Ta Đã Làm Chi Đời Ta - Chương 3 - Phần 2

“Thế còn cái nhà này?” Oanh vội hỏi.

“Vẫn giữ chứ! Tôi sẽ đi đi về về, lo gì!”

“Nhưng…” Hoàng ngần ngừ. “Lên đường theo ngả nàng bây giờ đây? Xuống Nam Định chưa tiện.”

“Chẳng Nam thì Bắc! À… mà cô Tạ bên Dương Ổ đang chờ bọn mình. Sang đó yên ổn lắm.”

Oanh đồng ý ngay. Chỉ có Hoàng là bối rối. Nguy quá! Lại Bắc du thật sao?

Nhưng gẫm cho kỹ, Thứ lang nói cũng phải. Nên xa Hà Nội ít lâu cho nhẹ bớt phần nào những cát bụi phồn hoa. Về quê! Về quê? Ừ thì về quê. Bất chấp đó là quê mình hay quê người khác. Cứ nói tới hai chữ “về quê”, mình đã nghe như phần phật gió lên rồi.

Mà gió lên thật, mới chết chứ! Ông Hòe chủ báo Thanh nghị hôm nọ vừa ứng trước một trăm đồng để lấy vở kịch thơ Hồng Điệp in vào số Tết. Hôm đó Hoàng đang viết giở màn thứ hai, nay viết xong rồi, chỉ việc nhắn ông ta xuống lấy kịch và trao nốt số tiền. Nhà xuất bản Anh Hoa ở đầu phố Hàng Than lại xin ấn hành cả ba vở kịch thơ: Vân Muội, Trương Chi và Hồng Điệp, vào một tập. Vân Muội, Trương Chi đã sẵn rồi, bây giờ có Hồng Điệp là ký giao kèo được quá. Nghĩ đến đây Hoàng cao hứng, quên phắt ngay những liên hệ rắc rối bên làng Ó từ tháng Tư năm ngoái, quên luôn cả một vài ràng buộc ở Hà đô, nhất là mối ràng buộc với nhà ông Bá, mong manh như sương khói mà dai dẳng vô cùng.

Thế là Oanh thu xếp hành trang, cùng đi với Hoàng sang Kinh Bắc…

Còn nhớ, ngay từ buổi gặp Oanh lần thứ nhất, Hoàng đã cảm thấy bằng giác quan thứ sáu rằng đây là người sẽ giúp mình đi cho hết cuộc đời, làm cho trọn cái nghiệp thi sĩ; chứ không như những thiếu nữ khác chỉ lướt qua, chỉ hiện đến theo kiểu “bóng giai nhân” trên sân khấu. Hoàng đã xúc động, ghi lại bằng bốn chữ “thiên đường lại mở”; để rồi mấy tuần sau hoàn tất bài thơ lấy bốn chữ này làm nhan đề:

Vườn tưởng trọn mùa hoang phế

Còn thơm một nụ Quỳnh hoa

Lịch tưởng trọn giòng hoen lệ

Còn tươi một ánh dương hòa

Chừ đây xuân thắm lòng tang

Dưới gót chân em bừng nở

Từ nay đời ấm từng trang

Dưới búp tay em lần giở

Em ơi! Một sớm trao tình

Đã nhẹ sầu thương nửa kiếp

Thuyền Thơ buộc khóe thu xinh

Kìa xứ hoa nồng bướm đẹp

Ánh trăng hiền hậu bao nhiêu

Ngọc sáng mười phương tinh tú

Là đây bờ cõi Tình yêu

Nàng cặp môi đào hé nụ

Lòng em còn ngát hương duyên

Đỏ thắm như lòng Trái Đất

Tình ta còn mới y nguyên

Như buổi Thiên đường chưa mất

Lắng nghe em niềm mong nhớ

Dâng ngời sóng mắt đê mê

Em ạ Thiên Đường lại mở

Chờ ta chắp cánh bay về [3].

[3] Bài Thiên đường lại mở cũng có trong tập Rừng phong.

