Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển IX - Chương 154 - 155
154. Tế Liễu
Tế Liễu
là con gái một sĩ nhân ở đất Trung Đô (huyện Bình Dao tỉnh Sơn Tây), có kẻ thấy
nàng ẻo lả đáng yêu nên gọi đùa là Tế Liễu (cây liễu nhỏ). Nàng lúc nhỏ thông
minh, biết chữ, thích đọc sách dạy xem tướng. Bình sinh tính nết trầm mặc,
không hay nói tới điều hay dở của người khác. Nhưng nếu có ai tới dạm hỏi, thì
xin cho được núp nhìn mặt, chọn lựa nhiều người mà đều nói rằng chưa có ai xứng
đáng. Đến năm nàng mười chín tuổi, cha mẹ tức giận nói: “Giả như trên đời không
có ai xứng đáng, thì ngươi chịu làm gái già không chồng à?” Nàng thưa: “Thật
tâm con muốn lấy trí người thắng mệnh trời, nhưng đã lâu vẫn không thành công,
cũng là số phận của con vậy. Thôi từ nay trở đi xin vâng theo ý cha mẹ.” Lúc ấy
có Cao sinh là danh sĩ dòng dõi thế gia nghe danh Tế Liễu tới xin hỏi cưới, sau
ngày cưới vợ chồng rất hòa hợp. Vợ trước của sinh chết để lại một đứa con tên
là Trường Phúc, lúc ấy được năm tuổi, cô gái nuôi nấng chăm sóc rất chu đáo. Có
khi nàng về thăm cha mẹ, Trường Phúc cứ gào khóc đòi đi theo, quát mắng thế nào
cũng không chịu thôi. Được hơn năm nàng sinh một trai, đặt tên là Trường Hỗ.
Sinh hỏi ý nghĩa tên con, nàng đáp rằng không có ý gì khác, chỉ là mong mỏi nó
được theo hầu dưới gối cha lâu dài mà thôi[1].
[1] Trường hỗ (nương tựa lâu dài) đây lấy
ý câu trong kinh Thi Tiểu nhã, Lục nga: “Vô phụ hà hỗ” (Không có cha thì nương
tựa vào ai). Đây Tế Liễu biết trước chồng sẽ chết sớm nên đặt tên con như vậy
để tỏ ý mong chồng sống lâu.
Cô gái về
việc nữ công rất vụng về, cũng ít khi để ý tới, nhưng ruộng nương ở đâu, thuế
má bao nhiêu thì cứ theo sổ sách mà hỏi, chỉ sợ là không biết rõ. Ít lâu nói
với sinh rằng: “Việc trong nhà xin chàng đừng nhìn tới nữa, để thiếp lo cho,
xem có coi sóc nổi việc nhà không?” Sinh theo lời, được nửa năm thì trong nhà
không có việc gì bê trễ, cũng cho vợ là giỏi. Một hôm sinh đi uống rượu ở xóm
bên, có kẻ đi thúc thuế thiếu đập cửa hỏi, nàng sai đầy tớ ra nài nỉ xin khất
nhưng y không chịu, phải sai trẻ đi gọi sinh về. Người thúc thuế đi rồi, Sinh
cười nói: “Tế Liễu nay đã biết đàn bà khôn không bằng đàn ông ngu chưa?” Cô gái
nghe thế cúi đầu bật khóc, sinh hoảng sợ vội tìm lời an ủi nhưng rốt lại nàng
vẫn không vui. Sinh không nỡ để nàng phải khó nhọc vì việc nhà, muốn tự mình
cáng đáng như cũ nhưng nàng không chịu. Từ đó nàng thức khuya dậy sớm chăm chỉ
lo toan, cứ cuối năm là lo sẵn tiền thuế của năm sau, nhờ vậy cả năm ít khi
thấy nha lại tới nhà đòi thuế thiếu.
