thì chết cả họ đấy.” Có người thầy
đồng vẫn ra vào các nhà quyền quý nói rằng hình dáng lầu gác như thế thì rất
giống dinh Nghiêm Đông[3].
Quách nghe thế khiếp đảm, đưa cả gia đình đi biệt xứ, không bao lâu Nghiêm bị
giết mới trở về.
[2] Người quen của Gia hậu: Tấn thư chép
vợ Tấn Huệ đế là Giả thị hoang dâm, thường bắt cóc đàn ông con trai đẹp trai
khỏe mạnh trong dân gian về để hành lạc, nói với họ rằng mình là thần tiên.
[3] Nghiêm Đông: tức Nghiêm Thế Phồn,
quyền thần triều Minh, nổi tiếng độc ác xa hoa.
Dị Sử thị nói: Gác cao sáng
rỡ, hương nức màn thêu, tỳ nữ trẻ đẹp, giày đính minh châu, nếu không phải nhà
quyền gian phóng túng, hào quý kiêu sa thì sao được như vậy? Thẻ tính dâm vừa
ném, nhà vàng biến thành lãnh cung, ống nhổ thơm chưa khô, ruộng tình đã tràn
cỏ dại[4]. Giường
không não ruột, đuốc tắt tiêu hồn, mày cau trước đài vàng, mắt mờ trong trướng
gấm. Khiến cho kẻ kia nhân nhờ chén rượu, thẳng lối cung tiên, giữa làng ôn
nhu, ngỡ người tiên tử. Mắng kẻ sang dâm loạn, chẳng đủ thẹn người nhưng ruộng
tốt bỏ hoang[5], cũng
đủ tự răn vậy.
[4] Thẻ tính dâm dịch chữ “dâm trù”, ống
nhổ thơm dịch chữ “thóa hồ” tức “hương thóa hồ”. Sử chép Nghiêm Thế Phồn mỗi
lần ngủ với đám tỳ thiếp xong thì lấy khăn lau mồ hôi bằng the trắng lau chùi
rồi xếp lại cất ở đầu giường, cuối năm mang ra đếm, gọi là “thẻ tính dâm”. Lại
khi khạc nhổ thì bắt các tỳ nữ lấy miệng hứng, cứ ho hắng thì đám tỳ thiếp xinh
đẹp xúm lại há miệng ra chờ, nhân gọi đó là “ống nhổ thơm”. Cả câu ý nói được
người giàu sang yêu thương không bao lâu đã bị bỏ rơi không đoái hoài tới nữa.
[5] Ruộng tốt bỏ hoang: chỉ người đàn bà
đẹp phải lẻ loi một mình. Câu này ý nói mỹ nhân bắt Quách là một nàng hầu xinh
đẹp bị bỏ rơi.