***

Thế là hai người lên đường. Khởi điểm: Đầu cầu Dốc Gạch – cũng gọi văn vẻ là cầu Long Biên. Lý do: Từ nhà xuất bản Anh Hoa, cuối Hàng Than, quặt ra Hàng Đậu, đi thêm mấy bước là đến đầu Cầu ngay; gần lắm! Nhưng Oanh và Hoàng bàn nhau, quyết định dùng xe kéo làm phương tiện du lịch chứ không nhờ xe lửa mà Hoàng vẫn đùa gọi là “xe của nhà”. Lẽ thứ nhất: bây giờ đã nhọ mặt người, mặt trời lặn hẳn rồi, còn chuyến xe lửa nào lên Bắc nữa đâu! Lẽ thứ hai: nhiều hành lý quá; vác lên xe xuống xe thì cũng gắng được; nhưng xuống ga Chùa Lim rồi còn phải cuốc bộ hàng cây số kia mà! Lại đường làng mấp mô, trăng sao như hư như thật; vác nặng e hơi khó, và nhất định chẳng nên thơ chút nào. Chi bằng lấy hai cái xe kéo là thượng sách. Ờ! Không biết Oanh mang đi những gì mà lắm thế! Quần áo thay đổi này, áo chấn thủ, áo “pu-lơ-vơ” này, áo ngự hàn này… đủ thứ! Riêng Hoàng, vừa Âu phục vừa quốc phục cũng đã phiền toái lắm rồi. Lại còn cả chăn, gối, màn, nệm, và cả ấm chén bát đĩa. Y như dọn nhà ấy thôi! Phải xe kéo mới đến được tận nơi chứ! Mà nếu phải hạ xa ngay từ đầu làng thì đã có các bác xa phu khuân vác hộ. Trả giá cao là các bác ấy bằng lòng, khó gì đâu! Vả chăng, Hoàng đã từng kinh nghiệm mấy phen rồi, lần thì đi một mình, lần thì đem cả Mạnh Phú Tư ngồi chung xe cho vui – như trên đã ghi chép – quãng đường này Hoàng quá quen thuộc, kể cả đường sắt, đường đá chạy dài sóng đôi nhau. Xe kéo tiện lợi thật!

Dầu sao, chuyến đi này cũng khác hẳn những chuyến trước. Không ai nóng lòng sốt ruột cả. Hai bác phu xe cứ việc thong thả, kéo đi bước một cũng chẳng sao. Chốc chốc lại nghỉ, đỗ xe và xuống xe cùng vào quán bên đường uống nước chè tươi, hút thuốc lào, và… ăn các thứ bánh: bánh giò, bánh dày, bánh rán, bánh gai, v.v. Đói thật sự thì ăn cơm, lúc nào và quán nào cũng sẵn sàng cả.

Thỉnh thoảng Oanh và Hoàng lại rủ nhau đi bộ một quãng cho đỡ tê chân, mặc dầu càng về khuya cái gió cuối-tháng-Một càng lạnh dữ.

Quanh quẩn thế nào mãi quá trống hai mới tới được cổng làng. Thiên hạ đã ngủ hết rồi thì phải. May rằng Hoàng là người quen, nên mọi sự trôi chảy êm đẹp. Trẻ con mắt nhắm mắt mở kéo nhau ra xem, rồi ùa cả đi thông báo với gia đình cô Tạ.

Cứ tíu tít cả lên. Nắm tay nhau mừng mừng rỡ rỡ, cô ấy hỏi dồn dập đến cả chục câu, Oanh không sao trả lời kịp. Thế rồi cô Cân đi thắp đèn “măng-xông”; cô Kéo xuống bếp làm cơm đãi khách. Hoàng bảo đã ăn no rồi, nhưng đời nào họ chịu nghe. Khách đến nhà bất cứ lúc nào, việc đầu tiên của chủ nhân phải là mời khách ăn cơm uống rượu. Phong tục ở đây mà! Khách từ chối đâu có được!

“Quý hóa quá!” – lời cô Tạ – “bác Oanh với bác Hoàng vẫn chưa quên chúng em”.

“Chỉ sợ làm phiền hai cụ và các cô thì có!”

Vừa lúc ấy, ông thân của các cô từ gian nhà ngang đi lên. Ông này đã từng sang Hà Nội và tới Hoàng ngưu hạng đón con, nên Hoàng với Oanh chẳng cần khách sáo nữa. Chủ nhân bảo: Hai bác cứ tự nhiên, coi như ở nhà. Khách cũng bảo nhau: Mình cứ tự nhiên…

Nghĩa là ăn uống thật tình. Rồi xếp hành lý vào một góc, mai hãy hay. Nửa đêm rồi còn gì nữa. Trăng hạ tuần vừa nhô khỏi bụi tre.

Hoàng uống có ba chén rượu “Con Hươu” mà thấy chuếnh choáng. Mắt cứ díp lại. Chẳng hiểu Oanh với cô Tạ nằm ở phòng trong kể cho nhau nghe những câu chuyện gì thú vị đến nỗi không giữ được tiếng cười khúc khích vang ra tận nhà ngoài. Hoàng ngủ lịm đi theo con dốc êm đềm của cơn say và những gợn sóng âm thanh hồn hậu trong trẻo đó.

