Ta Đã Làm Chi Đời Ta - Chương 3 - Phần 1

Mây xuống...
gió lên...

Ngay từ cuối
1942, anh em trong văn giới đã có vẻ nóng ruột đợi cuốn thơ Mây của Hoàng. Kể cả
một số không thân thiết lắm và, do đó, cũng không “lêu têu” chút nào.

Như chàng Huy chẳng
hạn.

Chứng cớ là một
hôm hai gã Huy, Hoàng đụng nhau ở Cống Chéo Hàng Lược… Chả biết ông Xuân đề tựa
cho Huy tán ma tán mãnh thế nào về cái sầu biển lớn sông dài của bạn nối khố,
chứ thật ra chàng Huy cười luôn miệng, yêu đời quanh năm. Dĩ nhiên gặp Hoàng,
Huy cũng tay bắt mặt mừng cười cứ tít cả mắt. Lại còn nổi hứng ngâm liền hai
câu thơ:

Đã lâu gặp
lại Chàng Say

Lửa
Thiêng xin đốt chờ Mây xuống trần.

Hoàng vừa nghe
xong đã suy luận rất nhanh: Có lửa tất phải có khói. Và ngâm tiếp hai câu rằng:

Mây kia
chẳng chịu xuống trần

Lửa ơi,
theo khói lên gần với Mây!

Huy lấy làm thú
quá; lôi ngay Hoàng vào hiệu phở đầu phố Hàng Đồng, khăng khăng đòi đãi Hoàng một
chầu kỳ no thì thôi.

Ngoài đường gió
lạnh buốt, ngồi nhìn bát phở đang được bưng tới bàn, khói bốc lên nghi ngút, ai
mà chẳng cảm thấy ấm lòng! Riêng Hoàng, óc hãy còn lưởng vưởng nơi câu thơ vừa
sáng tác nóng hổi, nên đã nảy ra một ý nghĩ hơi buồn: “Khói phở thì thơm thật,
nhiều thi vị không chừng; nhưng theo nó để lên gần với mây, e chẳng sao đạt được
mục đích. Không lẽ mình đề nghị Huy đi tìm khói huyền! Chàng Huy chứ đâu phải
tác giả Cây đàn muôn điệu mà mình đưa đề nghị đó!”.

***

Tuy nhiên, Mây
chẳng chịu ngồi xuống trần là chỉ “chẳng chịu” lúc bấy giờ thôi. Chưa đứng đầu
đứng số thì chưa xuống được! Sang đến mùa thu năm sau, tức là năm Quý Mùi, Tây
lịch 1943, nó đã xuống tà tà, theo lời gọi âm binh của họa sĩ phù thủy Tô Ngọc
Vân. Mây với Vân có duyên với nhau từ cái thời xa xưa chữ Nho gặp tiếng Việt.
Cho nên lời gọi phát xuất từ cây bút của nhà danh họa kia đã được đám mây giang
hồ hưởng ứng, bằng lòng tự thu nhỏ lại trong một cái bầu rượu, xuống nằm bất tử
ngay trên bìa sách của Hoàng. Bầu rượu và đám mây đều màu nâu, bìa sách thì màu
vàng rực rỡ, trong khi những chữ nhà in sắp tên tác giả và tác phẩm thì in bằng
mực đen trên một cái nền nhỏ hình vuông, cũng màu nâu đặt ở khoảng trên, bốn
phía lại đóng khung đen, giống như khung ảnh.

Chiếc bầu rượu
này, chẳng hiểu có phải Tô Ngọc Vân đã chiêm bao nhặt được ở tận Đông Hải, do
Lý Thiết Quài đại tiên bỏ quên hay không. Chỉ biết hình thù nó mập tròn, nét vẽ
đậm, và đặt chênh chếch tưởng đâu sắp té ngửa đến nơi, và té ra ngoài… bìa
sách. Nó nghênh ngang quá, chướng quá, mà cái chứa của nó lại là đám mây, nên
càng chướng, càng nghênh ngang; át hẳn Con Phượng, huy hiệu của nhà xuất bản Đời
Nay đặt về phía tay trái, đối diện với nó. Thật vậy, Con Phượng đã bị in chìm
vào máu nâu, cánh và mình gầy rơi gầy rụng, và quá nhỏ mọn, quá khiêm nhường chứ
không oai vệ như trên những cuốn sách khác của nhà xuất bản. Đã thế, hai chữ Đời
Nay cũng bị in chìm, nét rất mảnh, nơi phía dưới Con Phượng, phải dùng đến kính
hiển vi mới đọc xong. Ngay trên đầu Con Phượng thì in chếch hai chữ Đời Nay do
Khái Hưng viết bằng bút lông, và dĩ nhiên in mực đen. Hai chữ tuyệt quá! Nét
sương kính, trang nhã vô hạn. Khái Hưng viết đẹp ghê! Nhưng trời hỡi! Đó là chữ
Nôm – nghĩa là thứ chữ Quốc ngữ của các ông Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, chứ
đâu phải chữ Quốc ngữ gần đây ông Nguyễn Văn Vĩnh đề cao, ông Tản Đà tán tụng –
hỏi mấy ai còn đọc nổi khi mà thế kỷ hai mươi đã vượt qua tuổi “Bất hoặc” rồi.

