Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển V - Chương 088

088. Cừu Đại Nương

(Cừu Đại Nương)

Cừu Trọng người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) không rõ phủ huyện, gặp loạn bị
giặc bắt đi. Có hai trai là Phúc và Lộc còn nhỏ, vợ kế là Thiệu thị chăm sóc
đôi trẻ mồ côi, may nhờ sản nghiệp của Trọng để lại cũng được ấm no, nhưng gặp
mấy năm mất mùa liên tiếp, lại bị cường hào lấn áp đến nỗi không giữ được mà
ăn. Chú của Trọng là Thượng Liêm thấy cháu dâu cải giá thì có lợi cho mình,
thường khuyên lấy chồng nhưng Thiệu thị thề giữ chí không lay chuyển. Liêm ngầm
hẹn với một nhà đại tộc, định cưỡng ép nàng, bàn bạc đã xong mà người ngoài vẫn
không ai biết.

Trong làng có tên Ngụy là kẻ gian giảo quỷ quyệt từ lâu có hiềm khích
với nhà Trọng, có chuyện gì cũng nghĩ cách phá đám, nhân Thiệu thị ở góa bèn
phao tin nhảm để bêu xấu. Nhà đại tộc nghe được, cho Thiệu thị là người không
có đức bèn thôi. Lâu ngày mưu của Liêm và lời đồn đại bên ngoài cũng tới tai
Thiệu thị, nàng buồn rầu uất sớm tối sa lệ dần dần tay chân tê bại nằm liệt
giường. Phúc đã mười sáu tuổi, vì trong nhà không có người khâu vá nên vội lo
việc lấy vợ, hỏi cưới con gái Tú tài Khương Dĩ Chiêm, có tiếng hiền thục đảm
đang, việc nhà đều nhờ nàng lo toan xếp đặt, nhờ vậy nhà cũng hơi dư dật, bèn
cho Lộc đi học.

Ngụy ghen ghét nhưng làm ra vẻ thân thiện, nhiều lần mời Phúc uống rượu,
Phúc thấy thế coi Ngụy như bạn thân. Ngụy nhân dịp nói: “Lệnh đường bệnh nằm
liệt giường không thể coi sóc việc nhà, chú em thì chỉ ngồi ăn không làm được
việc gì, hai vợ chồng việc gì phải nai lưng ra làm trâu ngựa? Lại lúc chú em
cưới vợ thì còn tốn kém nhiều nữa chứ. Tính kế cho ông chẳng bằng cứ sớm ra
riêng, thì chú em sẽ phải nghèo chứ ông sẽ giàu có”. Phúc về bàn với vợ, vợ cho
là nói bậy. Nhưng Ngụy cứ rủ rỉ xúi giục ngày này tháng khác, mưa dầm thấm sâu
nên Phúc nghe theo, bèn nói thẳng ý ấy với mẹ. Mẹ tức giận chửi mắng, Phúc càng
tức tối, cho rằng tiền bạc thóc gạo trong nhà chẳng qua chỉ là của người khác
nên không ngó ngàng gì tới nữa.

Ngụy thừa cơ rủ rê Phúc cờ bạc, thóc trong kho cứ vơi dần, vợ biết nhưng
chưa dám nói, đến lúc hết thóc ăn, mẹ giật mình hỏi mới nói thật. Mẹ giận lắm
nhưng không làm sao được, đành cho Phúc ra ở riêng. May là cô gái họ Khương
hiền đức, sáng chiều vẫn qua lại lo cơm nước hầu hạ mẹ như trước. Phúc đã ra
riêng càng không nể sợ gì nữa, thả sức cờ bạc, chỉ trong vài tháng đã bán sạch
ruộng vườn nhà cửa để trả nợ chơi bời mà mẹ và vợ vẫn chưa biết. Khi tiền bạc
đã hết sạch, không còn cách nào bèn làm tờ gán vợ để vay tiền mà không ai chịu
nhận.