Nhưng chỉ được hai hôm. Sang đến ngày thứ ba thì chẳng còn gì cầm giữ được khách “giang-hồ-vặt” ở lại Dương Ổ nữa. Thăm đình, thăm chợ cũng thăm rồi; xem các cô làm giấy Bản, giấy Dó cũng xem chán mắt rồi. Lúc chưa ra đi, cứ tưởng đâu Thứ lang hữu lý: ở quê yên ổn tĩnh mịch, nhất là quê của người quen, thì ở cả tháng cũng được, ăn Tết với họ nữa càng vui. Ai ngờ sự thật trái ngược hẳn. Buồn quá! Oanh và Hoàng bảo nhau: “Cả ba chị em nhà này đều thực thà tử tế; ông cụ bà cụ lại hiền lành, chiều khách; nhưng buồn không thể chịu nổi. Chúng ta đành phụ lòng họ mất thôi. Chứ họ định giữ mình lại đến qua Giêng thì mình đến chết vì buồn mất”.

Vả lại, riêng phần Hoàng, được các cô cho biết từ khi Mây về nhà chồng, nàng không phải làm lụng vất vả như trước; gia đình nhà chồng giàu có hơn gia đình Mây nhiều, giàu vào bậc nhất nhì trong vùng. Do đó Mây dạo này tươi lắm kia!

Và… cũng do đó, Hoàng càng muốn lên đường ngay đi khỏi làng Dương Ổ tức khắc.

***

Ghé vào tỉnh lỵ Bắc Ninh có một hôm, Oanh và Hoàng thẳng đường đến Bắc Giang bằng xe lửa. Được cái bao hành lý cồng kềnh đã gửi hết ở Dương Ổ, vì còn hẹn trở về đấy du xuân, dự các hội hè đình đám kia mà! Lên mạn trên có việc, chỉ đến Tết hay ngoài giêng mấy thôi, mang nhiều thứ đi làm gì, phiền phức lắm.

Ấy là nói thế chứ cả Oanh và Hoàng, nào ai có việc gì cần phải lên “mạn trên” đâu. Tiện chỗ thì ghé, hết hứng thì lại ra đi. Từ Bắc Ninh ngược cho mãi tới Lạng Sơn, Đồng Đăng, Na Sầm, Cao Bằng, thiếu gì nơi nghỉ bước. Và cũng thiếu gì phong cảnh đẹp, bạn bè thân! Chẳng lẽ không phiêu lưu được nổi vài tháng hay sao chứ?

Yên trí nhất ở chỗ Oanh không bao giờ đòi về. Đi đâu cũng được, càng xa càng hay. Mọi chuyện lặt vặt đã có Hoàng lo liệu. Tiền trong túi còn đến bạc trăm. Tiêu hết ngay thế nào được! Xê dịch thì hoặc đi bộ, hoặc đi “xe lửa của nhà”, chẳng tốn kém gì hết. Chỉ phải mua quà bánh cho người quen, nhưng xét ra các bạn của Hoàng chẳng ai thiết quà bánh. Cứ đề tặng một cuốn Mây là họ thích thú nhất rồi. Cho nên gói sách cứ phải đem theo chứ không gửi lại Dương Ổ. May một điều Mây in bằng giấy bản, nhẹ cứ như không ấy thôi!

Xuống Bắc Giang ngao du quanh quẩn đến bốn ngày. Gia đình của Nguyễn Đức Chính, bút hiệu Phiêu Linh, ở đầu tỉnh thì phải; mà đủ cả vườn tược ao chuôm, tha hồ rộng. Anh chàng Phiêu Linh chả biết phiêu bạt đi tận đâu, chỉ có ông thân và hai em ở nhà. Tuy nhiên, điều đó không can hệ. Gia đình này biết Oanh và Hoàng quá rồi. Phiêu Linh, trước tiên là bạn của Thứ lang, hồi 1938 đã cùng viết cho nhà xuất bản Tân Việt; sau trở thành bạn của Hoàng, khi anh ta làm quản lý cho nhà xuất bản Lượm Lúa Vàng, giao thiệp với các văn hữu chỉnh đốn lắm. Còn nhớ lúc in tập Tóc chị Hoài của Nguyễn Tuân, trà đình ca quán lu bù… Rồi cao hứng định in luôn cả kịch thơ Trương Chi của Hoàng nữa. Mặc dầu về sau vốn cạn, không in được, nhưng tiền tác giả vẫn chu tất xong xuôi. Chẳng trách nhà Lượm Lúa Vàng chỉ hoạt động được nửa năm là vỡ nợ! Đâu có vững như nhà Tân Dân, nhà Đời Nay!