Tóm lại, cứ nhìn
cái bìa tập thơ Mây của Hoàng, chẳng ai biết nhà nào đứng ra xuất bản. Căn cứ
vào tầm quan trọng của cái bầu rượu – nét thật đậm và nổi bật lên – có người
xuyên tạc rằng đó là nhà xuất bản Hồ Lô. Ý chừng muốn giễu Hoàng cũng một phường
với bọn Xuân Thu Nhã Tập, bọn trí thức lãng mạn lúc bấy giờ đang chủ trương lối
“thơ hũ nút”.

Chả là Hoàng rất
thân với ông Đoàn, tác giả vở kịch Ghen đã từng làm say mê Hà Nội thanh lịch, đồng
thời cũng nổi danh thi sĩ, có tên trong cuốn Thi nhân Việt Nam hẳn hoi, mà nổi
danh nhờ vào độc một bài thơ, bài Màu thời gian, đứa-con-có-vần duy nhất của
tác giả. Đã thân với ông Đoàn, tất cũng gần gũi thời thường với tứ trụ của nhóm
này: Ông Xuân Sanh – hỗn danh là Hũ – ông Hạnh – hỗn danh là Chóe – và nhạc sĩ
Khoát, giáo sư Lương Ngọc. Bởi lẽ ông Đoàn đi đâu cũng khoe thơ Hũ nút và khẳng
định ông Hũ – thư sinh kiểu Tô Hoài – là thiên tài, là thi-sĩ-có-bề-sâu nhất
thiên hạ, v.v. nên Hoàng gọi luôn ông ta là “Chủ Hũ”. Còn bài thơ để làm ghi:

Chủ Hũ bảo.
Ô! Trời đẹp quá!

Chúng ta
vào ông Bá đi thôi!

Theo liền
Hũ Chóe một đôi,

Giáo sư,
nhạc sĩ, năm người đủ năm,

Xuân thu
cả gánh vào “nằm”…

Ô! Trời
đẹp quá!... Phải dăm “cối” liền,

Để cho
“người đứng… hồn lên”.

Nhà ông Bá chả
là chỗ “nằm” hàng tuần của gánh Xuân Thu mà! Còn như “Người đứng hồn lên một bể
mơ” cũng là câu thơ của ông Xuân Sanh được Đoàn quân nhắc nhở luôn miệng…

***

Trở về với việc
in tập thơ Mây, Hoàng phải nói ngay rằng Hoàng đã bị vất vả đến mấy tháng. Gần
trọn mùa thu cũng nên. Nhà Đời Nay quyết định “in nhà-in-nhà” tức là in tại ấn
quán Ngày Nay, số 80 đường Quan Thánh, Hà Nội. Sách in cỡ lớn máy in được dành
cho lại là thứ nhỏ nhất – máy Minerve – “Phải thứ máy đó mới thực hiện được hết
những khía cạnh tế nhị của tập thơ do họa sĩ Tô Ngọc Vân vẽ vời!”, ông Miễn, quản
lý ấn quán bảo thế. Cho nên mỗi khuôn chỉ hoàn tất được hai trang. Cứ cái nhịp
“hai trang” chậm như rùa ấy, thì chốc chốc lại xuống khuôn, rồi lại sửa “mo
rát”, lại lên khuôn, lại sửa lần chót để chạy máy, v.v. Quần quật suốt ngày mệt
quá! Ấy là tác giả muốn sự mua dây buộc mình, chứ có ai bắt đâu! Giá cứ phó mặc
cho ông Miễn cũng được vậy.

Thành ra con đường
xe điện Bạch Mai – Quan Thánh đã thêm một hành khách mỗi ngày hai buổi đi về,
chăm chỉ y như một công chức đứng đắn.

Bạch Mai? Vâng!
Lúc này Hoàng đã cư ngụ ở một ngõ hẻm trên con đường hữu danh này, cùng với hai
người bạn mới: Thục Oanh, Hoài Điệp. Hoài Điệp – cũng gọi là Đinh Thứ lang – chẳng
phải ai xa lạ; chính người đã “tu mi đội lốt quần thoa” lên sân khấu Nhà hát lớn
Hà Nội đêm 12-12-1942, thủ vai Vân Muội trong vở kịch thơ đầu tay của Hoàng. Thứ
lang đẹp trai có tiếng, làm cho thiên hạ liên tưởng đến Hoàng Phủ Thiếu Hoa của
truyện Tái sinh duyên. Và như vậy, Thục Oanh nghiễm nhiên trở thành hiện thân của
Hoàng phủ Trưởng Hoa rồi.

