Ta Đã Làm Chi Đời Ta - Chương 4 - Phần 1

Duyên
thơ nợ kịch

Từ khoảng giữa
năm Giáp Thân (1944), Hoàng và Oanh về ở Nam Định, cuộc sống như có trầm lắng một
thời gian. Nhiều buổi tối buồn tẻ đến hiu hắt; Oanh mở rương kiểm điểm lại những
tặng vật đánh dấu ngày vu quy: này là đôi giày cườm Đỗ quân tặng, này là tấm lụa
màu mỡ gà óng ánh của ông Quỹ, này là chiếc vòng huyền của cô Lệ Thanh… Hoàng
thì ngắm nghía đến chán mắt tập giấy của Nguyễn Tuân và chiếc bút máy của Chu
Ngọc.

Ngày cưới mà cho
nhau giấy với bút, nhảm quá! Nhưng chỗ anh em thân, sẵn cái gì tặng cái nấy, cốt
ở tấm lòng quý nhau thôi!

Bút máy của Chu
Ngọc, cũ từ bảy mươi đời, ngòi vàng đã mòn vẹt hẳn đi, thế mà cũng đem thuê thợ
khắc ngày tháng với lời đề tặng! Giấy của Nguyễn Tuân thì ai còn lạ gì! Đó là
thứ giấy in báo tầm thường nhất; chỉ không tầm thường ở chỗ nó được cắt thành
khổ vuông, mỗi bề hai gang tay, nghênh ngang ra mặt. Cách mép giấy chừng một đốt
ngón tay, Nguyễn cho in một cái khung, và bên trong khung là những giòng kẻ
ngang lờ mờ. Bên phía dưới khung lại có in hai chữ Nguyễn Tuân, thủ bút của
đương sự. Tất cả đều dùng màu xanh lá mạ, rất hợp với nền vàng.

“Giấy này tôi vẫn
tự dành để viết những trang bản thảo đắc ý; bây giờ ông đem về tỉnh Nam, chép
thơ chép kịch cho “nó” thú. Rồi hôm nào gặp nhau, ta sẽ cùng đọc cùng ngâm,
cùng thưởng thức…”

“Cùng hát có được
không?”

“Ừ thì hát!
Nhưng việc này đã có Chu thị; chứ tôi với ông thì hát với hỏng gì…”

Mấy câu đối đáp
lăng nhăng này, Hoàng nghe như quạt mạnh vào bầu không khí ao tù của tỉnh lẻ.
Trong lòng tưởng thấy gió lên.

Nào thì hạ bút!
Chép cái gì đây? À, chép vở kịch thơ “Cô gái ma” đi! Dùng mực tím cho gợi cảm!

Ai ngờ duyên thơ
nợ kịch đã theo đà ngòi bút kéo đến ngay, tạo ra những bất ngờ quái ác, nó khuấy
động mãi cuộc sống tỉnh lẻ của Hoàng cho đến lúc tản cư mới tạm ngừng, bao gồm
cả một năm Tiền cách mạng, và một năm Hậu cách mạng. Tạm ngừng thôi. Vì cho đến
nay cũng chưa tàn vang bóng kia mà!

***

Thật ra thơ là
cái nghiệp Hoàng đeo đẳng những từ bao nhiêu kiếp trước và sẽ còn đeo đẳng mãi
không biết tới bao giờ; nhưng ở đây Hoàng muốn nói riêng cái duyên nợ kịch thơ
kia! Một thứ duyên nợ quái ác lắm. Nó “thực” như kịch, đồng thời cũng “ảo” như
thơ. Khiến cho người trong cuộc luôn luôn bị đặt giữa vòng vây của câu hỏi: Thực
hay Ảo? Tự giải đáp cách nào cũng không xong.

Thử vai tráng sĩ
trong vở Bóng giai nhân hai lần, vai Hoàng Lang trong vở Vân Muội bốn lần; từ
cuối 1942 cho đến lúc này, đã gần hai năm rồi còn gì, những tưởng về Nam Định ẩn
cư đợi chấm dứt mùa bom đạn, biết đâu “cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”. Trêu
ngươi thật.

Cái gác của
Hoàng ở phố Bến Thóc tỉnh Nam có hỗn danh là Gác Ống, vì nó dài tới mười mấy
thước, mà chiều ngang cũng như chiều cao chỉ vỏn vẹn có hai thước thôi. Nguyên
do: phía trên nó là tầng lầu, và phía dưới nó là cái cổng dẫn từ hè phố vào sân
trong. Nghĩa là ông thầu khoán xây nhà đã lý luận rằng cái cổng mà cao đến hơn
bốn thước phí quá! Chia quách ra thành hai cái ống; lợi được một gác xép lơ lửng,
chứa các thứ lặt vặt chẳng hơn sao?