Mất điểm tựa, Phiêu Linh lại phải chạy ngược chạy xuôi đi tìm một “ông chủ nhà xuất bản” khác, hay nói cho đúng hơn, đi tìm một người sẵn tiền sẵn bạc để đưa lên chức vị này. Hai em của Phiêu Linh tạm thời xuống tá túc Hoàng ngưu hạng. Cậu em trai – cậu Chỉnh – nhanh nhẹn dễ thương, mê thơ văn như điếu đổ, suốt ngày cứ tập diễn kịch thơ một mình. Cô em gái – cô Lũy – mới mười bốn tuổi, cũng ngoan ghê! Oanh từ chối mọi sự giúp đỡ của Lũy về phương diện bếp nước; chỉ trao độc có một nhiệm vụ: tối tối đọc chuyện Chinh đông hay Thất kiếm thập tam hiệp cho cả nhà nghe. Chuyện thuê ở ngoài đầu ngõ, thiếu gì! Hình như đọc được đến cả chục bộ; qua bộ Bồng lai hiệp khách, đang dở dang thì ông thân từ Bắc Giang xuống đón hai anh em về. Kết quả là cho đến bây giờ – hai mươi tám năm sau – Hoàng cũng không biết rằng Kim Hồ Điệp có lấy được Ngọc Kỳ Lân hay không, và “ân oán giang hồ” liệu có trang trải như ý độc giả!

Tái ngộ với Hoàng và Oanh ngay tại tỉnh nhà, cậu Chỉnh, cô Lũy mừng lắm. Dẫn đi khắp tỉnh để khoe. Vào cả rạp hát tuồng để Hoàng tìm nữ kịch sĩ Lệ Thanh, người đã từng hợp tác với Ban Kịch Hà Nội trong vở kịch Cái tủ chè của Vũ Trọng Can, và nghe nói lúc bấy giờ đang chung sống với một nghệ sĩ chuyên sắm vai Lã Bố, nổi tiếng vùng này. Cũng vào cả “lầu thơ” của nữ sĩ tác giả Bức tranh quê. Hôm đó hình như có cuộc họp thơ, nữ chủ nhân cho trải chiếu ra sân để các thi hữu ngồi uống trà, tiếng ngâm thánh thót vang ra đến tận cổng. Đúng điệu lắm! Vui lắm! Nhưng Hoàng chẳng còn giữ được kỷ niệm nào. Có lẽ vì ngoài nữ chủ nhân, Hoàng chẳng nhận được mặt nào quen trong buổi họp.

Ra ga Phủ Lạng Thương (phủ sở tại của tỉnh Bắc Giang là Lạng Giang, nhưng vì kế cận sông Thương nên ga này mới được đặt tên như vậy), Oanh và Hoàng bịn rịn mãi mới chia tay được cùng anh em cô Lũy để lên xe lửa đi ngược hướng Bắc. Giữa trưa thì đến ga Kép; “xếp ga” chẳng phải ai khác hơn nhà thơ họ Đào, tác giả tập Mấy nét mơ ấn hành vào khoảng 1936-1937. Đào quen thân với Hoàng từ lúc cả hai còn theo bậc trung học; rồi sau lại trở thành đồng nghiệp, kể cả nghiệp thơ và nghiệp hỏa xa. Gặp nhau ở Kép sự vui mừng khó bút nào tả xiết, một phần cũng bởi từ khi Đào quân lập gia đình, chưa lần nào có dịp để ông ta giới thiệu “tân giai nhân” với Hoàng cả. Nay có dịp thì “giai nhân” đã tay bồng tay mang; ông ta càng hãnh diện đem ra khoe với bạn cũ.

Thế là Hoàng có bạn và cô Oanh cũng có bạn. Nằm lỳ cả tháng ở đây được rồi. Lúc nào buồn Hoàng sẽ lấy cờ “xếp ga” ra phất, còi “xếp ga” ra thổi.

Có lần Hoàng rủ Oanh lấy một chuyến tàu buổi chiều, ngược tít mãi tới ga Đồng Mỏ mới nhảy sang chuyến tàu xuôi quay về. Bên ngoài toa xe quạnh vắng, sương khói mơ hồ chạy theo một vầng trăng vàng ửng giống như một trái cam Bố Hạ đang rụng về đâu không biết nữa, ngoài Trái Đất, hẳn rồi!

Và Hoàng ngâm lên tám câu thơ vừa nghĩ được – chẳng những cho Oanh nghe mà thôi! – đó là tám câu Đường luật:

Đôi lứa ban đầu mất Lạc viên

Cho ta ngàn kiếp nhớ thiên duyên.

Chiều nay mộng thắm vừa tơ nối

Vườn cũ ngôi vùng lại gió lên

Mây nước dâng cao hồn chắp cánh

Trần ai rũ sạch nẻo về tiên.

Bao la trăng động niềm ân ái

Giọng hót chim trời líu ríu men.

Thấm thoát đã ngày ông Táo lên chầu Trời. Nghĩa là ở Kép đến già nửa tháng; chưa Tết mà ngày nào cũng vui như Tết. Đào Quân tìm đủ mọi cách giết thời giờ: gieo cá ngựa, đấu ping-pong [4], v.v. Cũng giết khá nhiều gà vịt nữa. Tráng miệng thì sẵn cam Bố Hạ ngọt lịm, chất đầy mấy gầm giường. Thế rồi ngao du các đồi núi chung quanh. Chẳng cần chủ nhân phải hướng dẫn, khách cứ tự tiện rong chơi, quý hồ không được đi đâu lâu tới ba ngày và bắt buộc phải lưu lại ăn Tết ở Kép.