Con đường Bạch
Mai thuộc vùng ngoại thành của Hà Nội, ô Cầu Rền, một trong năm cửa ô của Thăng
Long đế đô oanh liệt xưa. Nơi đây có chỗ tránh xe điện; và đối diện ngay với chỗ
tránh này, ở phía bên kia đường, là lối vào ngõ. Hoàng đặt tên cho ngõ của mình
là Hoàng Ngưu Hạng; nếu dịch chữ nào nghĩa nấy thì đó là “Ngõ Trâu Vàng”. Nhưng
thật ra thiên hạ, từ đời nào không biết, vẫn gọi là “Ngõ Bò”. Bò với trâu sắc
vàng, kể về thực chất, đâu có khác; vậy cứ cho nó là “Ngõ Trâu Vàng” đi!

Ngõ này tuy hẹp
nhưng lát gạch chỉnh đốn. Ngôi nhà do Thục Oanh và Thứ lang Đinh Hoài Điệp thuê
được từ đầu năm 1943, tọa lạc khá sâu vào bên trong. Có cổng, có tường cao, sân
gạch rộng; khang trang lắm. Nhà năm gian lợp ngói, cửa bức bàn, hiên rộng tới
ba thước có thể trải chiếu ngồi nhìn ra cây ổi và giàn hoa ngoài sân; nếu hội họp
để uống rượu ngâm thơ thì hai mươi người ngồi vẫn còn thừa chỗ. Chỉ phải cái
nhà hơi tối, vì chẳng có một cửa sổ nào; lại ở vào một ngõ không được hưởng tiện
nghi điện lực, nên ban ngày cũng mờ mịt hư ảo như một thạch động thời tiền sử.
Bạch lạp, hồng lạp thắp cứ linh tinh; đôi khi lại cả đèn dầu lạc nữa, mà người
kia nhìn người nọ vẫn “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.

Thục Oanh và Thứ
lang bất chấp, Hoàng đến nhập tịch cũng bất chấp luôn.

Ấy thế mà chẳng
mấy lúc nhà vắng bạn lui tới. Nào Đỗ quân mới từ Quảng Châu đổi về, thấy yên
tĩnh và chủ khách đồng tâm đồng điệu, cũng ở lại chơi cả tuần, rồi cả tháng sau
cứ lấy đấy làm chỗ nghỉ trưa, mặc dầu từ Sở Khí tượng về Bạch Mai chẳng gần gì
cho lắm. Nào Chu Ngọc, Vũ Trọng Can, Lê Văn Trương, v.v. Nguyễn Bính thì đi đâu
một dạo – hình như vào Sài-gòn – lúc phản hồi “Kinh đô Văn Nghệ” là đóng đô
ngay nằm lỳ Ngõ Trâu Vàng đến một tháng là ít.

Phải chịu Thục
Oanh là một người thản nhiên có một. Bạn của Thứ lang, hay của Hoàng đến, Oanh
đối đãi rất thật tình. Có khi cơm gà cá gỏi, rượu thịt ê hề; có khi ăn khoai trừ
bữa, hay ăn cháo trắng thay cơm. Rất có thể một hôm nào đó mỗi người – chủ cũng
như khách – chỉ được thưởng thức một chén cơm rang, hay một củ khoai, hoặc vừa
đúng ba thìa cháo.

Nhưng mâm bát vẫn
sạch sẽ đàng hoàng, đũa son liễn sứ sang trọng. Mà cơm rang mềm dẻo, khoai luộc
nhừ, cháo thơm phức; nghi ngút khói bay, gặp trường hợp đó, Hoàng ưa nhắc lại
câu nói của Lê Trọng Quỹ, người thủ vai Vương sinh trong vở Vân muội:

“Ăn ít mới
ngon!”

Còn như nếu mọi
thứ đều hết – kể cả ngô khoai, mắm muối, than củi – thì toàn gia lại được một bữa
thịnh soạn, hơn cả yến tiệc trong cái trò chơi “Nhất dạ đế vương” của Áo Môn,
Hương Cảng nữa kia.

Khó gì đâu chứ!
Oanh chỉ việc lấy bút giấy viết mấy chữ, sai “hề đồng” ra hiệu phở đầu ngõ, một
hiệu lớn, quen bán chịu cho Oanh. Mà người ta lại ưa được Oanh mua chịu.

Vì trong vòng
hai tuần lễ, thế nào Oanh cũng thanh toán sòng phẳng, nhất là không quên trả
lãi hai mươi lăm phần trăm.