Trong huyện có Triệu Diêm La vốn là tên cướp lớn lọt lưới, ngang ngược
nhất vùng nên không sợ Phúc nuốt lời, thản nhiên cho vay. Phúc cầm tiền đi, vài
ngày thì thua sạch, đang ngần ngừ định bội ước thì Triệu đã trừng mắt nhìn.
Phúc cả sợ, lừa dắt vợ tới giao cho Triệu. Ngụy nghe tin mừng thầm, chạy ngay
tới nói với nhà họ Khương, rắp tâm làm cho họ Cừu lụn bại. Khương tức giận phát
đơn kiện, Phúc sợ quá bèn bỏ trốn. Cô gái họ Khương tới nhà Triệu mới biết là
bị chồng lừa bán, khóc lớn chỉ muốn chết ngay. Triệu ban đầu còn dỗ dành nhưng
nàng không nghe, kế ra oai quát nạt thì nàng càng mắng chửi, cả giận đánh đập
nàng cũng không chịu khuất phục, rút trâm cài đầu tự đâm vào cổ họng, vội tới
cứu thì đã lút vào thực quản, máu phun ra. Triệu vội lấy lụa băng bó cho nàng,
còn nghĩ cứ để thong thả sẽ khuất phục được.

Hôm sau có trát quan tới đòi, Triệu thản nhiên lên hầu như không có
chuyện gì. Quan khám thấy vết thương của cô gái rất nặng, sai nọc Triệu ra
đánh, nhưng đám lính cứ nhìn nhau không dám ra tay. Quan nghe đồn Triệu ngang
ngược đã lâu, đến lúc ấy càng tin, cả giận gọi người nhà ra đánh Triệu chết
luôn tại chỗ, Khương bèn cáng con gái về. Từ khi họ Khương đi kiện, Thiệu thị
mới biết Phúc hư hỏng tới mức ấy, gào khóc cơ hồ đứt hơi rồi nhắm mắt ngất đi.
Bấy giờ Lộc mười lăm tuổi, một mình lúng túng không biết làm sao.

Trọng có một gái con vợ trước là Đại Nương gả chồng xa, tính khí cương
cường, mỗi khi về thăm mà thức ăn vật dùng không vừa ý thì cãi vã với cha mẹ
rồi giận dữ bỏ đi, Trọng vì thế giận ghét, lại vì đường xa nên có khi vài năm
không một lần thăm hỏi. Lúc Thiệu thị bệnh nặng, Ngụy muốn gọi nàng tới để gây
ra việc tranh giành của cải, gặp lúc có người lái buôn ở cùng làng với Đại
Nương bèn thác cớ nhắn tin, lại mừng rằng nhà này thế là tan nát.

Vài hôm sau quả nhiên Đại Nương dắt một đứa con nhỏ tới, vào nhà thấy em
nhỏ hầu mẹ ốm, quang cảnh rất thảm đạm, bất giác mủi lòng. Nhân hỏi tới Phúc,
Lộc kể hết đầu đuôi, Đại Nương nghe thấy giận nghẹn cổ nói: “Nhà không có người
lớn nên để cho người ta giày xéo đến như thế! Ruộng vườn nhà ta sao bọn ăn cướp
dám lừa chiếm lấy?”. Rồi xuống bếp chụm lửa nấu cháo bưng lên mời mẹ trước, kế
gọi em và con cùng ăn. Ăn xong giận dữ ra đi, tới huyện nộp đơn kiện bọn cờ
bạc. Cả bọn sợ góp tiền đút lót Đại Nương, nàng nhận tiền nhưng vẫn kiện.