[4] Trong số các bạn ping-pong (bóng bàn), có cả thi sĩ Bàng Lân, vì ông này cũng ở phố Kép và cũng là bạn thơ của Đào Quân.

Cho nên sau ngày hai mươi ba tháng Chạp, Hoàng gửi Oanh cho chị Dung – nội tướng của Đào quân – xuống Hà Nội định thăm nhà nữa. Nam Định vẫn yên, lão mẫu vẫn khỏe mạnh; thế là Hoàng chẳng phải lo gì. Còn Hà Nội và Thứ lang? Cũng không hoặc chưa có gì đáng ngại. Nhân dịp ghé tòa soạn tạp chí Thanh Nghị để lấy số Tết vừa in xong, Hoàng lại được thêm 20 đồng về “Bài ca Dị hỏa” đăng ở số này, cùng với vở kịch Hồng Điệp. Hoàng tự nhủ: Thôi, tiền này để dành làm vốn đánh Tam cúc trong mấy ngày Tết, thua nhẵn cũng không sao!

Trở lại Kép thì ai nấy đã sửa soạn đón năm mới. Chừng như gió bớt lạnh, và mặc dầu xa Hà Nội, xa Nam Định, Hoàng vẫn cảm thấy không bơ vơ chút nào. Nhất định Hoàng còn tốt số hơn Nguyễn Bính!

Đào Quân lại cho biết rằng có một vị chủ đồn điền ở bến Mỏi tên là Phúc thấy nói Hoàng ở Kép đã nhắn tin mời Hoàng vào chơi. Hoàng được tin chỉ muốn đi ngay, nhưng Đào Quân không chịu, bắt phải ăn Tết đâu đây đã, rồi có đi hãy đi.

Thế là trưa mồng Hai, cơm nước xong, Hoàng diện quốc phục, Oanh mang đủ áo ấm, cả hai dắt tay nhau tiến vào đồn điền. Sự thật Hoàng cũng chưa rõ bến Mỏi là đâu, và cũng chưa được ký ức trả lời cho rằng Phúc là ai nữa. Phúc nào ấy nhỉ? Mà lại có đồn điền ở đây? Bạn học chăng? Hay bạn thơ bạn kịch? Theo thường lệ mỗi khi Hoàng gặp bí, nhớ không ra một điều gì, là Hoàng cầu cứu đến Oanh. Nhưng lần này Oanh cũng chịu.

Đành cứ hỏi thăm đường vào bến Mỏi đã. Rồi gặp Phúc, thế nào cũng nhận ra. Chẳng lẽ không quen nhau mà họ lại mời mình: vô lý!

Thiên hạ nhanh nhảu mách đường: cứ đường cái mà đi, chừng ba cây số, quặt vào con đường đất phía tay mặt, qua bến Chăm là đến bến Mỏi ngay. Gần thôi!

Nhưng xét ra chỉ gần đối với dân sở tại, và nhất là dân quê. Đối với mình, phải cứ cho rằng hơi xa đi. Nghĩ thế, Hoàng rủ Oanh vào phố Kép ngồi uống nước, đợi một cái xe chở rơm tiến về hướng đó, xin cho ngồi nhờ. Mừng tuổi ông chủ xe một đồng bạc, ông ấy mừng rỡ, thu xếp ngay chỗ để mình lên xe. Mồng hai Tết, được người mở hàng một cách bất ngờ như vậy, ai chẳng mừng? Chỉ có con trâu là chịu thiệt, bỗng dưng phải kéo nặng thêm ít ra cũng cả trăm cân. Nhưng không sao! Nặng thì nó có quyền đi chậm lại, Hoàng chấp nhận kia mà! Vận tốc nào cũng được, cứ đến nơi thì thôi.

Tuy vậy, chỉ ngự “ngưu xa” được đến bến Chăm là phải xuống “bộ hành chơi xuân”, vì từ đây cho tới bến Mỏi đường quá hẹp, lại nhiều quãng lên dốc. May rằng cả hai đều tay không, và nắng vừa đủ ấm.

“Hoàng nhỉ! Bến Chăm với bến Mỏi, ai đặt tên mà ngộ quá? Chẳng rõ hai bến có liên hệ gì với nhau không?”

“Oanh thử nghĩ xem, chăm chỉ mãi rỗi phải mỏi mệt chứ! Và mỏi mệt tức là phải nghỉ ngơi. Điềm tốt đó”.

“Bến nó nghỉ hay mình nghỉ”.

“Bến cũng là mình; mình cũng là bến! Còn phân biệt thế là chưa “đạt”, Oanh biết không?”