Về tiền
bạc chi tiêu trong nhà nàng cũng làm theo cách ấy, nhờ vậy chi dùng có chừng mực
mà của cải ngày thêm nhiều. Sinh vì thế càng yêu mến, có lần nói đùa với nàng
rằng: “Tế Liễu mới nhỏ sao? Nét mày nhỏ, eo lưng nhỏ, bàn chân nhỏ, lại mến tâm
tư càng tinh tế.” Nàng đối lại rằng: “Cao lang thật cao vậy! Nhân phẩm cao, chí
khí cao, văn chương cao, chỉ mong tuổi thọ lại càng cao.”[2] Trong làng có người bán
chiếc quan tài bằng gỗ tốt, nàng không tiếc mang món tiền lớn tới hỏi mua,
nhưng giá cao quá không đủ tiền, lại tìm đủ cách vay mượn thân thích láng giềng
mua bằng được. Sinh cho rằng đó không phải vật cần gấp, cố ngăn cản nhưng nàng
không nghe. Mua về hơn năm thì trong làng có người chết, người nhà mang tiền
tới xin mua lại với giá gấp đôi, sinh thấy có lãi bèn bàn bán đi, nàng không
chịu. Sinh hỏi nguyên cớ, nàng không đáp, lại hỏi nữa thì nàng rơm rớm nước
mắt, sinh lấy làm lạ nhưng không nỡ làm nàng buồn, bèn thôi việc ấy.
[2] Đôi câu đối này nguyên văn là: “Tế
Liễu hà tế tai? Mi tế yêu tế lăng ba tế, thả hỉ tâm tư cánh tế. Cao lang thành
cao hĩ! Phẩm cao chí cao văn tự cao, đãn nguyện thọ số vưu cao”, có chỗ chơi
chữ không dịch được vì chữ “tế” ở vế đầu vừa có nghĩa là nhỏ bé, vừa có nghĩa
là tỉ mỉ, tinh tế.
Lại hơn
một năm nữa, sinh vừa hai mươi lăm tuổi, nàng không cho đi xa, mà đi đâu về hơi
muộn thì nàng sai đầy tớ nối nhau đi mời gọi về, bạn bè sinh vì vậy có người
lấy đó để đùa cợt chế giễu. Một hôm sinh tới nhà bạn uống rượu, thấy trong
người mỏi mệt nên ra về, giữa đường ngã ngựa chết. Lúc ấy mới đầu mùa hè, may
mà quan tài vải liệm đã chuẩn bị đầy đủ cả, người làng mới bắt đầu khâm phục Tế
Liễu. Phúc lên mười tuổi thì bắt đầu đi học, nhưng sau khi cha chết lại đâm ra
biếng nhác không chịu đọc sách cứ trốn học đi chơi với đám trẻ chăn trâu. Nàng
trách mắng cũng không chừa, kế đánh đòn mà vẫn bướng bỉnh chứng nào tật ấy như cũ.
Nàng không biết làm sao, bèn gọi vào răn dạy, nói: “Nếu ngươi không muốn học
chữ thì làm sao ép được. Nhưng nhà ta nghèo, không ai được ngồi ăn không. Ngươi
phải thay quần áo, theo bọn đầy tớ làm lụng, nếu không thì ta đánh đòn đừng
trách.” Rồi bắt mặc áo rách, sai đi chăn heo, về tới nhà thì phải xách nước nấu
cơm, ăn uống như đám tôi tớ.