Thế là gác Ống
đã chứa Hoàng – ngọa các riêng của Hoàng thôi, vì còn cả một tầng lầu dành cho
Hoàng và Oanh làm tổ ấm – chứa luôn cả kho sách gia bảo và một trời mây khói
lung linh.

Để rồi một tối
mưa Ngâu tầm tã, nó chứa thêm một quý khách, con người đã từng giác ngộ qua câu
hỏi đặt ra cho bản thân:

“Ở đâu
ta ở chốn này

Nằm
trong hờ hững gối tay vô tình?”

“Hoàng sướng quá
nhỉ?”

“Thế còn ông?”

“Vì mình tham
quá; cái gì cũng muốn ôm lấy, bây giờ vừa phải trông coi Ban Kịch, vừa phải tìm
kịch để diễn, vừa phải dựng kịch, huấn luyện diễn viên, hòa hợp những màu sắc
đường nét trên sân khấu.”

“Nhắc vở nữa chứ?...”

Chủ khách bỗng
nhìn nhau cười dài…

Chẳng là hồi đầu
năm, khi Hoàng và Oanh từ Kinh Bắc hồi đó, vừa kịp hay tin Ban Kịch Thế Lữ sửa
soạn, sửa soạn đưa vở Vân Muội lên sân khấu. Đáng lẽ ra bộ ba Giáng – Kỳ – Đôn
thủ các vai, nhưng họ còn phải tập nhiều vở khác, e khó thuộc trơn tru được vở
kịch thơ ma quái này; nếu Thứ Lang và Hoàng lại lãnh vai Vân Muội và vai Hoàng
Lang như mấy lần trước Ban Kịch Hà Nội đã tổ chức thì hay quá. Đỡ cho ông bầu
kiêm đạo diễn biết chừng nào!

“Tại Hoàng đi biệt
tăm biệt tích, mà Thứ lang cũng lêu têu như mây khói, chẳng tìm thấy đâu. Bây
giờ có mặt ở đây cả rồi, ta cứ thế nhé!”

“Ông khôn thật!...
Nhưng còn vai Vương Sinh, ai đảm đương?”

“Thì… anh Đôn…”

“Không! Anh Đôn
là họa sĩ, mà thủ vai họa sĩ Vương Sinh, chúng tôi lại thấy không ổn đâu.”

“Sao lạ thế? Anh
ấy đóng kịch khá lắm mà!”

“Chúng tôi có phủ
nhận điều đó bao giờ chứ! Nhưng, vóc người anh ấy cao quá. Mà… mà… không đẹp
trai bằng ông.”

“Nghĩa là?...”

“Chính ông lãnh
vai Vương Sinh đi.”

“Nhưng tôi làm
gì có thời giờ học vở. Mấy ngày nữa đã diễn rồi.”

“Đừng quá lo!
Hoàng sẽ nhắc. Ông có thừa kinh nghiệm sân khấu; lại gieo vần lựa điệu đã quen;
chỉ cần xem vở qua một lần là đủ…”

Rồi… quả nhiên
hôm diễn Vân Muội, Hoàng vừa đóng vai của mình, vừa nhắc Thế Lữ trong vai Vương
Sinh. Nhắc từng câu, nhắc cả cử chỉ nữa. Mà khán giả không hay biết gì. Mới thần
tình chứ!...

Nhịp cười dài
vang lên ở “gác Ống” sau đó nửa năm như nhắc lại cho nhau nhớ cái “liều lĩnh
quá sức tưởng tượng” ấy.

“Chúng mình liều
thật!”

“Mà… không hiểu
sao lúc bấy giờ tôi dám nhận điều kiện của Hoàng!”

“Thì tại là điều
kiện “si-nê-qua-non” mà! Với lại chắc cũng vì tội khen ông đẹp trai?”

““Người ta” biết
thừa đi là riễu “người ta”, chứ đẹp trai gì đâu. Không khéo còn già hơn cả Lan
Khai ấy chứ!”

“Thế… bây giờ
sao? Lại định “tái diễn” trò đó chắc?”

“Không! Lần này
diễn vở Nguyễn Thái Học, kịch xuôi kia”.

“Hoàng đóng thế
nào được vai Nguyễn Thái Học?”

“Ai bảo Hoàng
đóng nào! Kịch này “người ta” đã diễn ở Hà Nội và nhiều nơi khác rồi; bây giờ
đi lưu diễn: Nam Định, Thanh Hóa, Vinh, v.v. Võ Đức Diên thủ vai đó khá lắm”.

“Vậy, cần gì đến
Hoàng? Mà ông phải xông pha mưa gió đến đây!”

“Nhớ Hoàng, “người
ta” đến thăm, chứ sao lại phải “cần” mới đến!... Tuy nhiên, nếu Hoàng viết giúp
cho một khai từ thì…”

“Thế lần diễn ở
Hà Nội không có khai từ à?”