Quan cho bắt tên Giáp, tên Ất... đánh đòn quở trách nhưng không hỏi tới
việc ruộng vườn. Đại Nương căm tức không thôi, dắt con lên thẳng lên quận. Quận
thú rất ghét cờ bạc, Đại Nương hết sức bày tỏ nỗi cô khổ cùng tình trạng bị bọn
cờ bạc lừa đảo, lời lẽ thống thiết. Quận thú động lòng, ra lệnh cho quan huyện
truy thu ruộng vườn cấp lại cho chủ cũ và trừng phạt Cừu Phúc làm gương cho bọn
hư hỏng. Sau khi nàng về, quan huyện được lệnh ráo riết thi hành nên nhà cửa
ruộng vườn cũ lấy lại được hết. Lúc ấy Đại Nương góa chồng đã lâu, bèn bảo đứa
con nhỏ về nhà, dặn phải theo anh lo làm ăn không được tới nữa. Đại Nương từ đó
ở lại nhà mẹ, nuôi mẹ dạy em, xếp đặt trong ngoài đâu vào đấy. Mẹ được an ủi
rất nhiều, dần dần khỏi bệnh, việc nhà giao cả cho Đại Nương.

Bọn cường hào trong làng có hơi lấn lướt thì nàng vác dao tới tận cửa
cứng cỏi đấu lý, kẻ nào cũng phải nhụt. Hơn một năm thì ruộng vườn ngày càng
tăng, thỉnh thoảng lại mua thuốc men và thức ngon vật lạ gởi cho cô gái họ
Khương. Lại thấy Lộc dần trưởng thành, nhiều lần dặn mối lái tìm nơi cưới hỏi.
Ngụy nói với mọi người rằng: “Sản nghiệp nhà họ Cừu đều giao cho Đại Nương, e
rằng sau này không lấy lại được”, mọi người tin theo nên không ai muốn kết
thông gia với họ Cừu. Có công tử Phạm Tử Văn, nhà có khu vườn nổi tiếng nhất ở
đất Tấn, các loại hoa quý trong vườn trồng dọc hai bên đường chạy thẳng vào nhà
trong. Có người không biết lỡ đi vào, gặp lúc gia đình công tử đang ăn tiệc,
ông nổi giận bắt trói bảo là kẻ trộm, đánh cho gần chết.

Gặp tiết Thanh minh, Lộc từ trường học trở về, Ngụy rủ đi chơi, dắt tới
chỗ ấy. Ngụy vốn quen người coi vườn nên được cho vào, đi xem khắp cả đình tạ.
Giây lát tới một chỗ nước khe chảy cuồn cuộn, có chiếc cầu vẽ lan can màu đỏ
thông vào cánh cổng sơn đen, từ xa nhìn tới thấy hoa rậm như gấm, là nơi phòng
sách của công tử. Ngụy lừa nói: “Anh cứ vào trước, ta đi tiểu một chút”. Lộc
tin bèn bước lên, qua cầu vào cửa, tới một dãy viện thì nghe tiếng con gái cười
nói. Vừa dừng chân thì có một tỳ nữ ra, nhìn thấy Lộc lập tức quay gót trở vào,
Lộc mới sợ hãi bỏ chạy. Giây lát công tử bước ra quát người nhà lấy dây thừng
đuổi bắt, Lộc bí quá nhảy luôn xuống khe. Công tử hết giận bật cười, sai đầy tớ
xuống dắt lên.

Thấy mặt mũi y phục của Lộc đều phong nhã, ông sai đem áo và giày ra cho
thay rồi dắt vào một ngôi đình hỏi họ tên, thái độ hết sức niềm nở thân mật.
Lát sau công tử đi nhanh vào trong rồi trở ra ngay, tươi cười dắt tay Lộc đi,
qua cầu dần tới chỗ lúc nãy. Lộc không hiểu ý thế nào, dùng dằng không dám
bước, công tử cố kéo vào. Thấy sau giậu hoa thấp thoáng có người đẹp nhìn trộm,
vừa ngồi xuống thì các tỳ nữ dọn rượu lên. Lộc từ tạ nói: “Trẻ con không biết
gì, đi lầm vào chốn khuê các, được khoan xá là đã mừng lắm, chỉ mong được cho
về sớm thì đội ơn vô cùng”, nhưng công tử không nghe. Giây lát thức ăn bày lên
la liệt, Lộc lại đứng lên từ tạ là đã no say rồi. Công tử kéo ngồi xuống, cười
nói: “Ta có một cái tên từ khúc, nếu ông đối được xin cho đi ngay”. Lộc dạ dạ
xin cho biết. Công tử nói: “Phách tên Chẳng hề giống”, Lộc ngẫm nghĩ hồi lâu
rồi đối: “Bạc đúc Biết làm sao”. Công tử cười lớn nói: “Quả đúng là Thạch
Sùng!”*, Lộc không hiểu gì cả.