Được vài
hôm Phúc thấy khổ quá, tới quỳ trước sân khóc lóc, xin lại đi học. Nàng quay
mặt vào vách im lặng như không nghe thấy, Phúc bất đắc dĩ cầm roi khóc lóc đi
ra. Đến cuối thu Phúc hết đường xoay xở, mình không áo, thân không giày, mưa
lạnh thấu xương, đầu bù tóc rối như ăn mày. Người làng ai thấy cũng thương hại,
những kẻ lấy vợ kế đều lấy việc Tế Liễu làm răn, chê bai dè bỉu đủ điều, nàng
cũng nghe biết song vẫn thản nhiên không hề để ý. Phúc khổ quá chịu không nổi,
bỏ heo trốn đi, nàng cũng mặc kệ không hỏi gì tới. Được vài tháng Phúc không có
chỗ nào cho ăn, tiều tụy tự tìm về nhưng không dám vào nhà, năn nỉ người đàn bà
láng giềng qua nói giúp với mẹ. Nàng nói: “Nếu chịu nổi một trăm gậy thì vào
đây gặp ta, còn nếu không thì cứ đi đi cho sớm,” Phúc nghe thế chạy mau vào
nhà, khóc rống lên xin chịu đòn. Nàng hỏi: “Nay ngươi đã hối lỗi rồi sao?” Phúc
thưa: “Con hối lỗi rồi.” Nàng nói: “Đã biết hối lỗi rồi thì không cần đánh nữa,
cứ về yên phận chăn heo, nếu tái phạm sẽ không tha.” Phúc khóc lớn thưa: “Xin
mẹ cứ đánh một trăm gậy nhưng cho con được đi học lại.” Nàng không nghe, người
đàn bà láng giềng khuyên giải mãi mới ưng thuận. Bèn sai Phúc tắm rửa, cho mặc
áo mới, bắt đi học chung với em là Hỗ, từ đó ra sức học hành, khác hẳn ngày
trước.
Được vài
năm Phúc vào học ở trường tỉnh, có quan Tuần phủ là Dương công đọc thấy văn bài
cho là có tài, hàng tháng cấp thêm tiền gạo giúp đỡ việc học. Hỗ thì rất ngu
độn, đi học mấy năm vẫn không viết được tên họ. Mẹ bắt bỏ học về làm ruộng,
nhưng Hỗ quen sung sướng ngại cực khổ. Mẹ giận nói: “Bốn dân ai cũng phải làm
việc, ngươi đã không thể học lại không muốn cày, há chẳng chết đói nơi ngòi
rãnh à?” Lập tức đánh cho một trận, từ đó bắt theo đám tôi tớ làm ruộng, sáng
nào dậy muộn thì bị chửi mắng. Đồ mặc thức ăn có thứ đẹp cái ngon thì mẹ chọn
dành cho anh, Hỗ không dám nói ra nhưng lòng vẫn tức tối. Hết mùa làm ruộng, mẹ
xuất tiền đưa cho sai theo học buôn bán, Hỗ lại say mê cờ bạc, có bao nhiêu
tiền nướng sạch cả, rồi về đặt điều là gặp phải trộm cướp, đổ cho số phận để
đánh lừa mẹ. Mẹ biết, đánh cho một trận gần chết, Phúc bò rạp xuống năn nỉ xin
chịu đòn thay em, Tế Liễu mới nguôi giận.
Từ đó mỗi
khi Hỗ ra khỏi nhà là mẹ sai người theo dõi gắt gao, nên dần dần cũng tiêu pha
dè sẻn hơn, có điều chỉ là bất đắc dĩ chứ không phải thật lòng muốn như vậy.
Một hôm xin mẹ cho theo bạn buôn tới huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) buôn bán,
thật ra là mượn cớ đi xa để mặc sức chơi bời, nhưng trong lòng lo lắng chỉ sợ
mẹ không chịu. Mẹ nghe nói thản nhiên chẳng nghĩ ngợi gì, đưa ngay cho ba mươi
lượng vàng vụn để làm vốn, rồi đưa thêm một đĩnh vàng lớn, nói: “Đây là của ông
nội ngươi dành dụm lúc làm quan để lại, không được tiêu mất, đưa ngươi dằn túi
để phòng lúc cần kíp thôi. Vả lại ngươi mới học đi buôn, ta cũng chẳng dám mong
lãi nhiều, chỉ cần không bị hụt vào ba mươi lượng vàng này là được rồi.” Lúc Hỗ
lên đường còn dặn đi dặn lại, Hỗ dạ dạ ra đi, vui vẻ đắc ý lắm.