“Có chứ. Nhưng
Lưu Quang Thuận viết, chưa đủ hào khí. Vả lại lần này anh Diên bảo nên kéo dài
thêm phần khai từ, kẻo đêm diễn sẽ ngắn quá. Thời gian trình diễn vở Nguyễn Thái
Học chỉ một giờ hai mươi phút là cùng. Phải trình bày phần khai từ nhịp với những
hoạt tượng liên tục biểu hiện các cuộc tranh đấu giành độc lập của dân tộc ta,
kể từ Trưng Nữ Vương, Mai Hắc Đế, v.v.”

“Như vậy, dài cả
trăm câu thơ cũng nên!”

“Thì năm ngoái
Hoàng đã viết hộ “người ta” cái khai từ cho vở Kinh Kha của Vi Huyền Đắc, chỉ
hai mươi bốn giờ là xong. Lần này viết dài gấp đôi thì cũng bốn mươi tám giờ
thôi chứ gì!...”

“Còn liệu xem có
hứng không đã chứ?”

“Nhất định phải
có! Gắng giúp “người ta” đi!”

Nhà đạo diễn của
Ban Kịch Anh Vũ – lúc này là Ban Kịch Anh Vũ chứ không còn là Ban Kịch Thế Lữ
như năm ngoái – ra về khoảng mười một giờ đêm thì Hoàng bắt tay luôn vào việc,
bởi lẽ nguồn cảm hứng dâng mỗi phút một cao vời như có quỷ thần nhập vào ngòi bút.
Hoàng đặt nhan đề “Trả ta sông núi”, rồi… quanh quẩn sáng lúc nào chẳng hay.

“Trải bốn
nghìn năm dựng nước nhà

Sông
khoe hùng dũng núi nguy nga…

Trả ta
sông núi!... bao người trước

Gào thét
đòi cho bọn chúng ta.

Trả ta
sông núi!... Từng trang sử

Dân tộc
còn nghe vọng thiết tha.

Ngược vết
Thời gian, cùng nhắn nhủ:

Không
đòi, ai trả núi sông ta!

Cờ Báo
phục, hai Bà khởi nghĩa

Đuổi
quân thù xưng Đế một phương

Long
Biên sấm dậy sa trường

Ba thu
xã tắc miếu đường uy nghi.

Xót nòi
giống quản chi bồ liễu

Giòng Cấm
khê còn réo tinh anh

Một phen sông núi tranh giành

Má hồng ghi dấu sử xanh đời đời

Bể dâu mấy cuộc đổi đời

Lòng trăm họ vẫn dầu sôi bừng bừng

Mai Hắc Đế, Phùng Hưng Bố Cái.

Liều thế cô, giằng lại biên cương.

(Xem Phụ lục)

Trên đây mới có hai mươi câu; tiếp
theo là một trăm câu nữa (có in đầy đủ trong tập Hoa Đăng xuất bản năm 1957 tại
Sài Gòn, nghĩa là mươi lăm năm sau).

Ban Kịch trình diễn tại rạp hát phố
Hàng Rượu. Màn hoạt tượng gây xúc động ghê gớm; tiếng vỗ tay vang dội tưởng đến
vỡ rạp; mà không biết ai ngâm bài khai từ hôm đó, giọng thê thiết như tức tưởi,
lại hùng tráng như lệnh xuất quân!

Khi nghe lời điệp khúc:

Tinh thần Độc lập nêu cao;

Sài lang kia, núi sông nào của ngươi?

Sự giật mình của Hoàng xét ra hợp
tình hợp lý chứ đâu phải vì đa cảm suông.

Vì ngay sau lúc buông màn, hiến binh
Nhật đã ùa cả vào hậu trường tìm ông đạo diễn hỏi chuyện. Hoàng thấy có biến,
đành phải ngồi yên tự coi mình như bất cứ khán giả vô tội nào. Hãy chờ xem ngã
ngũ ra sao đã!

Nhưng rồi bọn hiến binh của Thiên
hoàng lại kéo nhau dời hậu trường ra ngồi… xem kịch. Nghĩa là vở kịch Nguyễn
Thái Học vẫn diễn như thường. Hú vía!

Dầu sao Hoàng cũng nóng ruột, chờ một
cơ hội thuận tiện là cất lẻn ngay vào “bên trong”…

“Thế nào? Họ có làm lôi thôi gì
không?”

“Về ngay đi, chứ lại còn đứng đấy hỏi
nữa!”

“Thì hỏi cho biết”.

“Lúc khác hẵng hay! Người ta
còn cả trăm việc”.

Câu nói kèm theo
một cái nháy mắt. Hoàng hiểu ý, ra về luôn.