*Công tử nói... Thạch Sùng: nguyên
văn hai vế đối trên là: “Phách danh Hồn bất tự, Ngân thành Một nại hà”. Vế
trước lấy tích Chiêu Quân có chiếc đàn tỳ bà bị hỏng, sai làm chiếc khác, khi
dâng lên thì bé hơn chiếc trước, Chiêu Quân cười nói: “Chẳng hề giống chiếc
trước” (Hồn bất tự), người sau nhân lấy đó đặt tên cho một bản nhạc, vì ngoa
truyền nên có khi gọi là: “Hồn phát tứ”. Vế sau lấy tích nhà Trương Tuần, Vương
Tuấn thời Tấn có nhiều bạc, cho đúc thành hình quả cầu, mỗi quả là một ngàn
lượng, gọi tên là: “Biết làm sao” (Một nại hà), ý nói quá giàu có. Thạch Sùng
là người thời Tấn, nổi tiếng phú gia địch quốc.

Thì ra công tử có con gái tên Huệ Nương, xinh đẹp lại biết chữ, vẫn tìm
chỗ gả chồng cho. Đêm trước nàng mơ thấy một người nói: “Chồng ngươi là Thạch
Sùng”, hỏi ở đâu thì đáp: “Ngày mai sẽ rơi xuống nước”, sáng ra kể với cha, mọi
người đều lấy làm lạ. Vừa gặp việc Lộc rất hợp với giấc mơ nên công tử mời vào
nhà trong cho phu nhân và đàn bà con gái trong nhà xem mặt. Công tử nghe câu
đối của Lộc rất mừng, nói: “Tên phách nhạc là do tiểu nữ đặt ra, nghĩ mãi mà
không đối được, nay mới được câu đối hay, cũng là duyên trời. Ta muốn để cháu
làm người nâng khăn sửa túi cho ông, vả lại tệ xá cũng không thiếu nơi ở, không
dám làm phiền phải rước dâu”. Lộc bối rối từ tạ lại lấy cớ mẹ đang ốm không ở
rể được. Công tử bảo cứ về bàn lại rồi sai mã phu thắng ngựa mang áo quần ướt
đưa Lộc về.

Về tới nhà Lộc kể với mẹ, mẹ sợ cho là việc bất tường, từ đó mới biết
Ngụy là kẻ hiểm độc nhưng vì gặp việc dữ mà được điều lành nên cũng không đem
lòng thù oán, chỉ khuyên con nên xa lánh đừng giao thiệp với y nữa mà thôi. Qua
vài hôm công tử lại cho người đến ngỏ ý với mẹ Lộc, rốt lại bà vẫn không dám
nhận lời, Đại Nương bèn nhận lời rồi nhờ hai bà mối đi nộp sính lễ cho nhà công
tử. Không bao lâu Lộc tới gởi rể ở nhà công tử, qua năm sau được vào học trường
huyện nổi tiếng tài giỏi. Em vợ dần dần lớn lên, không kính trọng anh rể như
trước nữa. Lộc tức giận bèn đưa vợ về nhà mình. Lúc ấy mẹ đã chống gậy đi lại
được mấy năm liền nhờ có Đại Nương trông nom nên nhà cửa cũng khang trang.