Tới đất
Lạc, Hỗ từ biệt hết các bạn buôn, tới ở nhà ca kỹ họ Lý, chỉ qua hơn mười đêm
đã gần hết ba mươi lượng vàng. Nhưng nghĩ trong túi còn đĩnh vàng lớn nên đầu
tiên chưa lo lắng gì, đến lúc chặt ra trả tiền mới biết chỉ là vàng giả, hoảng
sợ tái cả mặt. Mụ chủ thấy thế buông lời châm chọc mai mỉa, Hỗ vô cùng lo lắng
nhưng túi rỗng không biết xoay xở vào đâu, song nàng ca kỹ còn nghĩ tới tình
nghĩa chưa trở mặt ngay. Giây lát có hai người mang dây sấn vào trói nghiến Hỗ,
Hỗ hoảng sợ không biết vì sao, van vỉ hỏi thăm mới rõ rằng nàng ca kỹ đã ngầm
lấy đĩnh vàng giả sai người đem báo quan. Tới công đường, quan không buồn nghe
thưa bẩm gì cả, cứ sai cùm kẹp Hỗ chết đi sống lại mấy lần rồi hạ ngục. Hỗ
không có tiền bạc gì nên bị bọn ngục tốt đối xử tàn tệ, phải xin cơm của các
bạn tù ăn mới không chết đói.
Hôm Hỗ
lên đường, mẹ nói với Phúc rằng: “Nhớ là hai mươi ngày nữa ta sẽ sai ngươi tới
đất Lạc, ta nhiều việc chỉ sợ quên mất!” Phúc hỏi đi để làm gì thì nàng im lặng
buồn rầu nên không dám hỏi nữa, lặng lẽ lui ra. Sau hai mươi ngày, Phúc tới
hỏi, mẹ than: “Em ngươi bê tha ngày nay cũng như ngươi bỏ học ngày trước vậy,
ta mà không chịu tiếng xấu thì làm sao ngươi được như ngày nay? Mọi người đều
nói rằng ta nhẫn tâm, nhưng việc nước mắt đẫm gối thì họ không biết đó thôi.” Rồi
bật khóc, Phúc chỉ kính cẩn đứng im lặng, không dám hỏi han gì. Mẹ khóc xong
mới nói: “Em ngươi chưa bỏ thói xấu nên ta đưa vàng giả để nó phải chịu khốn
khổ, nay chắc đã bị bắt rồi. Quan Tuần phủ đối xử với ngươi rất tốt, ngươi tới
cầu khẩn thì nó có thể được thoát chết để sống mà hối lỗi.”
Phúc lập
tức lên đường, tới đất Lạc thì em đã bị giam ba ngày rồi. Vội vào ngục tìm,
thấy Hỗ mặt mũi nhọ nhem như quỷ, gặp anh rơi nước mắt không dám ngước nhìn,
Phúc cũng khóc. Lúc ấy Phúc được quan Tuần phủ đối xử rất thân ái, xa gần đều
biết tiếng, quan huyện Lạc Thành biết là anh Hỗ, vội tha Hỗ ra. Hỗ về tới nhà
sợ mẹ giận, đi bằng đầu gối vào gặp. Mẹ ngoảnh lại hỏi: “Ngươi thỏa nguyện rồi
chứ?” Hỗ rơi nước mắt không dám lên tiếng. Phúc cũng quỳ xuống, mẹ mới quát bảo
đứng dậy. Từ đó Hỗ dốc lòng tu tỉnh, chăm chỉ việc nhà, nếu có lúc nào bê trễ
mẹ cũng không trách hỏi gì tới. Suốt mấy tháng không nói tới chuyện đi buôn,
cũng muốn xin với mẹ nhưng không dám, bèn nhờ anh nói hộ. Mẹ nghe thế mừng rỡ,
đem hết tiền bạc giao cho, Hỗ đi buôn nửa năm đã lãi gấp hai. Năm ấy Phúc thi
hương đỗ Cử nhân, ba năm sau lại đỗ Tiến sĩ, em thì buôn bán trở nên giàu có ức
vạn. Trong huyện có người tới đất Lạc, gặp được Thái phu nhân, thấy tuổi đã tứ
tuần mà dung mạo chỉ như mới hơn ba mươi, ăn mặc giản dị như nhà thường dân mà
thôi.