Mãi tối hôm sau
mới có tin. Thì ra anh chàng “Lê Phong phóng viên” nhanh trí thật. Kinh nghiệm
như mật thám Tây cũng đến bị lừa chứ đừng nói chân ướt chân ráo như hiến binh
Nhật! Đây, những câu đối đáp ở hậu trường:

“Ai cho phép các
ông ngâm bài thơ lúc nãy?”

“Dạ đó là bài
khai từ.”

“Có dấu kiểm duyệt
chưa?”

“Dạ, phải có chứ
ạ.”

“Tác giả đâu?”

“Dạ, đang hóa
trang để đóng trong vở kịch tiếp.”

“Gọi ra đây. Và
đưa cái bài lúc nãy ra cho chúng ta xem.”

“Dạ, có sẵn và sẵn
lòng lắm.”

(Kẻ trao người cầm
và hỏi thông ngôn).

Sau một tràng tiếng
Nhật ném qua ném lại… Rồi:

“Bài này cũng chẳng
có gì “phạm” cả. Ở… ở… sao lúc nãy nghe…”

“Dạ, bài này kiểm
duyệt từ Hà Nội và đã ngâm nhiều lần ở các nơi rồi. Có lẽ ngâm lên nghe “nó thế”
chứ thật ra nội dung có gì “phạm” đâu!”

“Thôi được. Để
chúng tôi đem bài này về xét lại.”

Thật tức cười… đến
chảy nước mắt. Vì đó chỉ là bài khai từ cũ, của Lưu Quang Thuận. Chứ bài của
Hoàng, đã kiểm duyệt đâu mà dám đưa ra.

Trỏ hươu làm ngựa…
cứ dễ như chơi! Đóng kịch đến thế mới giỏi. Đáng mặt đạo diễn kiêm thi sĩ kiêm
phóng viên!

***

Ban Kịch Anh Vũ
trên bước Nam du, chẳng biết rồi phiêu lưu đến tỉnh nào và đến đâu thì quay lại.
Chỉ biết sau đó Hoàng bị mắc vào vở kịch Ngã ba, rồi cứ đi đi về về Nam Định,
Hà Nội như đi chợ. Thật ra Hoàng có lãnh một vai nào trong vở ấy đâu; vì Hoàng
chả dại gì đem thân dấn vào cái ngã ba điêu đứng ấy để rồi đi ngã nào cũng bị dẫn
tới ngõ cụt, mà cứ liều ỳ ra, giẫm chân tại chỗ, thì… sa lầy nhất định, không
ai “kích” lên cho đâu.

Ngã ba? Kịch của
ông Đoàn. Do chính ông ta đảm nhận một vai quan trọng. Hoàng còn nhớ như in vào
tâm não cái cảnh ông ta tập thổi kèn tàu. Mà người dạy thổi lại là một lão bộc
gù – do kịch sĩ Ngọc Đĩnh đóng – mới éo le chứ. Ông Đoàn ơi ông Đoàn! Ngọc Đĩnh
dạy ông mục ấy thế nào được! Ông điên hả? Đáng lẽ phải là Hoàng chứ. Nhưng đội
lốt một lão bộc gù thì nó lạy ông “cả nón” thôi.

Hoàng nói đùa vậy
cho vui chút mà! Ai cũng biết chuyến này Hoàng tự ý đứng ra ngoài “Ngã ba”. Hay
– cho đúng hơn – bay lơ lửng ở phía “Ngã ba”. Lơ lửng đám mây xanh, nếu đó là
khoảng không; còn nếu đó là nước thì lơ lửng con cá vàng cũng vô hại.

Kìa đủ mặt các bạn
thân đóng trò bên cạnh tác giả: ông Tuân này, ông Quỹ này, Đỗ quân và Thứ lang
nữa này. Còn nữa. Nhớ không xuể. Nhưng hẵng cứ bằng ấy người cũng đủ cho Hoàng
có bạn chơi du dương cả tháng trước khi vở kịch lảo đảo tự “dinh” lên sân khấu
rạp Kim Môn, phố Hàng Buồm.

Gọi là tập kịch
cho đủ lệ bộ vậy thôi; chứ sự thật ông Đoàn thiết gì tập với rượt. Chính ông ta
là tác giả kiêm vai chính mà còn thế, trách sao được anh em. Càng không trách
được Hoàng, kẻ đứng ngoài cuộc… Trà thất, tửu điếm, kỹ viện, ca lâu… mặc tình
vui thỏa! “Ai yêu ta thì theo ta!”. Chứ sao?

