Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển V - Chương 089 - 090
89. Lý Bá Ngôn
(Lý Bá Ngôn)
Lý sinh tên Bá Ngôn là người huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông), cương trực
can đảm. Chợt mắc bệnh nặng, người nhà mang thuốc cho uống, Lý từ chối nói:
“Bệnh của ta không phải là thuốc mà chữa được, vì chức Diêm Vương ở âm ty bị
khuyết nên ta tạm đi giữ ấn triện thôi, đừng chôn ta, cứ để đấy đợi”. Hôm ấy Lý
chết, thấy có nghi trượng tới đón đi, vào tới một nơi cung điện có người dâng
áo mão Diêm Vương, nha lại đứng hầu rất nghiêm chỉnh.
Trên bàn sổ sách chất đống, có một vụ án là tên Mỗ ở Giang Nam, tính lại
bình sinh đã cưỡng gian tám mươi hai người đàn bà con gái nhà lương thiện, tra
xét thì thấy đủ cả chứng cứ không sai, xét theo luật âm ty phải chịu tội bào
lạc. Dưới thềm có cây cột đồng cao tám chín thước, chu vi khoảng một ôm, ruột
rỗng để đổ than lửa vào đó, trong ngoài đều đỏ rực. Đám quỷ tốt lấy chùy sắt có
gai nhọn đánh giải Mỗ tới, bắt giang tay khuỳnh chân trèo lên. Lên tới đỉnh cột
thì khói bốc mù mịt, đoàng một tiếng nổ tung ra như ống pháo tre, thân thể rơi
xuống, nằm co quắp một hồi mới tỉnh lại. Đám quỷ tốt lại đánh bắt trèo lên, lại
nổ ra rơi xuống như lần trước, tới lần thứ ba chỉ còn là một đám khói là là mặt
đất rồi tan ra, không sao còn có thể trở thành hình người nữa.
Lại tới một vụ khác, là Vương Mỗ người cùng huyện, bị cha người tỳ nữ
kiện là bắt cóc con gái, Vương vốn là thông gia với sinh. Trước là có một người
bán tỳ nữ, Vương biết là y bất chính nhưng thấy giá hời bèn mua về. Đến lúc ấy
Vương bị bạo bệnh chết, hôm sau bạn Vương là Chu lại gặp bên đường, biết là ma
bỏ chạy về nhà, Vương cũng theo vào. Chu sợ hãi ra gặp hỏi định làm gì. Vương
đáp: “Phiền ông xuống làm chứng giùm dưới âm ty”, Chu kinh ngạc hỏi làm chứng
việc gì, Vương đáp: “Ta mua tỳ nữ theo đúng giá, nay bị vu là bắt cóc, việc này
chính ông chứng kiến, xin nói cho một câu làm tin, không cần nói gì khác”. Chu
cố từ chối, Vương bỏ ra nói: “Sợ chuyện này thì ông không làm chủ được thôi”.
Không bao lâu quả nhiên Chu chết, cùng bị giải tới Diêm Vương đối chất.
Lý thấy Vương trong lòng ngầm có ý thiên vị, chợt trên nóc điện có ngọn lửa
bùng lên, rường cột cháy phừng phừng, Lý cả sợ đứng bật dậy, viên lại ngầm bước
tới sau lưng nói: “Âm ty không phải như dương thế, không thể có một chút ý niệm
riêng tư, xin ông bỏ ngay ý ấy thì lửa sẽ tự tắt”. Lý bèn ngưng thần gạt bỏ tạp
niệm, ngọn lửa tắt ngay. Kế hỏi cung, vương và cha người tỳ nữ tranh cãi không
thôi, hỏi Chu thì Chu cứ theo sự thật thưa lên. Vương bị kết án cố ý phạm tội,
phạt đánh gậy, đánh xong Lý sai đem cả về cho hồi sinh. Vương và Chu đều chết
ba ngày rồi sống lại.