Thật ra, Oanh
đâu có giàu, hay cất đi sẵn một số vàng bạc nữ trang làm vốn riêng đâu! Nên hễ
thấy những bữa thịnh soạn như thế kéo dài đến ngày thứ hai là Hoàng với Thứ
lang, chẳng ai bảo ai, phải “hạ sơn” ngay tức khắc. Trong vòng mười hai tiếng đồng
hồ tìm cho kỳ được một nhà báo hay nhà xuất bản nộp tiền “mãi lộ” mới thôi. Nói
là tiền “mãi văn” cho đúng chữ nghĩa!

Thường thường
chia quân hai ngả; Hoàng không biết Thứ lang đã “bán” những bài thơ, bài tùy
bút nào, nhưng về phía Hoàng thì đã “đi đứt” vở kịch thơ Trương Chi, rồi đến vở
Hồng Điệp. Cũng đi luôn cả một phần tác quyền tập thơ Mây.

Kể ra văn chương
lúc đó cũng còn có giá. Thí dụ số tiền một trăm đồng lấy trước của nhà xuất bản
Lượm Lúa Vàng về vở Trương Chi, là đủ cho Oanh trang trải hàng mấy chục “bữa tiệc
biên bông” theo kiểu này. Với điều kiện nhân số giới hạn, năm người: Oanh,
Hoàng, Thứ lang, Hề đồng… Và một quý-khách-tốt-số, chỉ một thôi!

Mong manh biết
được nếp sống kỳ quái và nguy hiểm trên, một số bạn tri kỷ đã có phản ứng kịp
lúc: Hễ xuống đến Ngõ Trâu Vàng, thấy đầy mâm những phở xào, thịt bò xào, thịt
bò tái, gà luộc, chả giò, canh nấm hương, v.v. là ngồi ngay vào mâm tự rót lấy
một chén mai quế lộ hay rượu Con Hươu, rượu trắng – tùy sở thích – nhắm nhót một
vài miếng, rồi… rồi khẽ gọi Hề đồng:

“Xin phép chị
Oanh cho thằng nhỏ ra đầu phố mua giùm gói thuốc lá”.

Vậy là Hề đồng
hiểu ý mang tờ giấy hai mươi đồng hay một trăm đồng của ông khách, ra hiệu phở
quen trả luôn số tiền bữa tiệc vừa đặt mua lúc nãy. Còn gói thuốc lá của khách,
đâu có thành vấn đề! Chỉ phải nhớ trả số tiền dư lại cho ông khách là được.

Tuy nhiên, nếu
“bạn tri kỷ” lại cùng đến với một “tục khách” thì Oanh trả lời ngay:

“Nhà có sẵn thuốc
lá rồi; để tôi bảo thằng nhỏ nó lấy!

Hoàng phụ họa
luôn:

“Ờ… ờ…! Tôi cũng
có thuốc lá trong túi đây, mà quên khuấy đi, chẳng lấy ra mời khách. Đãng trí
thế chứ lại!”

Thứ lang thì ngồi
bất động, cặp mắt nhìn vu vơ ra sân, vừa mơ mộng vừa… dễ sợ!

***

Công việc ấn
loát của “Nhà-in-nhà” vẫn tiến hành đều. Mây đã sắp có một hình thể cố định và
sửa soạn giáng trần. Bỗng một buổi chiều kia, Hoàng từ ấn quán về, chưa bước
chân vào khỏi cổng đã nghe véo với nhau:

… Tay
tiên rót chén rượu đào… ừ… ư…

Đổ đi
thì tiếc… ừ … ư … mà … uống vào thì say.

… Lại có cả tiếng
cười khúc khích chen vào tiếng hát. Lạ thật!

Vào đến sân,
Hoàng mới vỡ lẽ. Kìa, đủ cả tam kiều của làng Dương Ổ: Cô Tạ – phòng nhì của Lê
quân – và hai em: cô Càn, cô Kéo.

Cô nào cũng áo tứ
thân nhuộm nâu, thắt lưng màu xanh da bát, và… buông thật thấp chiếc váy đen.
Nhớ đến câu thơ:

“Sóng lụa thâm
phần phật đổ bên thềm”, Hoàng càng thấy anh chàng họ Lê nhận xét đúng.

Cái dáng điệu rất
đặc biệt của Lê khi ngồi ở làng Dương Ổ đầu tháng Tư năm ngoái như đột ngột sống
lại trong ký ức Hoàng.

Và cũng thừa cơ
hội, khuôn trăng đầy đặn của nàng Mây từ từ mọc lên ở chân trời kỷ niệm đã bắt
đầu bị sương khói làm phai nhòa.

Thấm thoắt vậy
mà hơn một năm rồi. Lửa say mê tắt hẳn: nhưng quên người cũ thì Hoàng chưa
quên. Trai lãng tử và gái đồng quê, ngồi bên nhau đêm đó, nhìn ngắm nhau nhiều
hơn là nói chuyện hay nghe chuyện của nhau: quên sao được!