Cô dâu mới đã về, tớ trai tớ gái tấp nập, rõ ra có phong thái đại gia.
Ngụy bị tuyệt giao lại càng ghen ghét, giận không vạch lá tìm sâu gì được để
hãm hại, gặp lúc có bọn cướp lớn đang bị truy nã bèn vu cáo Lộc giấu giếm tiền
bạc cho chúng, Lộc bị xử đày ra ngoài cửa ải. Phạm công tử đút lót từ trên tới
dưới chỉ xin miễn cho Huệ Nương khỏi bị đi đày, còn ruộng vườn nhà cửa đều bị
sung công. May là Đại Nương cầm giấy chia gia tài lên quan cãi lý, bao nhiêu
ruộng vườn mới mua thêm đều đứng tên Phúc nên mẹ con mới được ở yên. Lộc nghĩ
mình không trở về được nữa bèn làm giấy ly hôn đưa cha vợ rồi lẻ loi lên đường.

Đi được vài ngày tới đất Bắc Đô, vào ăn trong quán, thấy có người ăn mày
khép nép ngoài cửa, mặt mũi rất giống anh mình, ra hỏi thì đúng là anh. Lộc kể
chuyện mình, anh em đều buồn thảm. Lộc mở hành lý chia cho Phúc ít tiền bảo về
nhà. Phúc rơi lệ nhận rồi chia tay.

Lộc tới cửa ải được sung làm lính hầu cho tướng quân, vì là học trò yếu
ớt nên được giữ việc biên chép sổ sách, ăn ở chung với đám tôi tớ. Bọn họ hỏi
han gia thế, Lộc kể hết, trong bọn có một người cả kinh nói: “Đúng là con ta
rồi”. Thì ra Cừu Trọng ban đầu bị bọn cướp sai chăn ngựa, về sau chúng bỏ trốn,
Trọng bị bắt đày ra cửa ải làm đầy tớ cho tướng quân. Trọng thuật lại rõ đầu
đuôi, cha con mới nhận ra nhau bèn ôm nhau khóc, mọi người đều mủi lòng. Không
bao lâu, tướng quân bắt được vài mươi tên cướp lớn, trong có một tên chính là
kẻ trước đây Ngụy vu cáo là bè đảng của Lộc. Kế lấy lời cung của y xong, hai
cha con kêu khóc với tướng quân. Tướng quân dâng sớ rửa oan cho, vua biết
chuyện bèn ra lệnh cho quan địa phương chuộc lại ruộng đất trả lại họ Cừu, cha
con đều mừng rỡ. Lộc hỏi số người trong nhà để tính cách chuộc mình cho cha mới
biết từ khi theo hầu tướng quân Trọng đã hai lần lấy vợ mà không có con, lúc ấy
lại vừa góa vợ. Lộc bèn sắm sửa hành trang về quê.

Trước đó Phúc chia tay em về tới nhà, khúm núm sụp lạy xin chịu tội. Đại
Nương rước mẹ lên ngồi nhà trên, cầm gậy hỏi Phúc: “Ngươi chịu đánh đòn thì có
thể tạm cho ở lại còn không thì ruộng vườn nhà cửa của ngươi đã hết sạch, đây
cũng không phải chỗ người xin ăn, mời xéo ngay!”. Phúc khóc lạy xuống đất xin
chịu đòn, Đại Nương vứt gậy xuống nói: “Cái người đã bán vợ thì ta cũng chẳng
thèm đánh đòn, nhưng án cũ vẫn chưa xóa, nếu tái phạm cứ báo quan thôi!”, rồi
lập tức cho người qua báo tin cho họ Khương. Cô gái họ Khương mắng: “Ta là
người gì của nhà họ Cừu mà phải báo tin!”, Đại Nương cứ nhắc đi nhắc lại câu ấy
để đay nghiến Phúc, Phúc hổ thẹn không dám lên tiếng.