Lý xét việc xong, có xe kiệu đưa về, giữa đường gặp một bọn vài trăm
người sứt đầu cụt chân nằm rạp dưới đất van xin. Lý dừng xe hỏi thì là ma quỷ
chết xa quê muốn trở về nhưng sợ dọc đường bị ngăn trở, xin dẫn đường cho. Lý
nói: “Ta coi việc Diêm Vương chỉ có ba ngày, nay đã thôi giữ chức, làm sao giúp
được”. Đám ma nói: “Hồ sinh ở thôn nam sắp lập đàn chay tế độ, xin ông nói
giùm”, Lý ưng thuận. Về tới nhà thì tùy tùng đều quay đi, Lý mới sống lại.
Hồ sinh tự Thủy Tâm chơi thân với Lý, nghe nói Lý sống lại bèn tới thăm,
Lý hỏi ngay lúc nào mở đàn chay. Hồ kinh ngạc nói: “Sau cơn binh lửa, ta may mà
vợ con được vô sự, hôm trước bàn với bà nó định làm điều tâm nguyện ấy nhưng
chưa từng nói với một ai, sao ông biết được?”. Lý kể lại mọi chuyện, Hồ than:
“Một câu vừa thốt ra trong phòng kín mà đã đồn đại khắp chốn u minh, thật đáng
sợ!”, rồi cung kính nhận lời mà về.
Hôm sau Lý qua nhà Vương, Vương còn nằm bệnh, thấy Lý vào lập tức kính
cẩn đứng lên tạ ơn đã che chở giúp đỡ cho. Lý nói: “Pháp luật không thể nương
nhẹ tha thứ gì cả, nay ông may vẫn không sao chứ?”. Vương đáp: “Nay thì không
bị gì khác, chỉ những chỗ bị đánh thì làm mủ thôi”. Hơn hai mươi ngày sau mới
lành hẳn, thịt thối ở mông rụng ra, còn lại những vết sẹo như lằn gậy in xuống
vậy.
Dị Sử thị nói: Hình phạt dưới âm ty còn thảm độc hơn trên dương thế, khiển
trách cũng nặng nề hơn, nhưng không ai can thiệp xin xỏ gì được nên kẻ chịu
hình phạt thảm khốc cũng không hờn oán. Ai dám nói nơi mộ huyệt không có ánh
sáng mặt trời? Ta chỉ hờn không có ngọn lửa nào thiêu đốt sảnh đường trị dân
trên dương thế mà thôi.
090. Hoàng Cửu Lang
(Hoàng Cửu Lang)
Hà Sư Tham tự Tử Túc làm phòng học ở phía đông Thiều Khê (ở núi Thiên Mục
tỉnh Chiết Giang). Cửa nhà học nhìn ra cánh đồng rộng, xế chiều ngẫu nhiên ra
ngoài thấy có người đàn bà cưỡi lừa đi tới, một thiếu niên theo sau. Người đàn
bà khoảng năm mươi tuổi, phong thái nhàn nhã, thiếu niên thì khoảng mười lăm
mười sáu, phong tư xinh đẹp còn hơn cả giai nhân. Hà sinh vốn có bệnh thích đàn
ông, thấy thiếu niên điên đảo cả thần hồn, nhón chân nhìn theo đến khi mất hút
mới trở về.
Hôm sau lại ra đứng đón, đến sẩm tối thiếu niên mới tới. Sinh niềm nở
bước ra đón, cười hỏi đi đâu về, thiếu niên đáp là từ nhà ông ngoại về. Sinh
mời vào nghỉ chân, thiếu niên từ chối nói là không rảnh, sinh lôi kéo mãi bèn
vào, ngồi giây lát lại đứng lên cáo từ, không thể giữ lại được. Sinh dắt tay
đưa ra, ân cần dặn lúc nào tiện đường cứ ghé chơi, thiếu niên dạ dạ rồi đi.
Sinh từ đó cứ ngơ ngẩn nhớ nhưng, ra vào trông ngóng cả ngày.
Một hôm lúc mặt trời đang lặn thiếu niên chợt tới, sinh cả mừng mời vào,
sai tiểu đồng dọn rượu tiếp đãi. Hỏi tên họ, thiếu niên đáp là họ Hoàng, bày
vai thứ chín, vì còn nhỏ nên chưa có tên tự. Hỏi sao hay qua lại đường này,
thiếu niên đáp: “Mẹ ta ở bên nhà ông ngoại, hay có bệnh nên ta phải qua thăm”.