Mỗi câu Hoàng
nói – dầu chỉ nói thật khẽ vào tai Mây – Hoàng cũng thấy đập trở về thính giác
của mình, rõ từng mạch lạc, từng âm hưởng, khiến cho chính Hoàng vô cùng ngạc
nhiên. Mình có những dự định như thế thật ư? Mình dám hứa hẹn để rồi hành động
như thế? Trời ơi! Có ai tin được không? Còn gì phi lý hơn không?

Chẳng là Hoàng
nói nhất định cưới Mây làm vợ – chính thất chứ không phải đệ nhị phòng – bất chấp
gia đình Mây đã gả chồng cho Mây rồi, và Mây đang sống lơ lửng giữa khoảng cách
“Ngày cưới” với “Đêm cưới”. Nghĩa là bất chấp luôn sự can gián của cô Tạ và của
Lê quân.

Tục lệ ở đây kỳ
lắm. Chỉ cần có miếng trầu chạm ngõ, hai gia đình ưng thuận là cưới luôn. Cô
dâu chú rể, thường thường còn bé dại, không dự gì vào quyết định này. Nhà trai
phải biện đủ lễ vật, tư trang, và một số bạc mặt; đám cưới được cử hành long trọng,
cả làng đến góp vui, những vạt áo mới cùng những câu hát lưu truyền tự ngàn xưa
quyện lấy nhau khắng khít, tung bay theo hương lúa dịu, tiết trời êm.

Nhưng – điều này
hết sức quan trọng – cô dâu chỉ ở lại nhà chồng vừa đủ khoảng thời gian thực hiện
các nghi lễ. Rồi, chậm nhất là khi mặt trời lặn, phải theo các bạn phù dâu trở
về nhà cha mẹ mình. Sáng hôm sau, cơm nước xong, chú rể phải đơn thương độc mã
sang nhà vợ, xem có việc gì thì làm – như người trong nhà – để đến tối thì liệu
rút cho kịp. Ở đâu mới “dâu con rể khách” chứ không phải ở đây!

Và cứ thế, một
vài tháng, một vài năm… Có khi hàng chục năm. Thế nào cặp vợ chồng chẳng có lúc
nói chuyện với nhau. Nếu còn nhỏ quá thì vui đùa với nhau, cãi nhau, đánh nhau
cũng nên! Nhưng cô dâu nào lớn dần lên cũng biết e thẹn và chú rể – dầu ngu ngốc
hay ngang tàng cách mấy – cũng biết chiều vợ, nên cái mục “đánh nhau” ít khi lắm
mới xảy ra.

Ở thôn quê, bất
cứ giàu hay nghèo, nhà ai mà chẳng sẵn công việc! Tham công tiếc việc lại là đặc
tính của nông dân. Huống hồ làng này, ngoài nông nghiệp ra, lại còn có nghề dệt
lụa, nghề làm giấy. Trai cũng như gái, chẳng lúc nào ngơi tay ngơi chân; không
tát nước thì giã vỏ dò, không nhổ cỏ thì seo giấy, ươm tơ, v.v.

Nghĩa là chú rể
cứ “cơm nhà vác ngà voi” cho đến một hôm đẹp trời nào thuyết phục được cô dâu
theo mình về; đêm đấy mới thật sự là “đêm cưới”. Và từ ấy cô dâu phải ở lại nhà
chồng vĩnh viễn, để gánh vác giang sơn, chính thức lên ngôi “vợ” và thường thường
chỉ một năm sau là thăng chức “mẹ nó” hoặc “bu nó” ngay.

Có người thắc mắc:
Giả dụ như chú rể không thuyết phục nổi cô dâu thì sao? Chẳng lẽ cứ già đời sớm
đi tối về, làm việc không công cho cha mẹ vợ? Đâu dễ dàng xảy ra chuyện ấy được!
Lửa gần rơm lâu ngày thế nào chẳng bén! Mà nếu hãn hữu xảy ra – nghĩa là cô dâu
“chê chồng” – thì nhà gái phải bồi thường đầy đủ cho nhà trai; nghi thức này gọi
là “trả của”. Tuy vậy, còn sự khuyên bảo của gia đình, còn dư luận của bạn bè,
làng xóm nữa chứ! Một cô dâu phải gan là sắt mới dám kéo dài quyết định “chê chồng”
đến giai đoạn cha mẹ mình bị dồn vào ngõ cụt “trả của”. Thật thế, đã “trả của”
thì khó còn gả con gái cho ai. Thử hỏi, ai lại đi cưới cho con trai mình một
người con gái đã cưới rồi? Cô ấy mà có nhiều em gái thì lũ em này cũng mắc vạ
lây, hồng nhan hay chẳng hồng nhan cũng cứ là bạc mệnh.