Dị Sử thị nói: Sách Hắc tâm
phù ra đời thì áo hoa lau thay đổi[3],
xưa nay đều giống nhau, thật đáng buồn vậy. Nhưng mẹ kế sợ bị chê bai thì lại
nuông chiều con chồng quá mức, đến nỗi cứ mặc kệ con cái phóng túng không hỏi
tới một câu, nên đã có biết bao nhiêu người bị con chồng ngược đãi rồi! Nếu chỉ
đánh đập con ruột thì người ngoài không cho là ác độc, nhưng đánh con chồng thì
lập tức bị chê trách ngay. Như Tế Liễu không chỉ tàn nhẫn với con chồng mà còn
khiến con ruột mình trở thành người giỏi, nhưng làm sao mà đem tấm lòng ấy giãi
bày với người đời, nên không sợ điều tỵ hiềm, không tránh tiếng ác, rốt lại dạy
được hai con trở nên một đứa sang một đứa giàu, rỡ mặt với đời, cứng rắn ngay
thẳng như thế thì so ra chẳng kém gì đàn ông, chứ đừng nói so với đàn bà.
[3] Thanh di lục chép: “Trưởng sử Lai Châu
là Vu Nghĩa Phương có làm một quyển Hắc tâm phù để truyền lại cho đời sau.” Tâm
phù là từ dùng chỉ người mẹ kế có đức, nên Hắc tâm phù đây chỉ người mẹ kế tàn
ác với con chồng. Áo hoa lau chỉ việc Mẫn Tử Khiên bị mẹ kế ngược đãi, mùa đông
cho hai con mình mặc áo bông, cho con chồng là Mẫn Tử Khiên mặc áo hoa lau. Đây
ý nói khi chuyện mẹ kế tàn ác với con chồng bị dư luận lên án, thì những bà mẹ
kế tàn ác cũng thay đổi thủ đoạn để đối phó với dư luận.
155. Chung sinh
Chung Khánh Dư là danh sĩ ở huyện Liêu Đông (tỉnh Liêu
Dương). Xuống nam thi hương, nghe nói trong vương phủ có vị đạo sĩ biết được
chuyện may rủi của người ta, định tìm tới hỏi. Thi nhị trường xong, tới suối
Báo Đột (thuộc huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thì gặp, thấy là một đạo nhân
hơn sáu mươi tuổi, râu dài tới bụng, tóc bạc phơ phơ. Những người tới hỏi
chuyện số may vận rủi chen chúc đông nghịt xung quanh, đạo sĩ đều miễn cưỡng
trả lời. Chợt nhìn thấy sinh giữa đám đông, ông ta vui mừng cầm tay nói: “Ông
đúng là người tâm tính đức hạnh đáng kính.” Rồi kéo sinh lên gác trò chuyện,
nhân hỏi: “Có phải ông muốn biết tương lai không?” Sinh vâng dạ. Đạo sĩ nói: “Phúc
mệnh của ông rất mỏng, song khoa này thi hương cũng có thể hy vọng, có điều e
rằng thi đỗ rồi lại không được thấy mặt cha mẹ nữa.” Chung vốn có hiếu, nghe
thế rơi nước mắt, muốn bỏ thi trở về. Đạo sĩ nói: “Nếu bỏ thi lần này thì không
bao giờ đỗ nổi Cử nhân nữa.” Sinh đáp: “Mẹ mất không được thấy mặt, thật không
đáng làm người, dẫu làm tới khanh tướng cũng có gì quý?” Đạo sĩ nói: “Kiếp
trước ta có túc duyên với ông, ngày nay xin hết sức giúp đỡ.”