Đến đêm diễn, mệt
rã cả người! Hoàng ngồi xem đến cảnh Thứ lang – vai một sinh viên thất tình nhảy
xuống hồ Trúc tự trầm – được vớt lên, và kéo lê từ hậu trường ra sân khấu, mặt
trắng bệch, tóc lướt thướt, tay mềm thõng như bún… Trời ơi! Hoàng lo quá. Lộng
giả thành chân biết đâu! Huống hồ nó đã say cả tháng: men, khói, đàn, phách… Rượu
ngon… lại bạn hiền sẵn, hàng nửa tá. Hát ngọt thì người xinh cũng phấp phới như
bướm lượn, hễ sát cánh là đẹp đôi ngay.

Rồi đến cái cảnh
“lên đường” của ông Tuân – vai gì chẳng nhớ nữa, nhưng tất phải là thanh niên
thời đại rồi – “lên đường” một cái hùng lắm, vang dội nhiều suy tư lắm, chứ
không bằng phẳng, vô ý thức đâu! “Đoàng! Đoàng!”. Tiếng súng nổ từ tay vai trò.
Nghe cứ y như tiếng ông Tuân – lúc này đã ngã sấp xuống – Ờ! Ờ! Nghe cứ như gọi
“Hoàng! Hoàng!” ấy thôi. Này ông Tuân! Đã tự sát rồi mà còn rủ anh em cùng lên
đường đấy hả?...

Mệt quá! Trên
chuyến xe về Nam Định, Hoàng có cảm tưởng cuộc chơi đến đây là tự chấm dứt.

Hoặc đang sửa soạn
chấm dứt, kịch Ngã ba của ông Đoàn giống như ánh lửa gắng sức lóe sáng trước
khi ngọn đèn tắt. Nhưng, tàn “cuộc chơi” để thắp lên “cuộc” gì đây? Bất cứ cuộc
gì tiếp theo, Hoàng cũng chả thú nữa!

“Về đi thôi, hề,
về đi thôi!…”

Dầu sao “vở kịch
hiện tượng” này cũng đem đến cho Hoàng mấy phút cuồng ngâm thay thế cho bài ca
Cổ bồn đã hơn hai ngàn năm cũ rích! Ngâm rằng:

Ngã ba,
hề, Ngã ba!

Có phải
chăng, hề, Ba là Sóng?

Có phải
chăng, hề, Ngã là Ta?

Sóng
không giết nổi, hề, chàng thi nhân mặt trắng

Ta không
chết được, hề, vì điệu kèn đám ma!

Ai hát
kìa: Bác trai đi vắng?

Ai cười
đây: Bác trai có nhà?...

Lên đường?
Lên đường ư? Vào cơn tận túy!

Ôi! Ngã
là Ngã quỵ?

Hay Ba
là Ba hoa?

Ông
Đoàn, ông Đoàn nhỉ!

Cuộc
chơi tàn ru mà?...”

Nghĩ đến đây,
Hoàng chợt cười lớn – cười một mình – vì chỉ muốn hạ tiếp:

A ha! Đập
mẹ kịch đi không diễn nữa!

Người
nào là ngươi? Ai là ta?

Sự thật hai câu
này đâu phải của Hoàng! Chúng được dịch từ bài “Hát gõ chậu”:

Y! Sao
toái ngõa bồn bất tái cổ!

Y thị hà
nhân? Ngã thị thùy?

Mà chẳng nhớ ai
dịch nữa! Mượn của người ta, bất tiện lắm. Vì của người ta là:

A ha! Đập
mẹ chậu đi không gõ nữa!

Người
nào là “en”? Ai là “moa”? [1]

Thôi, đành chấm
hết sau những chữ “ru mà”; cho nó có “hậu” một chút.

[1] Trọn bản
dịch bài Trang tử Cổ bồn (của khuyết danh):

Trời đất
vô tâm sinh ra “en” với “moa”

Moa
không phải chồng en, en há là vợ a?

Bỗng
nhiên rồi gặp gỡ

Cùng ở
chung một nhà.

Kỳ hạn
nay đã đến

Có hợp
thì có xa…

En nhớ
moa, thưởng cho moa ăn búa lớn

Moa
thương en, khóc en bằng lời ca.

A ha! Đập
mẹ chậu đi không gõ nữa!

Người
nào là en? Ai là moa?

***

Thế rồi cũng bước
sang năm Ất Dậu (1945) lúc nào không hay. Một năm vô tích sự, vì Hoàng chẳng
cho in được tập thơ nào, chẳng cho diễn được vở kịch nào ra hồn; chỉ đi đi về về
đến mòn cả… đường sắt. Có lẽ thiên hạ “làm” nhiều quá, nên mình phải “vô vi”,
thiên hạ ai cũng ngứa tay ngứa miệng trên chiều hướng “động”, nên mình phải
tĩnh tọa, tĩnh tâm.

Ấy vậy mà vở kịch
vẫn ngấm ngầm gieo hạt để đúng lúc kết thành những trái đắng cay!