Nhưng, Mây ơi!
Sao mà Mây chịu để cho người ta cưới sớm thế? Mười hai tuổi đã thành cô dâu. Đã
vậy, chú rể đâu có ra hồn chú rể! Một đứa trẻ nít thua Mây đến năm tuổi. Nghĩa
là hiện tại Mây vừa tuổi trăng tròn thì nó mới lên mười thôi; hãy còn đánh
khăng đánh đáo, suốt ngày tính chuyện thả diều bắt bướm, nghịch đất nghịch cát,
chứ có giúp được gì cho gia đình Mây đâu. Thiên hạ khen: “Cậu tốt số, lấy được
vợ đẹp quá!” nhưng thật tình nó đâu có hiểu “vợ” nghĩa là gì và lấy được vợ đẹp
thì sao lại tốt số!

Mây ơi! Mây ơi!
Nhất định em phải trả-của, nhất định em phải trả-của.

Và Hoàng sẽ trả
cho em. Bao nhiêu cũng trả, Mây ơi!...

Điệp khúc này,
Hoàng nhắc đi nhắc lại hàng chục lần, hàng trăm lần.

Chẳng những một
đêm ấy, mà còn bao nhiêu đêm khác Hoàng cất lên sang Dương Ổ, giấu cả Lê quân.

Nhưng lần nào
Mây cũng chỉ ngồi khóc. Hỏi có giận không?

Giận đến uất lên
nữa là. Cô Tạ còn bảo:

“Nói thật ông
anh chớ buồn. Không đời nào Mây nó dám đem chuyện “trả của” hé môi ra với cha mẹ
nó đâu. Ông anh nên liệu thu xếp…”

“Nhưng Mây yêu
tôi.”

“Đành thế. Em
cũng biết cả. Tuy nhiên nó còn trẻ lắm kia. Ông bàn với nó thì cũng “như chuyện
ấy” thôi: em nói ông đừng giận.”

Mà… Hoàng nghĩ lại
thấy Mây trẻ con thật. Hỏi: Có nhớ anh không? Trả lời: Có. Rất khẽ như hơi thở
của một loài hoa nào giữa đêm khuya. Bảo: Anh sẽ tặng em một tấm ảnh nhé! Gật đầu,
cười, rồi bất chợt ngước nhìn lên, ngơ ngác hỏi lại: Nhưng em biết treo vào chỗ
nào trong nhà được?...

Trời hỡi! Thì ra
Mây cứ tưởng đã là ảnh thì phải lớn, mỗi bề cả mấy gang tay, và phải đóng khung
treo như ảnh ông nội treo ở bàn thờ. Nguy quá!

Khổ một nỗi Mây
hát rất hay, nói chuyện về hội hè đình đám trong làng thì duyên vô hạn. Cười
tươi lắm, mắt cứ long lanh. Ấy thế mà hễ nhắc đến “trả của” là lại… khóc.

Đã có lần cô Tạ
cật vấn Hoàng:

“Ông anh bảo nó
“trả của”; nhưng rồi sau đấy thì sao?”

“Tôi cưới Mây chứ
còn sao nữa?”

“Nghĩa là ông
anh sang đây làm đám cưới và sẽ ở hẳn làng chúng tôi?”

“Nhập tịch làng
Ó là một hân hạnh cho tôi. Nhưng đâu hoàn cảnh có cho phép. Tôi là con trưởng
mà! Nàng dâu trưởng phải lo việc cỗ bàn giỗ tết, và vợ chồng tôi – nếu may mắn
tôi cưới được Mây làm vợ – thế tất phải chung vai gánh vác một đại gia đình.”

“Thế nghĩa là…”

“Vâng, chồng đâu
vợ đó! Chúng tôi sẽ đem nhau về sinh sống ở thành phố Nam Định.”

“Ấy đấy! Em đã
thưa với ông anh từ đầu kia mà! Chúng em không thể dời khỏi làng xóm được; Mây
nó lại càng nhút nhát lắm. Yêu ông đến chừng nào đi nữa, nó cũng không dám bỏ
làng đâu! Và mặc dầu em rất tin ở lòng thành thật của ông – thành thật chứ
không thớ lợ như nhiều công tử Hà Nội khác em cũng xin ông đừng bắt em phải làm
“bà mối” nữa. Ông giận thì em chịu, chứ từ nay em không dám rủ Mây sang đây nữa
đâu. Ông liệu thu xếp cách nào thì thu xếp.”

Mất sự giúp đỡ của
cô Tạ là tôi và Mây như “quân vô tướng, hổ vô đầu”, lạc lõng bơ vơ đến thảm hại.
Có lần tôi bắt anh bạn Mạnh Phú Tư phải đi xe kéo sang Dương Ổ cùng với tôi cho
vui; xe kéo chậm như rùa, đi từ Hà Nội lúc chập tối, mãi mười giờ đêm mới vào lọt
trong làng.