Suốt nửa năm Đại Nương cho Phúc đủ ăn đủ mặc nhưng bắt làm việc như tôi
tớ, Phúc cũng làm lụng không hề oán trách, có giao cho tiền bạc cũng không dám
bừa bãi. Đại Nương xét thấy không có ý gì khác, bèn thưa với mẹ mời cô gái họ
Khương về. Mẹ cho rằng không sao làm nàng hồi tâm lại được, Đại Nương nói:
“Không phải thế, nếu người ta chịu thờ hai chồng thì đã không tự chuốc lấy đau
đớn khổ sở, chứ không thể không có nỗi uất hận ấy”, rồi dắt em trai qua chịu
tội. Ông bà nhạc trách mắng hết lời, Đại Nương quát bắt Phúc quỳ xuống rồi mới
xin gặp mặt cô gái. Mời ba bốn lần nàng vẫn khăng khăng từ chối không chịu ra,
Đại Nương kéo ra thì nàng chỉ mặt Phúc mắng nhiếc. Phúc thẹn toát mồ hôi, không
sao tha thứ được cho mình, bà Khương mới kéo Phúc, bảo đứng lên. Đại Nương xin
cho biết ngày trở về, cô gái nói: “Trước nay chịu ơn chị rất nhiều, nay chị dạy
như thế đâu dám nói gì khác nhưng sợ không giữ được khỏi bị bán lần nữa. Vả
chăng ân nghĩa đã dứt, còn mặt mũi nào ăn ở với đứa vô lại xấu xa ấy nữa? Muốn
xin chị cho một chỗ ở riêng, thiếp qua đấy phụng dưỡng mẹ già còn hơn cạo đầu
đi tu là đủ”. Đại Nương nói hộ là Phúc đã ăn năn, hẹn ngày mai qua đón rước rồi
chào về.

Sáng hôm sau cho kiệu qua đón cô gái về, mẹ ra đón ở cổng quỳ lạy, cô
gái cũng sụp lạy khóc lớn. Đại Nương khuyên lơn an ủi, dọn tiệc ăn mừng, bảo
Phúc ngồi cạnh bàn rồi nâng chén rượu nói: “Ta tranh giành khổ sở không phải để
mưu lợi cho mình. Nay em đã hối lỗi, vợ hiền đã trở về, xin đem sổ sách giao
lại, ta tới tay không thì cũng về tay không”. Vợ chồng đều rời bàn tiệc đứng
dậy, nghiêm trang vái lạy khóc lóc năn nỉ, Đại Nương bèn thôi. Không bao lâu
lệnh rửa oan về tới, chỉ vài ngày ruộng vườn nhà cửa lại trở về chủ cũ. Ngụy
kinh hãi không biết vì sao, tự giận mình không còn kế gì để thi thố. Gặp lúc
nhà láng giềng phía tây bị cháy, Ngụy lấy cớ chữa cháy chạy qua, ngầm lấy mồi
rơm đốt nhà Lộc, gió lại thổi mạnh cháy lan gần hết, chỉ còn hai ba gian nhà
của Phúc, cả nhà phải ở chung vào đó ít lâu sau Lộc về, gặp nhau mừng mừng tủi
tủi.

Lúc trước Phạm công tử nhận được tờ ly hôn, đem bàn với Huệ Nương, Huệ
Nương khóc ròng xé nát vứt xuống đất, cha chiều ý không ép nữa. Lộc về nghe nói
nàng chưa cải giá mừng rỡ tới nhà nhạc gia, công tử biết nhà Lộc vừa bị cháy,
mượn giữ ở lại đó nhưng Lộc không chịu, cáo từ ra về. May là Đại Nương còn tiền
cất được bèn đem ra sửa nhà, Phúc vác mai đi đào đất đắp nền, đào phải hầm tiền
chôn. Đêm đến cùng em ra đào thì là một cái bể xây bằng đá rộng khoảng một
trượng chứa đầy tiền đồng, nhờ đó mướn thợ xây nhà, lầu gác san sát tráng lệ
sánh ngang nhà đại gia. Lộc nhớ ơn tướng quân, sắp ra ngàn vàng để chuộc cha.
Phúc xin đi, nhà bèn cho đầy tớ khỏe mạnh theo hầu. Lộc đón Huệ Nương về, ít
lâu sau cha và anh cùng về, cả nhà vui vẻ tưng bừng.