Nguyên do, đầu
tháng Ba dương lịch, họa sĩ “Mê Ly”, người có cái tên bất hủ tiền định Lập Ngôn
đã từ núi Ngôn ra tỉnh lỵ, đến tá túc ở gác Ống một tuần, rồi kéo Hoàng lên Hà
Nội.

Vừa tới được phố
Hàng Giò, và cơm rượu vừa bưng lên – khoảng mười một giờ đêm – thì… “đùng, đẹt…
đẹt, đùng”, Nhật đảo chính Pháp.

Còn ai tính được
chuyện gì nữa; nhất là chuyện văn chương nghệ thuật! Họa sĩ đi đằng họa sĩ, và
Hoàng đi đằng Hoàng.

Nhưng nếu chuyến
ngược có bạn đồng hành, thì chuyến xuôi cũng không đến nỗi đơn thương độc mã. Vắng
trăng, đã có sao, Nhà giáo Phan Khắc Khoan, thi sĩ kiêm tác giả nhiều vở kịch
thơ, chẳng hiểu từ đâu mọc ra mà nhất định mắc vào cuộc rút lui chẳng mấy vẻ
vang của khách Giang hồ vặt. Nằm cả tháng ở gác Ống, họ Phan chỉ liếc nhìn mây
khói chứ không dám nếm một lần nào, do đó cũng đâm buồn và cổ động “dựng kịch”.
Lại kịch! Thôi, ông “làm” đi, tôi nhường địa bàn hoạt động cho ông đó; tìm được
Mạnh thường quân nào ở vùng Sơn Nam Hạ này thì cứ múa may đi. Tôi sẵn sàng đóng
vai… khán giả.

Hoàng nói thế,
tưởng nói mà chơi… Ai ngờ họ Phan đào ra được Mạnh thường quân thật, mới chết
chứ! Thế là diễn lung tung: Phạm Thái, Trần Can, Lý Chiêu Hoàng (của ông ta),
và cả Bóng giai nhân (của Nguyễn Bính) nữa!

Phan Khắc Khoan
đảm lãnh tất cả những vai chính. Phạm Thái cũng ông, Trần Can cũng ông… rồi
Tráng sĩ trên bến Hoàng Sa cũng ông nốt.

Ngồi nghe ông
ngâm:

“Bến
Hoàng Sa, phải đây nhà Lý Đạt,

Thợ lành
nghề chuyên đúc những gươm thiêng?

Đã nghe
đồn từ lúc bến xa thuyền;

Thuyền bỏ
bến, ta vào đây… xứ lạ [2]!...”

[2] Thơ
Nguyễn Bính.

Sao mà Hoàng nhớ
“cái chính mình” của ba năm trước thế không biết! Chỉ đáng buồn ở chỗ bóng giai
nhân chuyến này không còn giữ được mảnh mai như dạo nọ. Vì… hỡi ơi! Người đẹp của
tác giả Nguyễn Bính đã trở thành “người đàn bà đẹp”. Phận liễu nảy nét ngang mất
rồi.

Lý do: Ông
Khoan, lấy quyền đạo diễn, thêm vào một hài nhi trên tay giai nhân. Để có dịp
cho ông viết thêm chừng vài trăm câu thơ nữa, kéo dài lý luận của người tráng
sĩ – chính ông đóng – rằng: giết như thế, một mạng sẽ hóa hai. Chi bằng: thôi
không giết nữa, gươm chẳng thiêng thì đừng!

Hỡi ơi! Kịch
Bóng giai nhân của Bính đã đẻ thêm ra một kịch con đấy, Bính biết chăng? Tấn kịch
con ở ngoài Kịch, ở ngoài Bóng, nghĩa là ngay trong đời – giữa năm 1945 nhiều
biến cố – sao không ra Bắc mà nhận con?

“Công
chúa tháng Ngâu ngày nguyệt tận,

Đời con
rồi khổ đấy con ôi…”[3]

[3] Còn
sáu đoạn nữa mới hết bài, nhưng trong tập Trời một phương chỉ in có ba đoạn
thôi (xem Phụ lục).

Nhưng Hoàng vừa
buồn, lại vừa lo. Cái trò “vẽ rắn thêm chân” này báo hiệu gì đây chứ? Điềm lành
hay điềm dữ đây, hở Trời?

***

Tuy nhiên Hoàng
vẫn quý ông Phan Khắc Khoan thật tình. Quý ở chỗ: ông đi biệt đâu hàng nửa năm
rồi bước qua 1946, ông lại trở về nằm gác Ống, như chẳng có chuyện gì xảy ra
trên đất nước, nghĩa là vẫn mê thơ mê kịch không khác gì lúc Bảo Đại còn ở ngôi
vua, bom nguyên tử chưa ném xuống Quảng đảo… và ông còn vác gươm đi tìm người
giết cho đủ số để gươm linh.