Khổ công đến thế
mà câu chuyện vẫn cứ lằng nhằng. Nghĩa là Mây chỉ biết có khóc. Tưởng như muốn
biến thành mưa trên vai áo Hoàng.

Những chuyến đi
liều lĩnh này đưa đến một kết quả tai hại: người ta ngờ rằng Hoàng mưu tính rủ
Mây đi trốn; và dại dột như Mây thì rất có thể bỏ làng đi theo “công tử Hà
thành”. Một biện pháp độc tài và quyết liệt đã được áp dụng ngay, theo tục lệ:
Cha mẹ “cô dâu” bất chấp ý kiến của con gái mình, ra lệnh cho “cô dâu” phải về
nhà chồng ngay lập tức, cô dâu xấu hổ đó chính là Mây của Hoàng, trời ơi!

Điên đảo suốt mấy
tháng hè, cho đến khi Hoàng lại phải xuống Hải Phòng dạy học thì chuyện Mây đã
thành ảo mộng. Cuối năm, Hoàng viết vở kịch thơ Vân Muội, tự mình đưa lên sân
khấu và thủ vai chính, rồi sang năm nay Hoàng cho xuất bản thi tập Mây… lòng sầu
hận đã vơi đi gần hết… thì, ô hay! Gái Dương Ổ còn tìm sang đây làm chi? Có “biến”
chắc?...

***

Nhưng không! Đầu
đuôi câu chuyện rất giản dị và tầm thường. Thục Oanh đã nói rõ cho Hoàng biết:

“Ông Quỹ (tức Lê
quân) vừa đến đây lúc nãy với cô Tạ, “dì nó” của ông ta – không cốt tìm anh
đâu, đừng vội mừng! – chỉ cốt gặp Oanh để gửi gắm…”

“Chết! Sao lại gửi
Oanh? Thế còn cô Cán, cô Kéo?”

“Thì hãy thong
thả. Hai cô này một lúc sau mới đến, cô thì gánh gạo, cô thì gánh những thứ lặt
vặt.”

“Ô hay! Bọn họ định
đóng đô ở đây sao?”

“Cũng gần như vậy.
Nhưng tạm thời thôi; chừng già nửa tháng hay cùng lắm là một tháng. Nguyên do
các cô ấy rủ nhau sang làng bên có việc – làng Nội Duệ thì phải – loạng quạng
thế nào bị chó nhà ông Lý cắn vào bắp chân. Cũng nhẹ ấy mà! Nhưng nhiều người
nghi là chó dại và khuyên các cô xuống Hà Nội tiêm thuốc ngăn ngừa… Ông Quỹ
cũng có ở Dương Ổ lúc ấy liền tán thành ngay và lãnh trọng trách đưa cả bọn đi
tức khắc.”

“Thì ông ấy chắc
có sẵn nơi này mà! Vừa gần chỗ hằng ngày đi tiêm, vừa tiện việc ăn ở: gì Thứ
lang cũng thân với ông ấy chẳng kém gì Hoàng; mà Thục Oanh thì hiếu khách đệ nhất.”

“Bạn gái với
nhau cả, càng vui. Em đã bảo các cô ấy cứ nghỉ ngơi cho khỏe, lúc nào cao hứng
thì hát cho cả nhà nghe. Còn việc cơm nước, em đảm nhận hết. Gạo sẵn đấy, các
cô ăn còn dư thì gánh về.”

“Oanh tính đâu
ra đấy lắm!”

Tuy nhiên, Hoàng
còn bận sửa “mo-rát” trên nhà in, cũng ít khi ngồi tiếp chuyện các cô. Vả lại
đã có Thục Oanh đóng vai chủ nhân chu tất mọi việc là được. Xem ra tương đắc với
nhau quá, chủ với khách cứ chuyện như pháo ran suốt cả ngày. Thứ lang, ngày thường
ít nói, vậy mà cũng góp chuyện luôn luôn. Bữa ăn nào cũng đầm ấm vui nhộn. Chỉ
riêng Hoàng tâm trí cứ để tận đâu, khiến cho cô Tạ phải khó nghĩ, rồi lân la gợi
chuyện:

“Bác Hoàng – bác
chứ không còn là ông anh như trước – hãy còn giận em đấy à?”

“Sao lại giận
cô? Ông Quỹ ông ấy giận lại thì khốn! À… mà… tôi nói thật đấy, tôi vẫn nhớ mãi
tấm lòng thành thật đáng quý của hai cụ và các cô bên làng ta, nhất là cô. Mang
ơn thì có chứ giận thế nào được?”