Rượu được vài tuần thì cáo từ ra về, sinh nắm tay giữ lại, khóa chặt cửa, Cửu
lang không biết làm sao, bẽn lẽn ngồi xuống lại. Sinh thắp đèn cùng trò chuyện,
thấy thiếu niên nhỏ nhẻ như con gái, buông lời chọc ghẹo thì càng có vẻ thẹn
thùng, quay mặt vào vách. Lát sau cùng đi ngủ, sinh ôm chặt lấy vuốt ve mơn
trớn đòi này nọ. Cửu lang tức giận nói: “Ta cho rằng ông là kẻ sĩ phong nhã nên
mới qua lại, nay lại làm như thế thật chẳng khác gì cầm thú”. Không bao lâu,
sao trời chỉ còn thưa thớt, Cửu lang bỏ về. Sinh sợ Cửu lang sẽ tuyệt giao, lại
ra cửa chờ, qua lại đăm đăm trông ngóng.
Qua mấy hôm Cửu lang mới tới, sinh ra đón tạ lỗi, ép kéo vào nhà, giục
ngồi trò chuyện cười nói, thầm lấy làm may mắn vì Cửu lang không để bụng chuyện
cũ. Cửu lang nói: “Tình thương yêu của ông ta đã khắc sâu vào lòng, nhưng thân
ái đâu cứ phải làm thế”. Rồi đang đêm ra về, sinh buồn bực như mất vật quý,
quên ăn bỏ ngủ, ngày càng héo hắt, chỉ hàng ngày sai tiểu đồng ra cổng chờ đợi.
Một hôm Cửu lang ngang qua cổng, định đi thẳng luôn nhưng tiểu đồng ra nắm áo
kéo vào. Thấy sinh tiều tụy, Cửu lang kinh sợ hỏi han. Sinh kể thật đầu đuôi,
nước mắt rơi lã chã. Cửu lang nói nhỏ: “Cái ý thương mến nhau ấy thật đáng cảm
kích, nhưng đã chẳng ích lợi gì cho đệ mà còn làm hại cho ông, nên không muốn
thôi. Chứ nếu ông đã thích thì ta có tiếc gì”.
Sinh cả mừng, Cửu lang đi rồi thấy bệnh tật phút chốc tiêu tan. Vài hôm
hoàn toàn bình phục rồi quả nhiên Cửu lang lại tới, cùng nhau vui vầy rồi nói:
“Nay nể lòng chiều ông, xin đừng làm như thế nữa”. Kế nói: “Có việc muốn nhờ,
không biết ông có chịu giúp không”, sinh hỏi việc gì, Cửu lang đáp: “Mẹ ta bị
đau tim, chỉ có Tiên thiên đan của quan Thái y Tề Dã Vương chữa được, ông chơi
thân với ông ấy chắc sẽ xin được”, sinh hứa sẽ xin cho. Lúc Cửu lang ra đi lại
dặn dò, sinh bèn vào thành xin thuốc, chiều tối mang về. Cửu lang mừng rỡ cảm
ơn ca ngợi, nói: “Xin tìm cho ông một mỹ nhân, còn hơn đệ gấp vạn lần”. Sinh
hỏi là ai, Cửu lang đáp: “Đệ có người biểu muội xinh đẹp vô song, nếu ông ưng
thuận đệ sẽ làm mai cho”.
Sinh cười khẽ không đáp, Cửu lang cầm thuốc về. Ba hôm sau lại tới xin
thuốc, sinh giận vì tới muộn, lời lẽ có ý bực túc. Cửu lang nói: “Bản ý vốn
không muốn làm hại ông nên không tới thường, nay ông đã không rộng lượng cho,
thì xin đừng hối hận”. Từ đó tối nào cũng vui vầy với nhau, mà cứ ba ngày lại
xin thuốc một lần. Tề lấy làm lạ vì cứ xin mãi, nói: “Thuốc này ai uống ba lần
cũng khỏi bệnh, sao lâu quá vẫn không khỏi thế?”, rồi lấy ba tễ trao cả cho,
lại nhìn sinh nói: “Ông khí sắc tối tăm, có bệnh phải không?”, sinh đáp:
“Không”. Tề bèn cầm tay bắt mạch, giật mình nói: “Ông có quỷ mạch, bệnh ở mạch
Thiếu âm, nếu không tự gìn giữ thì chết đấy”.