Rồi lấy thuốc trao cho, nói: “Cứ sai người ngày đêm đi gấp về
dâng cho lệnh đường, thuốc này uống vào có thể sống thêm bảy hôm, ông thi xong
trở về mẹ con vẫn còn kịp nhìn thấy mặt nhau.” Sinh nhận thuốc, vội vàng ra về,
lòng dạ rối bời, nghĩ rằng sống chết có ngày giờ, mình về sớm được một ngày thì
phụng dưỡng mẹ nhiều thêm một ngày, liền gọi đầy tớ thuê ngựa tức khắc lên
đường trở về Liêu Đông. Đi được vài dặm bỗng con ngựa quay đầu chạy ngược lại,
đánh thì nó đứng ỳ ra, thúc bàn đạp thì nó khuỵu xuống, sinh toát cả mồ hôi
cũng không làm sao được. Người đầy tớ bèn khuyên sinh ở lại, sinh không nghe,
nhưng thuê con ngựa khác cưỡi thì cũng thế, đến tận chiều tối vẫn không đi
được. Người đầy tớ lại khuyên: “Ngày mai là thi xong, có gấp gì một ngày một
buổi? Ta xin đi ngay mang thuốc về trước thay chủ nhân, thế thì đôi đàng đều
trọn vẹn,” sinh bất đắc dĩ đành nghe theo. Hôm sau vào thi, sinh làm bài qua
loa cho xong rồi lập tức lên đường trở về ngày đêm không nghỉ. Về tới nhà thì
biết bệnh mẹ đang ngặt nghèo nhưng uống thuốc xong cũng hơi giảm. Sinh vào đứng
trước giường rơi nước mắt, mẹ ra hiệu bảo nín khóc, rồi cầm tay sinh vui vẻ nói:
“Mẹ vừa nằm mộng thấy xuống tới âm ty thấy Diêm Vương nét mặt ôn hòa nói rằng:
Xét ngươi bình sinh không phạm tội gì lớn, nghĩ tới con ngươi chí hiếu nên cho
ngươi sống thêm một kỷ (mười hai năm) nữa.”
Sinh cũng mừng, vài ngày sau quả nhiên thấy mẹ khỏe mạnh lại
như cũ. Không bao lâu lại có tin báo thi đỗ, sinh chào mẹ tới đất Tế (tức vùng
Sơn Đông), đút tiền cho quan Nội giám trong vương phủ xin gặp đạo sĩ. Đạo sĩ
vui vẻ ra gặp, sinh bèn lạy tạ. Đạo sĩ nói: “Ông vừa đậu cao, Thái phu nhân lại
được tăng thêm tuổi thọ, đó đều là nhờ ông có đức tốt, chứ bần đạo có tài cán
gì đâu?” Sinh càng phục tài tiên tri, lại xin hỏi việc chung thân. Đạo sĩ đáp:
“Ông không quý hiển lớn được, song được sống lâu là đủ rồi. Kiếp trước ông là
đạo hữu với ta, có lần lấy đá ném con chó, lỡ tay giết chết nó, nay nó đã đầu
thai làm ngựa rồi. Theo số mệnh mà bàn thì lẽ ra ông phải chết sớm, nhưng nhờ
lòng chí hiếu làm cảm động tới thần minh nên đã được giải tinh nhập hạn, chắc
sẽ không hề gì. Nhưng phu nhân kiếp trước là đàn bà không giữ trinh tiết, lẽ ra
kiếp này phải góa chồng sớm, nay ông nhờ có đức được kéo dài tuổi thọ thì lại
không xứng đôi nữa, e rằng sang năm đài gương phải đổ.” Sinh bùi ngùi hồi lâu
rồi hỏi vợ kế của mình ở đâu, đạo sĩ đáp: “Ở Trung Châu (thuộc tỉnh Hà Nam),
năm nay được mười bốn tuổi.” Khi chia tay lại dặn sinh: “Nếu gặp tai họa thì cứ
chạy mau về phía đông nam.”
Hơn năm sau, quả nhiên vợ sinh mắc bệnh chết. Sinh có người
cậu làm Huyện lệnh Tây Giang (tỉnh Quảng Đông), mẹ sai đi thăm. Lúc về tiện
đường sinh ghé qua Trung Châu xem lời tiên đoán của đạo sĩ về người vợ kế có
nghiệm không. Ngẫu nhiên tới một thôn đang có đám diễn tuồng cạnh bờ sông, trai
gái chen chúc đứng xem đông nghẹt, sinh vừa thả cương cho ngựa chậm rãi đi vòng
qua thì bỗng có con ngựa đực đứt cương đuổi theo làm ngựa của sinh vọt chạy.