Triết lý vớ vẩn mấy câu mà đến nơi lúc nào! Bến có vẻ hoang liêu, nhưng đồn điền thì ấm cúng nhất định. Kìa, hàng ngàn hàng vạn gốc cam, đẹp mắt chưa? Cái ông Phúc nào đó tốt phúc thật!

Hoàng ngâm liền bốn câu tức cảnh:

Chờ ai Bến Mỏi nghiêng nằm?

Thương ai lưu lạc sông trầm tiếng reo?

Nhà ai khói biếc lưng đèo?

Vườn ai cam ngủ bóng chiều thảnh thơi?

Đến khi vượt qua cổng, tới một cái sân rộng mông mênh thì trong đám người lố nhố đi ra, có một người đứng tuổi và gầy guộc bỗng reo lên:

“Hoàng! Có thế chứ. Đợi mãi từ hôm trong năm”.

Phúc Hàng Nón đấy hả? Trời đất ơi, mình cứ nghĩ mãi chẳng nhớ ra là Phúc nào!

***

Mà Hoàng không nhớ ra ngay cũng phải. Ừ, Phúc có là người trong văn giới đâu. Có làm thơ viết kịch bao giờ đâu. Chỉ là một công tử “Hà thành”, nhà giàu nhưng học không giỏi, hơn Hoàng đến mười mấy tuổi, quen la cà khắp tửu điếm vũ trường những từ thời Phong Hóa tuần báo đang oanh liệt. Dĩ nhiên là quen khá thân với Thế Lữ, Khái Hưng; và hình như Hoàng gặp lần thứ nhất ở nhà in Ngày Nay, do Khái Hưng giới thiệu.

Nay chàng công tử đã quay về khai thác đồn điền do cha mẹ để lại. Đồn điền cả trăm mẫu gồm cả ruộng vườn, cả đồi núi, linh tinh. Cho nên cũng trồng đủ thứ: lúa, cam, khoai, mía. Lại nuôi tằm dệt lụa nữa! Đúng là nghiệp “nông tang”.

Gia đình có vẻ hạnh phúc lắm! Vợ đảm, con ngoan. Gái lớn nhất đã 18 tuổi, đang theo học trường Hàng Bài; hiện diện ở đồn điền chỉ có cô gái thứ, tuổi chừng mười ba; và một lũ em trai của cô ấy. Người làm trong đồn điền lên đến bốn hay năm chục, dựng nhà ở rải rác quanh vùng Bến Mỏi, Bến Chăm. Thành ra khách đến vùng này, cứ hỏi ông Phúc là ai cũng biết.

Chỗ “chơi được” của ông chủ đồn điền này là y rất ít tham vọng, chẳng tính chuyện làm nghị viên như một nhân vật nổi danh của Vũ Trọng Phụng, cũng chẳng tính chuyện làm cách mạng xã hội như anh chàng Duy trong truyện Con đường sáng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Đáng kể nữa là y chỉ mến trọng các thi văn họa sĩ chứ không hề nghĩ tới chuyện cầm bút bao giờ. Y thật tình lắm. Với tác giả Mây, y lại còn đồng điệu, ở điểm dùng “khói” làm phương tiện giải thoát tâm tư, đêm đêm tấu nhạc vang cả đồn điền, ru hàng vạn gốc cam Bố Hạ vào giấc mơ kết trái ngọt cho thế nhân, đồng thời kết thêm oan trái cho kẻ vương lấy nghiệp.

Sinh hoạt đồn điền rộn rã suốt ngày, kể cả ngày Tết. Hoàng và Oanh lên chơi, được giữ lại vô hạn định; vì lũ trẻ cứ quấn quít lấy Oanh, còn Hoàng thì nói chuyện Hà Nội với Phúc bên ngọn đèn thần, đói ăn nhọc ngủ, chẳng cần phân biệt ngày đêm.

Chuyện Hà Nội, y biết tường tận lắm. Cả chuyện riêng trong tuổi học trò của Hoàng, cũng kể ra vanh vách, cứ như người trong cuộc ấy thôi! Con gái y lại hóm hỉnh không thua gì bố. Một hôm Hoàng hỏi:

“Cháu có biết mười năm trước, cô nào là hoa khôi trường Hàng Cót không?”

“Cháu biết thế nào được, vì lúc bấy giờ cháu mới lên ba. Nhưng chị cháu bảo hồi đó chị cháu đã vào học lớp bét ở trường này. Và chức hoa khôi, toàn trường bầu cho chị Trâm [5], đang học lớp nhất”.

“Thế sau Trâm là ai?”

“Là chị Phẩm [6].”

“Thế sau Phẩm?”

“Bác tự hỏi bác ấy chứ sao lại còn hỏi cháu!”

Câu trả lời đột ngột khiến Hoàng vừa ngạc nhiên vừa bồi hồi; một phút sau mới lấy lại được bình tĩnh, và cười, đánh trống lảng:

“Con gái ông Phúc Hàng Nón có khác!...”