Sinh về kể lại, Cửu lang than: “Quả thật là danh y, nói thật ta là hồ,
sợ không phải là điều may cho ông”. Sinh ngờ là dối trá nên giấu bớt thuốc lại
không đưa hết vì sợ Cửu lang không tới nữa. Không bao lâu quả nhiên sinh bị bệnh,
rước Tề tới xem, Tề nói: “Trước đây ông không nghe ta, nay thần khí đã tan tác,
thầy giỏi nào chữa được nữa?”. Cửu lang hàng ngày tới chăm sóc, nói: “Không
nghe lời ta, quả đến nông nỗi này”, kế sinh chết, Cửu lang khóc lớn rồi đi.
Trước là trong huyện có Thái sử Mỗ lúc trẻ cùng học với sinh, năm mười
bảy tuổi đã làm Hàn lâm. Lúc ấy phiên vương đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) tham bạo
mà thích ăn của đút, các quan trong triều không ai dám nói. Ông bèn dâng sớ hặc
tội, bị kết tội quá phận cách chức. Phiên vương lại được thăng chức Tuần phủ
tỉnh ấy, hàng ngày cứ rình ông sơ hở để bắt tội. Ông lúc trẻ có tiếng tài giỏi,
có một phiên vương làm phản coi trọng, lúc ấy Tuần phủ bắt được thư từ qua lại
giữa đôi bên đem tới uy hiếp, ông sợ treo cổ tự tử, phu nhân cũng tự thắt cổ
chết.
Qua đêm chợt ông sống lại nói: “Ta là Hà Tử Túc”. Người nhà hỏi han thấy
đều nói chuyện nhà họ Hà, biết là Hà mượn xác hoàn hồn, giữ lại không được bèn
cho về nhà cũ. Tuần phủ ngờ là gian trá, cũng muốn đẩy vào chỗ chết bèn sai
người tới đòi ngàn vàng, sinh giả vâng dạ nhưng vô cùng lo lắng.
Chợt Cửu lang tới, cùng nhau mừng rỡ trò chuyện, vừa mừng vừa tủi. Kế
lại muốn cùng vui vầy với nhau, Cửu lang nói: “Ông có tới ba mạng sống à?”, sinh
đáp: “Ta hối vì sống lo chẳng bằng chết sướng”, nhân kể lại chuyện oan khổ. Cửu
lang nghĩ ngợi rồi nói: “May mà ông còn sống lại gặp nhau. Ông còn chưa có vợ,
trước ta đã nói biểu muội xinh đẹp đa mưu, có thể giúp ông”. Sinh muốn gặp mặt
một lần, Cửu lang nói: “Không khó, ngày mai nàng cùng tới thăm mẹ ta, cũng đi
qua đây, ông giả làm anh của đệ, ta sẽ giả khát vào xin nước uống. ông cứ nói
Lừa chạy mất rồi, thế là xong”. Bàn tính xong Cửu lang ra về.
Gần trưa hôm sau quả nhiên Cửu lang cùng một nữ lang đi ngang cổng, sinh
ra chắp tay trò chuyện dằng dai, liếc thấy nữ lang mắt phượng mày ngài, quả
thật xinh đẹp như tiên. Cửu lang đòi uống trà, sinh mời vào nhà, Cửu lang nói:
“Tam muội đừng ngại, đây là anh em kết nghĩa của anh, ghé vào nghỉ một chút
không hề gì”, rồi đỡ nàng xuống, buộc lừa ngoài cổng cùng vào. Sinh tự pha trà
mời, đưa mắt nhìn Cửu lang nói: “Trước đây ông nói chưa đủ đâu, hôm nay đúng là
ta được chỗ để chết rồi”. Cô gái như biết nói tới mình, rời ghế đứng phắt dậy,
khẽ nói: “Đi thôi”.