Sinh ngoảnh lại lấy roi đánh vào đầu con ngựa đực, nó hoảng sợ lồng lên. Lúc ấy
thế tử trong vương phủ mới được sáu bảy tuổi, người vú đang bế ngồi chơi trên
đê, con ngựa đực xông về phía đó, đám tùy tùng đều không kịp chặn lại nên vương
tử bị xô ngã xuống sông. Đám tùy tùng quát tháo ầm ĩ tranh nhau đuổi bắt, sinh
giục ngựa chạy bán sống bán chết, chợt nhớ lời đạo sĩ dặn bèn ra sức chạy về
phía đông nam. Được hơn hai mươi dặm thì vào tới một thôn, thấy có ông già đúng
trước cổng nhà nọ liền xuống ngựa vái chào. Ông già mời vào, tự xưng là họ
Phương rồi hỏi khách từ đâu tới. Sinh quỳ rạp xuấng đất kể lại sự tình, ông già
nói: “Không hề gì, xin cứ nghỉ lại đây,” rồi sai người đi nghe ngóng.
Đến tối được tin mới biết là thế tử trong vương phủ, cả sợ
nói: “Nhà ai khác thì ta còn có thể giúp, chứ cục cưng này thì không làm thế
nào được.” Sinh năn nỉ mãi, ông già ngẫm nghĩ rồi nói: “Quả thật là không giúp
được, nhưng mời khách cứ nghỉ lại qua đêm nay ở đây, nghe ngóng xem tình thế ra
sao mới tính tiếp được.” Sinh buổn rầu lo lắng, cả đêm không chợp mắt. Hôm sau
nghe tin đã có trát nã bắt sinh, ai chứa chấp cũng sẽ bị xử tử. Ông già có vẻ
lo lắng im lặng trở vào, sinh nửa sợ nửa ngờ không sao trấn tĩnh được. Nửa đêm,
ông già qua gõ cửa phòng, vào ngồi một lúc rồi hỏi vợ sinh bao nhiêu tuổi. Sinh
nói là góa vợ, ông già mừng rỡ nói: “Kế ta ắt xong!” Sinh hỏi kế thế nào, ông
đáp: “Anh rể ta mộ đạo Phật, vào núi Nam Sơn tu hành, chị ta nay đã qua đời, để
lại một đứa con gái được người lão bộc chăm sóc cũng khá thông minh, xin gả cho
ông, có được không?” Sinh mừng vì hợp với lời đạo sĩ, lại thành có kẻ thân
thích ở nơi xa, có thể thoát nạn, bèn nói: “Tiểu sinh thật rất may mắn, nhưng
đang là kẻ có tội ở xa nhà, rất sợ làm lụy cả cha vợ.” Ông già nói: “Như thế là
tính kế cho ông đấy. Anh rể ta đạo thuật thông thần nhưng lâu lắm không hỏi tới
việc đời rồi. Có điều đám cưới xong ông cứ bàn với cháu ta, thế nào cũng có
cách mà.” Sinh càng mừng, liền qua nhà cô gái làm lễ cưới.