“Hoàng ạ, Ban Kịch
Đông Phương của bọn Hoàng Tích Chu lực lượng có vẻ khá lắm”.

“Khá là khá thế
nào?”

“Thì đông người,
nhiều vở, sẵn tinh thần hy sinh cho kịch nghệ, cho văn chương”.

“Sao biết?”

“Anh em trên Hà
Nội bảo thế! Từ Tết đến giờ (Tết Bính Tuất). Hoàng chỉ nằm miết ở Bến Thóc thì
còn biết gì!”

“Ờ đúng”.

“Tin đích xác
đây này: Tối mai Ban Kịch Đông Phương trình diễn tại Thái Bình, và diễn liền mấy
tối sau nữa. Ngay tỉnh lỵ. Hoàng có đi với tôi sang bên đó không nào?”

Đây với Thái
Bình, đi lúc nào chẳng được! Qua bến đò Tân Đệ xe “ca” vèo một cái là đến nơi.
Có hai chục cây số!

“Hoàng thuộc địa
dư lắm nhỉ?”

Chuyện! Giang
sơn đâu, anh hùng đấy. Tôi thử vào Quảng Trị, Thừa Thiên xem ông có phải đóng
vai hướng dẫn không!

Thái Bình. Tỉnh
lỵ nhỏ xíu, chỉ có mỗi một phố chính là đông vui chút ít; còn vài ba phố ngang
thì xơ xác lèo tèo. Cứ đến hàng ăn kiêm sòng bạc Đông Phát, kế cận sông Bo, là
có tin gì trong tỉnh, lượm được hết. Ban kịch ư? Hiện đang tá túc ở xóm huyện
Vũ Tiên, nhà cậu hai, con ông Nghị.

À, chỗ quen cả!...
Xuống đến nơi, vừa qua giờ Ngọ; toàn ban đã ăn uống no đủ, và đang kéo nhau ra
xe đi thăm chùa Keo. Mấy chiếc xe “ca” được cậu Hai mướn để đãi khách phương xa
một chầu du ngoạn, chiếc nào cũng mới toanh chỗ ngồi rộng rãi lắm.

Thế là Hoàng giới
thiệu nhà thơ họ Phan với mọi người, và cả hai mắc luôn vào ban kịch. Chùa Keo,
Hoàng đã từng đến vãn cảnh nhiều phen rồi, nhưng sao lần này cỏ cây u nhã đến
thế! Như có chất say bàng bạc khắp cả! Dễ thằng câu chuyện trao đổi với Ban Kịch
Đông Phương ở nơi đây cũng lời từng tiếng dậy ngát một mùi hương túc duyên nào
chứ chẳng phải nước bèo gặp gỡ đâu. Lạ thật!

Đối với họ Phan,
người ta còn khách sáo ít nhiều; chứ đối với Hoàng thì, toàn ban đều thân mật,
coi như “cố nhân”. Có lẽ bởi họa sĩ Hoàng Tích Chù – em ruột Hoàng Tích Chu –
là chỗ thế nghị của Hoàng chăng? Hay bởi tác giả quan trọng của ban kịch là thi
sĩ Hoàng Cầm, chỗ thanh khí của Hoàng, từng đã gặp nhau ở xóm Niềm bên Kinh Bắc?
Hay vì trong số các nghệ sĩ của ban kịch có một người từng đã hợp tác với Ban Kịch
Hà Nội, và do đó cùng Hoàng khá thân? Hay là v.v…

Tối hôm đó diễn
vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Chỉ có bốn vai – đều vai chính cả! – nhưng
điều đáng nói là một trong bốn vai ấy đã do Tuyết Khanh đóng. “Người đẹp” này,
Hoàng đã từng chiêm ngưỡng trên màn bạc rồi – phim Cánh đồng ma của ông bạn Đàm
Quang Thiện – và cũng chẳng thấy gì đáng mê lắm. Hồi chiều, cùng ngồi trên gác
chuông của chùa Keo, người đẹp cũng đã cất tiếng hát một bài tân nhạc trong đó
“có cây đa to, có thằng Cuội già” nhưng toàn ban đều hòa nhịp đồng ca, nên át mất
cả giọng ngọc. Hoàng đã chẳng lấy làm tiếc, vì xét theo mấy âm thanh đầu tiên,
khi còn độc xướng, Hoàng khó mà tự dối lòng rằng đó là một giọng hát hay. Tuyết
Khanh! Cái tên đẹp thế, mà giọng lại không làm mê được Hoàng ngay từ đầu, hận
chưa! Hai chữ “giọng ngọc” chỉ là đặt theo đúng phép lịch sự…

***

Thế mà – ai học
đến chữ ngờ! – cơn mê đã bắt đầu chiếm đoạt Hoàng trọn vẹn, cách hai tuần sau,
để kéo dài mãi, đến giờ phút này cũng chưa hẳn nhòa tan đấy.