Đại Nương từ khi về ở nhà mẹ thì cấm con tới thăm để tránh tiếng, nay
cha đã về liền quyết ý xin đi, hai em không nỡ để chị đi. Cha bèn chia gia sản
làm ba, con trai hai phần con gái một phần. Đại Nương từ tạ không nhận, hai em
rơi nước mắt nói: “Hai em không có chị thì làm gì có được ngày nay!”. Đại Nương
bèn ở lại, sai người gọi con dọn nhà về ở chung. Có người hỏi Đại Nương rằng
chị em khác mẹ sao gắn bó như vậy, Đại Nương đáp: “Biết có mẹ mà không biết có
cha, chỉ có cầm thú mới thế thôi? Là người sao lại bắt chước giống vật chứ”.
Phúc và Lộc nghe nói đều chảy nước mắt. Rồi sai thợ làm nhà cho Đại Nương, cũng
rộng lớn như nhà mình.

Ngụy nghĩ hơn mười năm tìm cách gây họa mà hóa ra lại là tạo phúc cho
người, rất hổ thẹn áy náy. Lại ngưỡng mộ họ Cừu giàu có, muốn làm thân bèn lấy
cớ mừng Trọng mới về, đưa lễ vật qua mừng. Phúc muốn từ chối nhưng Trọng không
nỡ phật ý bèn nhận gà rượu. Gà có buộc dây vải ở chân, sổng ra chạy vào bếp,
lửa bén vào dây vải, gà nhảy lên đống củi đậu, đám tôi tớ đều nhìn thấy nhưng
chưa để ý. Lát sau đống củi bốc cháy, cả nhà hoảng sợ, may có đông người nhiều
tay xúm lại dập tắt được ngay nhưng đồ đạc trong bếp đã cháy sạch, anh em đều
bảo đồ vật của Ngụy là không lành.

Sau đó gặp ngày mừng thọ của Trọng, Ngụy lại biếu con dê, từ chối không
được phải buộc dê vào gốc cây ngoài sân. Đến đêm có đứa tiểu đồng bị tên đầy tớ
đánh, tức giận chạy ra gốc cây mở sợi dây buộc dê tự treo cổ chết. Anh em than
rằng: “Y làm phúc lại không bằng y gây họa”, từ đó tuy Ngụy vẫn ân cần, nhưng
nhà Trọng không dám nhận đến một sợi chỉ, chỉ đối xử với y thật tốt mà thôi.
Sau Ngụy già nghèo khổ phải đi ăn mày, nhà họ Cừu vẫn lấy ơn trả oán, chu cấp
cho cái ăn cái mặc.

Dị Sử thị nói: Ôi, tạo vật quả thật rất không theo ý người. Càng thù ghét
thì càng đem phúc tới cho, sự gian trá của kẻ kia không thể nói là quá đáng
được! Nhưng mong được y thương yêu kính trọng thì lại gặp tai họa, chẳng cũng
lạ ư? Thế mới biết nước suối Đạo Tuyền*, vốc một vốc thì nhơ bẩn một
vốc.

* Đạo Tuyền: tên một con suối ở
tỉnh Sơn Đông, “Đạo” có nghĩa là trộm cướp Tương truyền Khổng Tử đi ngang suối
ấy khát nước nhưng không chịu uống vì ghét tên suối, người ta dùng tích này để
chỉ việc kẻ quân tử tự trọng thân phận trong hành động. Đây có ý nói nên thận
trọng trong việc giao du với người xấu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3