Cô gái đã mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng, nhưng sinh
cứ thấy mặt lại thở dài. Cô gái hỏi: “Thiếp dù quê mùa xấu xí, nhưng chẳng lẽ
chàng lại ghét bỏ sao?” Sinh tạ lỗi đáp: “Nương tử là người tiên, ta được cưới
làm vợ là may lắm, chỉ vì đang có tai họa nên sợ sẽ có chuyện ngang trái cho
nhau,” rồi kể thật hết sự tình. Cô gái oán cậu không phải là giống người, tai
họa tày trời như vậy mà đã không bàn trước cũng chẳng nói rõ, làm mình sa hầm
sẩy hang. Sinh quỳ rạp xuống nói: “Đây là vì tiểu sinh cố chết lạy lục cầu
khẩn, nên cậu nhân từ nhưng hết cách giúp, chỉ biết nàng có thể cứu sống người
đã chết, đắp thịt cho xương khô thôi. Ta thật không xứng đáng sánh duyên với
nàng, nhưng may mà nhà cửa cũng không đến nỗi nào, nếu được sống sót thì ngày
sau xin lấy hương hoa thờ phụng.” Cô gái than: “Chuyện đã tới nước này thì còn
nói gì nữa! Nhưng cha đã lập chùa để tu, dứt hết lòng yêu thương con cái của
người đời, có điều không còn cách nào thì phải cùng tới đó cầu khẩn, sợ là phải
quỳ một phen cực khổ đây.” Rồi đó nàng thức trắng đêm lấy nệm dày khâu làm đệm
độn vào đầu gối cho hai người, lấy áo dài mặc phủ ra bên ngoài, rồi sai gọi
kiệu lên núi.
Vào Nam Sơn hơn mười dặm thì núi cao đường dốc, quanh co hiểm
trở không sao đi kiệu nữa, phải xuống đi bộ. Cô gái đi rất khó khăn, sinh kéo
tay dìu đỡ, vất vả hồi lâu mới lên tới trên núi. Thấy cổng chùa không còn xa,
bèn cùng ngồi xuống nghỉ chân. Cô gái thở hổn hển, mồ hôi ròng ròng, son phấn
trôi hết, sinh thấy thế thương xót nói: “Vì ta mà nàng phải chịu khổ tới nỗi
này.” Cô gái vừa thở vừa đáp: “Chỉ sợ bấy nhiêu còn chưa phải là khốn khổ đâu.”
Hai người nghỉ giây lát rồi đưa nhau vào chùa, lạy Phật rồi vào trong, quanh co
một lúc thì tới thiền đường. Thấy một nhà sư già ngồi xếp bằng, mắt nhắm nghiền
như người mù, có một tiểu đồng cầm phất trần đứng hầu. Trong phương trượng quét
dọn rất sạch sẽ, nhưng trước chỗ sư ngồi lại bày đầy đá sỏi, la liệt như sao
trên trời. Cô gái không dám chọn lựa gì, bước tới quỳ ngay xuống, sinh cũng quỳ
xuống phía sau. Sư hé mắt nhìn rồi nhắm ngay lại cô gái làm lễ ra mắt rồi nói:
“Lâu rồi không tới thăm cha, nay con vừa lấy chồng, nên đưa chồng con tới chào.”
Hồi lâu nhà sư mới mở mắt nói: “Con vãi con này chỉ làm khổ ta,” rồi lại im
lặng. Vợ chồng quỳ hồi lâu chồn cả chân, đá sỏi nghiến vào đầu gối, đau không
chịu nổi. Lại một hồi lâu sư mới hỏi: “Đã dắt ngựa lại chưa?” Cô gái thưa chưa.
Sư nói: “Vợ chồng về mau đi, dắt nó tới đây ngay.” Hai người lạy rồi đứng lên,
khập khiễng dìu nhau đi, về tới nhà lập tức cho dắt con ngựa của sinh vào núi,
nhưng chỉ làm đúng theo lời sư dặn chứ không rõ ông có ý tứ gì.
Vài hôm sau nghe đồn là đã bắt được tội nhân làm vương tử rơi
xuống sông đem chém, vợ chồng mừng lắm. Liền sau đó trong núi sai tiểu đồng
tới, đưa sinh một đoạn gậy trúc bị chặt đứt, nói: “Kẻ chết thay là ông này đấy,”
rồi bảo sinh cúng tế để giải oan cho cây trúc. Sinh nhìn thì thấy chỗ bị chặt
có vết máu, bèn khấn khứa rồi chôn cất: Nhưng vợ chồng cũng không dám ở đó lâu,
nên ngay trong đêm đưa nhau về Liêu Dương.