Sinh nhìn ra ngoài nói: “Lừa chạy mất rồi”. Cửu lang vội vàng chạy ra.
Sinh ôm cô gái đòi giao hoan, cô gái đỏ bừng cả mặt mày, lính quýnh như con chó
bị nhốt, gọi Cửu huynh nhưng không thấy đáp, bèn nói: “Chàng đã có vợ rồi, sao
lại làm mất danh tiết người ta”, sinh bèn phân trần rằng mình không có vợ, nàng
nói: “Nếu dám thề rằng không phụ rẫy nhau, thì thiếp xin vâng lời”. Sinh bèn
chỉ lên mặt trời thề thốt, cô gái bèn không chống cự nữa. Xong đâu đấy rồi Cửu
lang bước vào, cô gái hầm hầm nét mặt trách mắng, Cửu lang nói: “Đây là Hà Tử
Túc, trước là danh sĩ, nay là Thái sử, chơi thân với anh. Người này có thể
nương tựa được, nếu cậu mợ nghe thấy chắc cũng không phiền giận gì đâu”. Trời
xế chiều, sinh giữ lại không cho đi, cô gái sợ cô lo lắng, Cửu lang nhận sẽ lo
hết rồi lên lừa ra đi.
Được vài hôm, có người đàn bà dắt một tỳ nữ tới, tuổi trạc bốn mươi,
phong nhã xinh đẹp giống hệt Tam nương. Sinh gọi cô gái ra xem thì quả là mẹ
nàng. Bà nhìn con gái kinh ngạc hỏi sao lại ở đây, nàng thẹn thùng không đáp, sinh
bèn mời vào lạy chào rồi kể rõ. Người đàn bà cười nói: “Cửu lang thật là tính
khí trẻ con, sao không bàn trước”. Cô gái vào bếp làm thức ăn mời mẹ, bà ăn
xong rồi về. Sinh từ khi lấy được vợ đẹp trong lòng vui sướng, nhưng nỗi lo
lắng còn đó nên thường chau mày nghĩ ngợi. Cô gái hỏi, sinh kể rõ đầu đuôi, nàng
cười nói: “Chuyện đó thì một mình Cửu huynh cũng giúp được, chàng việc gì phải
lo”. Sinh hỏi nguyên do, nàng đáp: “Nghe nói quan Tuần phủ thích thanh sắc,
chuyện thằng nhãi con ngu ngốc ấy thích đều là sở trường của Cửu huynh. Đem cái
y thích mà dâng, thì thù oán gì mà y không bỏ qua”. Sinh sợ Cửu lang không
chịu, cô gái nói: “Phải năn nỉ thôi”.
Qua hôm sau, sinh thấy Cửu lang tới, bèn khép nép ra đón, Cửu lang ngạc
nhiên nói: “Hai đời giao du đã biết rõ nhau, dù cho tan xương nát thịt cũng
không dám tiếc, sao lại đối xử với nhau như thế?”. Sinh kể lại việc mình và vợ
bàn tính, Cửu lang có vẻ ngần ngừ, cô gái nói: “Thiếp thất thân với Hà lang là
vì ai gây nên? Nếu để Hà lang nửa đường đứt gánh thì thiếp sẽ ra sao?”, Cửu
lang bất đắc dĩ phải ưng thuận. Sinh bèn cùng Cửu lang bàn tính, gởi thư tới
bạn thân là Vương Thái sử, lại gởi gắm Cửu lang.
Vương hiểu ý, mở tiệc lớn mời Tuần phủ tới, sai Cửu lang mặc y phục đàn
bà ra múa khúc Thiên ma vũ, xinh đẹp như con gái. Tuần phủ thích lắm, xin Vương
cho trả nhiều tiền để mua Cửu lang nhưng vẫn sợ không được. Vương làm ra vẻ
nghĩ ngợi như khó xử, ngần ngừ hồi lâu rồi tỏ ý sinh muốn dâng Cửu lang. Tuần
phủ vui mừng không căm giận gì sinh nữa, từ khi được Cửu lang, ăn ngủ gì cũng
có nhau, có hơn mười người thiếp trẻ đẹp đều coi như đất bùn, cung phụng cái ăn
cái mặc cho Cửu lang như bậc vương giả, ban cho vàng bạc hàng vạn lượng. Được
nửa năm Tuần phủ ngã bệnh, Cửu lang biết là sắp chết bèn chở hết vàng bạc gấm
vóc về nhà sinh. Kế Tuần phủ chết, Cửu lang bỏ tiền ra xây nhà cửa mua tôi tớ,
mẹ con cùng cậu mợ đều tới đó ở chung. Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu
cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ.
(Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất
sang trọng, mọi người không ai biết là hồ). Ta có đùa bình một bài, cũng chép
cả vào đây.
Trai gái ở chung, là đạo thường chồng vợ, khô ướt thông suốt, ấy khiếu
chính âm dương. Chờ trăng đón gió* còn chuốc danh nhơ, cắt áo chia
đào**, khó che tiếng xấu. Người đều là lực sĩ, đường chim bay mới được
mở ra, động chẳng phải Đào Nguyên, sào ngư phủ sao cho chọc xuống. Nay Mỗ theo
lối dưới mà quên trở lại, bỏ đường chính mà chẳng đi theo. Mây mưa chưa hừng,
trên dưới liền tay sờ mó, âm dương ngược thế, trong ngoài cứ thế làm gian. Ao
hoa thành chốn không dùng, nói bậy sư già nhập định, động Mán là vùng không cỏ,
lại sai tướng chột vung gươm.
* Chờ trăng đón gió: nguyên văn
là: “nghênh phong đãi nguyệt”, chữ trong câu thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường:
“Đãi nguyệt Tây sương hạ, Nghênh phong hộ bán khai” (Chờ trăng hiên thấp mái,
Đón gió cửa không cài), đây chỉ việc hẹn hò trai gái.
** Cắt áo chia đào: nguyên văn là:
“đoạn tụ” và “phân đào”, Hán Ai đế sủng ái Đổng Hiền, có lần ngủ chung trở dậy
thấy Đổng Hiền nằm đè lên tay áo mình, bèn cắt tay áo để Đổng Hiền không bị mất
giấc ngủ. Vệ Linh công sủng ái Di Tử Hà, có lần cùng dạo trong vườn, Di Tử Hà
hái một trái đào chín, cắn một miếng rồi đút cho Vệ Linh công. Đây chỉ việc đàn
ông thích đàn ông.
Buộc Xích thố ngoài viên môn, như toan bắn kích*”, mò cung lớn
trong quốc khố, những muốn phá rào**. Hay là nhà Giám mộng cá vàng***,
thăm tri giao đêm trước, rõ ràng họ Vương dùi mận đỏ****, đòi báo đáp
kiếp sau. Rừng Hắc Tùng người ngựa thường qua, vốn là yên ổn, phủ Hoàng Long
nước triều chợt tới, lấy gì chặn ngăn. Phải chặt đứt cây gậy đâm xoi, mà nút
kín con đường đưa đón.
*Buộc Xích thố... bắn kích: lấy
tích Lữ Bố thời Hậu Hán bắn kích giải hòa cho Lưu Bị và Kỷ Linh tướng của Viên
Thuật, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn
ông.
**Mò cung lớn... phá rào: lấy tích
Dương Hổ thời Xuân thu lấy trộm cung lớn trong quốc khố, nghĩa bóng chỉ quan hệ
tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.
*** Nhà Giám mộng cá vàng: Nhĩ đàm
chép Vương Tế tửu ở Nam Kinh thân thiết với một viên Giám sinh, người ấy nằm mơ
thấy có con cá chiên vàng từ đũng quần rơi ra, kể lại với bạn bè. Đám Giám sinh
đùa nói: “Giấc mơ của Mỗ rất nhiêu khê. Chuyện cá chiên vàng xoi vào mông rất
đáng ngờ, chắc là Vương học sĩ đang đêm tới thăm người thương”.
**** Họ Vương dùi mận đỏ: Tấn thư,
Vương Nhung truyện chép nhà Vương Nhung có cây mận ngon, Vương hái quả bán
nhưng sợ người ta lấy giống, nên trước khi bán là dùng kim đâm phá hỏng hạt
mận, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.