[5] Thường gọi là: Trâm Hàng Bồ.

[6] Thường gọi là: Phẩm Cầu Gổ.

***

Mồng bảy Tết, nhà cúng đốt vàng tiễn ông vải. Nhân dịp Phúc tổ chức một canh bạc theo đúng nghĩa của từ ngữ này. Nghĩa là, bắt đầu từ trống hai, mọi người trong đồn điền tới quây quần ở bốn chiếc chiếu hoa trải nối vuông trên nền gạch. Phúc ngồi “làm cái”, lắc bốn đồng tiền kêu giòn tan. Canh “sóc đĩa” vui nhộn vô cùng. Đặt năm xu, một hào cũng được mà đặt một đồng, năm đồng cũng cân ngay. Nhà cái tuyên bố “chơi cạn láng” và nhất định không “cho về” một nước bạc nào. Mà phải ngồi mãn canh mãn võ; cấm “ăn non”!

Cháu Yến – con gái Phúc – canh ty với “bác Oanh”, lơ mơ thế nào, thắng luôn mười tiếng bạc; tha hồ cặp lệch hay khuôn rền, cứ đặt là trúng. Hoàng lúc mới nhập cuộc cũng đỏ như gấc, nhưng từ nửa đêm trở đi, sao mà đen thế! Rốt cuộc, khi trống điểm tan canh từ khắp các chòi gác của đồn điền, Oanh với Hoàng bù đi kéo lại vẫn thua. Phúc nói mỉa:

“Vậy là từ nay ông may mắn trên tình trường rồi. Không đen như trước nữa đâu. Lên gác lễ tạ “Thần đăng” đi chứ!...”

Nghe loáng thoáng hai chữ “lễ tạ”, Oanh nghĩ ngay tới chuyện lễ bái thật sự và… ngôi đền Bắc Lệ, nơi từng theo bà thân đi hành hương từ bảy, tám năm về trước, Oanh mới nhỉnh hơn cháu Yến bây giờ một chút, nhà họ Đinh vẫn còn đông vui.

Thế là Oanh giục Hoàng nổi gió đi Bắc Lệ.

Chia tay với cha con Phúc, Hoàng còn ngơ ngẩn tiếc vườn cam Bố Hạ; viết một bài thơ trao lại, mà đoạn nhập đề chính là bốn câu tức cảnh đã sẵn rồi:

Chờ ai Bến Mỏi nghiêng nằm

Thương ai lưu lạc sông trầm tiếng reo

Nhà ai khói biếc lưng đèo

Vườn ai cam ngủ bóng chiều thảnh thơi.

Tằm ai nõn lá dâu mời

Trâu ai kéo mặt nghe trời bình yên?...

Đất: quê thơm! Bạn: người hiền!

Nhựa say tâm sự đêm huyền hoặc nâu.

Ngắm hoa đèn, hiểu ý nhau:

Quên ngày quên tháng quên sầu nhân sinh.

Ra đi lòng nặng cảm tình

Trông về gió bụi riêng mình ngẩn ngơ.

Mong ai ngọt mía vàng tơ

Vườn cam đỏ trĩu giấc mơ vẹn tuyền.

Trao tay nét bút làm duyên.,

Năm sau quả chín đừng quên Vũ Hoàng!

***

Ga Bắc Lệ ở phía trên Ga Kép chừng bốn chục cây số. Đằng nào cũng phải về Kép đã rồi mới lấy xe lửa đi ngược lên. Cuộc hành hương này có phần vất vả, Hoàng và Oanh xuống ga Bắc Lệ, hỏi lối vào đền, sắm sanh lễ vật, lòng thành chẳng thua một “con công đệ tử” nào. Quanh quẩn vùng sơn cước này đến hôm thứ ba thì chẳng ai bảo ai mà Oanh với Hoàng cùng cảm thấy nhớ Hà Nội quá, chịu không nổi, có lẽ đành bỏ cuộc. Hôm thứ tư, Hoàng viết Bài ca thời loạn [7] càng nhớ nhung hồ Kiếm sông Hồng; đành hẹn với ải Nam quan một dịp khác thôi.

[7] Bài này có in trong tập Rừng phong. Xem phần Phụ lục.

Rằm tháng Giêng đến nơi rồi còn gì! Phải ngắm trăng Nguyên Tiêu ở Hà Nội chứ! Đi thì đi cho được; về cũng về cho được; lạ thay! Cho nên xuống ga Kép lấy hành lý, ăn một bữa thịnh soạn rồi cáo biệt vợ chồng Đào Quân, lên chuyến xe lửa trót trong ngày để xuôi Hà Nội.

Tới Bắc Ninh, chuyến xuôi gặp chuyến ngược, Hoàng xuống sân ga nói chuyện với một vài người quen, bỗng nghe tiếng gọi giật giọng:

“Hoàng, đi đâu đấy?”