“Thật chứ bác? Vậy
từ giờ đến cuối năm, có rảnh, bác đưa bác Oanh sang chơi với chúng em nhé. Cả
bác Thứ lang nữa. Chẳng cứ phải ông Quỹ, chúng em đủ rồi. Ông ấy bận đi buôn
bán lúc thì bảo ra Hải Phòng, lúc thì bảo vào tận Sè-goòng; bận quanh năm, bác ạ.”

Cô Cân, cô Kéo
phụ họa với chị, reo lên:

“Thật nhé, bác
Hoàng? Chúng em đợi… cả ba bác đó! Bác Hoàng biết tính thật thà của chúng em rồi,
chúng em không mời lấy lệ đâu!”

***

Trời trở rét thì
Mây cũng vừa in xong. Theo hợp đồng ký với Khái Hưng – đại diện cho nhà xuất bản
– Hoàng sẽ được chia đôi số lời với nhà xuất bản (giả dụ như có lời!). Nhưng
trên thực tế, Hoàng đã ký “bông” nhiều lần, và chính tay Hoàng Đạo đã phải nhiều
phen mở “két” đếm giấy bạc. Thành ra khi sách in xong, cũng chỉ lấy thêm đâu được
vài trăm nữa.

Lúc này chị em
cô Tạ đã trở về làng, Nguyễn Bính thì đi Sài-gòn lâu rồi, trước cả khi bọn
“Dương Ổ tam Kiều” đến tá túc. Còn nhớ hôm tiễn đưa Bính tại nhà ông Bá, đủ mặt
chư hùng; Bính có vẻ sầu hận ghê lắm. Sầu thế sự và hận thế nhân đó thôi chứ
đâu phải anh em với nhau có điều gì xích mích. Đúng vậy, năm ngoái Bính đã vào
Nam, đầu năm nay trở ra, những tưởng cố gắng ở lại với Hà Nội được, với anh em
được; ai ngờ cái số “vẫn tha hương”, và mùa xuân tới đây, dầu muốn dầu không,
Bính cũng sẽ phải ngâm câu “Xuân lại tha hương” giữa cái nắng ghê gớm của Sài
thành và sẽ phải tái ngộ trong những đêm dở cười dở khóc với các em bên Phú Nhuận
– anh Dưa Khú [1], các em còn nhớ mà!

Bính càng sầu hận càng rền rĩ ngâm
thơ. Đến nửa đêm, chư hào kiệt rút lui gần hết, chỉ còn Thứ lang và Hoàng ở lại
với Bính thôi. Bộ ba thức thâu canh, nằm ăn vạ nhà ông Bá, chờ đến sáng, cơm rượu
xong là “Kinh kha vào Tần”. Bính ngậm ngùi chép lại cho Hoàng bài thơ vừa sáng
tác, và cũng bắt Hoàng phải chép cho Bính bài trường ca nhan đề “Bài ca tận
túy”; bài này Bính thích lắm [2], nhất là câu:

Con chim bằng vỗ cánh, hề, dời sang
Nam minh.

[1] Hỗn danh này do các ả đào ở xóm
hát Phú Nhuận đã đặt cho Nguyễn Bính.

[2] Bài ca Tận túy có in trong tập Rừng
phong (Sài Gòn 1954). Xem phần Phụ lục.

Bính đi rồi, buồn quá! Chị em cô Tạ qua chơi ít lâu sau cũng chỉ vui nhộn được vài ba tuần. Thế rồi thời cuộc bỗng nổi cơn sóng gió. Máy bay của phe Đồng minh tấn công quân đội Thiên Hoàng trên đất Đông Dương; Hà Nội bị oanh tạc một vài nơi, số nạn nhân bị thương vong ở Chợ Hàng Da lên đến hàng trăm, dân chúng của ba mươi sáu phố phường hốt hoảng, nhiều người trù tính áp dụng cái chước thứ “ba-mươi-sáu”. Không có việc gì ở Hà Nội lúc này hãy tạm lánh về các miền quê, đằng nào cũng đỡ nguy hơn chứ!

Một hôm, Thứ lang đi đâu về, ngồi trầm ngâm một lúc, rồi cố lấy giọng bình tĩnh:

“Hoàng ạ, nên “giang hồ vặt” chuyến nữa đi! Hà Nội chưa chắc đã yên ngay được.”

“Cùng đi tất cả?”

“Không! Tôi vừa nhận giúp cho một tuần báo. Thời buổi này, báo quán cũng “lêu têu”, gặp đâu đóng lại đó; mặc dầu chỉ quanh quẩn mấy vùng ngoại ô thôi; Yên Phụ, Thái Hà chẳng hạn. Cho nên tôi không thể đi xa được. Hoàng đưa chị Oanh lánh chỗ bom đạn này một thời gian, chừng đến Tết hay qua Giêng hãy tính.”

Báo cáo nội dung xấu