Khanh đã có bùa
mê chăng? Hay là hai câu thơ Hoàng vẫn quen miệng nghêu ngao:

“Bán sinh phong cốt lăng tằng thậm

Nhất phiến nhu hoài chỉ vị khanh.”

Đến bây giờ mới thật sự ứng nghiệm và
cho thấy cái oai lực vô biên của một lời tiên tri.

Hình như có ai đã từng cảm, và đã từng
dịch hai câu thơ cổ ghê gớm này thì phải… Hoàng nhớ mang máng rằng:

“Nửa đời sương gió ngang tàng

Trái tim mềm, chỉ vì nàng đấy thôi.”

Dịch thế chưa khám phá, mặc dầu cũng
gợi cảm ít nhiều! Phải để nguyên chữ “Khanh” kia, chứ sao lại chuyển thành chữ
“nàng”?

Sao không dịch:

“Nửa đời sương gió ngang tàng lắm

Mềm, chỉ vì Khanh, một trái tim…?”

Ôi, chỉ vì Khanh, vì Khanh! Chắc chắn
Khanh ngạc nhiên. Mà chính Hoàng đã ngạc nhiên trước hết. Ngạc nhiên gấp hai lần
Khanh. Gấp bốn lần Hoàng Cầm. Và gấp cả trăm lần thiên hạ.

Hãy bắt đầu từ chỗ bắt đầu: Tuần báo
Thế sự? Chứ sao? Bởi lẽ, nếu không… thì đã chẳng…! Định mệnh đấy! Trong “Thế sự”
hàm chứa cả “Thiên cơ”.

Tuần báo này xuất hiện khoảng giữa
năm 1946. Do một nhóm trí thức khoa bảng, đặc biệt ở chỗ khoa bảng mà “lêu
têu”, trí thức mà “bất chấp”. Chủ nhiệm: Phá Quân, một trong mười vị cử nhân
khoa học đầu tiên của Trường Đại học Khoa học Hà Nội. Cũng từng đeo lon Chuẩn
úy trong quân đội Pháp một thời gian, với mục đích nghiên cứu cho ra cái phương
thế tổng hợp chiến thuật Âu Tây và binh thư Tôn Võ Tử, Trần Hưng Đạo. Bạn đồng
khoa cùng Phá Quân – giáo sư họ Khúc – đóng vai quản lý. Bằng cấp đầy mình!

Riêng chủ bút – Hoàng – thì không kể!

Báo quán đặt ngay tại gia, một căn
nhà miệt chợ Hôm vừa mới thuê được, do Vinh Lương Sơn – hỗn danh Chủ trại – điều
đình giá cả và chạy tiền trả từng tháng. Cũng như sẽ chạy tiền trả từng số báo
cho nhà in.

Hoàng được triệu từ Nam Định lên. Viết
phiếm luận. Viết truyện ngắn. Viết cả kịch. Và dĩ nhiên có bài thơ nào sẵn
trong túi thì đem ra đăng. Chủ bút mà! Ký linh tinh nhiều bút hiệu: Hoàng Say,
Bạch Vương, v.v.

Một hôm lêu têu thế nào lại ghé thăm
ông bạn Hoàng Tích Chù ở ngõ Hàng Đũa, nhà riêng của ông ấy, mà cũng là nơi trú
ngụ của toàn thể Ban Kịch Đông Phương.

Khanh ở Hải Phòng lên, gia nhập ban kịch
từ một tháng trước, cũng đóng đô ở đó luôn. Và hình như sau chuyến lưu diễn
Thái Bình, mọi người đang sửa soạn tập vở Kiều Loan của thi sĩ Hoàng Cầm thì phải.

Họa sĩ Chù nói chuyện vui lắm. Khanh
góp chuyện càng vui. Nhất là chuyện đất Cảng nơi đã có nhiều duyên nợ với
Hoàng, với Khanh.

Thế rồi… lần sau. Lần sau nữa… Tình mỗi
ngày mỗi thân. Để rồi… Giữa một giây phút bất ngờ nào đó, giọng nói của Khanh
trầm hẳn xuống, nghe xa vắng lạc loài:

“Hoàng giúp Khanh một việc nhé!”

“Thật ư.”

“Đừng để Khanh thất vọng, thì Khanh mới
nói.”

“Thất vọng sao được, Khanh!”

“Hoàng giúp Khanh một lối sống… như lối
sống của Hoàng bấy lâu nay.”

“Khanh đã nghĩ kỹ rồi chứ?”

“Vâng, Khanh muốn được như Hoàng.”

“Nghĩa là…”

“Sống thản nhiên, tự tin vào thơ của
mình. Bất chấp mọi khó khăn, mọi nguy hiểm, mọi oan trái.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3