Trông lên thì chuyến xe lửa ngược Phủ Lạng Thương đã bắt đầu chuyển bánh; Nguyễn Tuân đứng ở toa cuối, bắc loa tay nói lớn:

“Ở Hà Nội người ta sắp diễn kịch của ông đấy”.

Hoàng không có thời giờ hỏi thêm, vì chuyến xe của mình cũng đang “xình… xịch, xình… xịch” mở máy rồi. Nhảy lên vừa kịp, Hoàng hỏi Oanh:

“Có nhận ra ai vừa gọi Hoàng không?”

“Nhận ra chứ! Nhưng chuyện gì vậy?”

“Quái thật! Ai diễn kịch của mình ở Hà Nội mà mình chẳng biết gì kìa!”

“Thì về khắc biết. Chẳng lẽ mình còn toan xuống ga Chùa Lim để vào Dương Ổ nữa sao?”

“Không! Chúng ta đã đồng ý cứ gửi tạm các thứ bên đó, lúc nào tiện thì sang lấy sau. Bây giờ về thẳng ga Hàng Cỏ chứ xuống Chùa Lim thế nào được!”

Oanh cười, ranh mãnh… Vì Oanh thừa biết rằng giờ phút này có họa trăng mọc phía Tây mới ngăn nổi “cơn gió về xuôi” của Hoàng.

Phụ lục 1

Bài ca Tận Túy

(Trích trong thi tập Rừng phong)

Mặt khói chơi vơi, hề, ngọn đèn chênh vênh

Kìa núi tà dương đỏ dậy

Lam mờ bể nguyệt lung linh.

Đã mở cánh huyền vi, hề, sau rèm hiển hiện

Còn nguyên khối hỗn mang về Vũ-trụ-sơ-sinh.

Hồn mê loạn áo trần ai vụt biến

Lộ Đài thiêng trong một phút hoa quỳnh…

Chiếc bướm phân thân, hề, ba nghìn thế giới

Đầu cuối Thời gian, hề, chớp mắt Trang sinh.

Bắc Hải muôn trùng thăm thẳm

Sóng cao dâng vạn trượng, hề, quẫy đuôi kình

Đám mây, đám mây, hề, chín dặm

Con chim bằng vỗ cánh, hề, dời sang Nam minh.

Ta thấy trước đời ta rồi đêm nào tận túy

Thanh sắc chiêm bao về một hội phù sinh.

Bào ảnh vọng lên từng dị điệu

Khuê Ngưu tỏa xuống khúc ân tình.

Hán Nguyễn hưng suy, hề, màu trôi hoạt họa

Gió ngủ trăng bay, hề, nét đứng u minh!...

Thúy Kiều ơi! Đêm Giác ngộ tương lai vào mộng huyễn

Nẻo hồi dương vang ngợp tiếng Thần linh!

Đêm nay ngọc đỏ

Khói nơi này tơ xanh.

Ta ơi, hề, ta ơi!

Kìa thoáng Chân thân vừa hiện đó

Nụ cười Say hoan lạc đến vô tình!

Phụ lục 2

Bài ca thời loạn

(Trích trong thi tập Rừng phong)

Một vầng trăng huyết

Rụng đỏ Kinh kỳ,

Rượu thơ dừng gót lưu ly…

Sớm, nổi mây thành cố quận

Chiều, lên khỏi ải biên thùy

Nửa giấc chiêm bao tuổi vàng Nghiêu Thuấn

Ta nằm nghe đời xuống bước suy vi.

Hồn kiếp trước riêng đầy sầu xứ mãi

Khóc luân hồi chưa ráo lệ tang thương

Đêm Xuân sang giữa vùng hoa cỏ dại

Gối lên thơ còn mộng núi thiên đường.

Muôn trùng tuyệt nẻo Đế hương

Mờ xóa vết xe Thời đại

Phong trần héo mặt tà dương

Tinh tú lạnh màu quan tái

Nhịp Tiêu vong từng phút thê lương

Huyệt thẳm Hư vô đợi cuối đường…

Trời ơi!... Giấc ngủ biên cương

Hỗn độn thanh âm tàn phá

Bể Bắc non Tây đầy trời binh hỏa

Vó ngựa Đông đô liền cánh quạ Nam phương!

Gió thét oan hồn đêm giợn bóng

Mây đùn sát khí nguyệt mờ gương

Say thành bại nhân gian cuồng vọng

Riêng mình ta vạn kiếp bi thương.

Đã sa ngôi cũng Hoàng Vương

Còn toan đổ máu phơi xương làm gì?...

Đoái trông về thuở Loạn ly:

Sớm, nổi mây thành cố quận

Chiều, lên khói ải biên thùy…

Được, thua, còn, mất… ai vui? giận?

Mình ta cười ta khóc nỗi suy vi!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3