Bốn Mươi Năm Nói Láo - Phần III - Chương 3

TRUNG VIỆT TÂN VĂN

Nguyễn Phổ, Nguyễn Doãn Vượng và tôi sống một
cuộc đời thanh thản trong vài tháng. Hàng ngày, chúng tôi ngồi bàn bạc với nhau
ra một loại báo giật gân theo kiểu Tabloid (tôi đã viết nhiều về loại báo này
trong “Trung Bắc Chủ Nhật”); có lúc lại bàn làm một tờ báo in giấy màu hồng cho
Đồng Minh (với sự cộng tác của một ký giả lành nghề mà không hề ai biết tiếng
là Văn Thu), nhưng rồi kết cục không xong đâu vào đâu cả. Chúng tôi nhìn quân
đội Lư Hán vào tiếp thu Hà Nội với tính cách quan sát viên một thời gian, thì
một hôm Phổ, thay mặt cụ Lê Kì, mời tôi sang nhà ở phố Nhà Thương Phủ Doãn bàn
về một tờ báo lớn: Trung Việt Tân Văn. Phổ nói với tôi một cách dè dặt, vì
trước khi đó, tôi đã từ chối không chịu hợp tác với tờ “Bình Minh”, một tờ báo
hàng ngày khác, của Nguyễn Giang, anh ruột Phổ.

Tại sao lại không làm tờ “Bình Minh”? Muốn
cho thật rõ, ta cần phải biết tại sao dưới thời Nhật lại có tờ báo đó.

Vào thuở “lên” nhất của Phạm Lê Bổng, ông có
ra một tờ báo chữ Pháp là “Patrie Annamite” do Tôn Thất Bình, con rể Phạm Quỳnh
chủ bút, Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính phụ trách về bài vở và một tờ báo chữ Việt,
tờ “Việt Báo”, mua lại của Bùi Xuân Học, do một tập đoàn gồm có Nguyễn Đức
Bính, Văn Hạc Lê Văn Hòe, Micro Bùi Xuân Như và mấy anh em khác viết bài. Chính
Phạm Lê Bổng không để mắt tới hai tờ báo đó. Công việc làm báo và doanh thương
nằm hết cả trong tay bà vợ; còn ông thì tất cả hoạt động tập trung vào việc triệt
để theo bám Bảo Đại, Phạm Quỳnh, bảy ngày một tiệc lớn, ba ngày một tiệc nhỏ,
để mua lòng Đại Pháp bảo hộ, củng cố chức viện trưởng viện Dân biểu cướp được
của Phạm Huy Lục trong tập đoàn Nguyễn Văn Vĩnh.

Phạm Lê Bổng, lúc đó, là đầu đề của rất nhiều
bài vè nhạo báng mà cũng là điển hình của sự lố bịch, trơ trẽn trong dân gian;
nhưng sự liều lĩnh, sự thiếu suy xét của ông chỉ lên tới tột bực lúc Nhật đổ bộ
lên Đông Dương, ông đi với Chauvet giữ một chức vị quan trọng trong ủy ban thu
thóc của Pháp, để sửa soạn một cuộc chống Nhật vô cùng thâm thiểm. Tôi nhớ có
một hôm cuối tháng chạp, dưới mưa bay lất phất, tập đoàn Trung Bắc Chủ Nhật đi
chợ Tết, qua nhà Phạm Lê Bổng thấy lính canh hết sức uy nghiêm, một người trong
bọn nói đùa:

- Nó lên đến tột bực rồi, nay mai thể nào
cũng xuống. Hai cái nhà lớn nhứt phố Hàng Bồ của nó, ai dám quyết nay mai lại
chẳng sang tay chủ khác? Các cụ nói “Nhất điền thiên vạn chủ”, ấy thế mà không
có sai đâu nhé.

Nói đùa thế mà thành ra đúng. Nhật hạ Pháp
rồi, bắt luôn Phạm Lê Bổng giam một chỗ. Để cứu vãn lấy chỗ đội nón, ông Bổng xin dâng cả hai căn
nhà ấy cùng với nhà in, máy móc cho quân đội Nhật sử dụng. Cố nhiên Nhật vui
lòng nhận đỡ cho Bổng, và hai cái nhà ấy được dùng làm tòa soạn và nhà in báo
“Bình Minh”, nhưng sau khi Nhật thua, Tàu tới, rồi Pháp quay trở lại, thì không
hiểu sao, Đỗ Xuân Mai, tức là chủ nhà in Mai Lĩnh lại sử dụng nhà in đó, đem
bán lại cho ông Bách, công ty với bà Hòa Tường, dọn tất cả về đường Hàng Chuối,
để rồi hình như lại chuyển sang cho “thần chưởng” Bùi Ngọc Phương (sau này nổi
tiếng là Vua Dầu Hỏa). Nhưng đó là chuyện sau. Trở lại lúc Phạm Lê Bổng bị bắt,
xin với Tasaki cho gặp bộ trưởng Yokohama, phụ trách về văn hóa, để tình nguyện
dâng cả nhà cửa và máy in, máy xén, máy đúc cho quân đội Nhật. Hai ông Komatsu
và Omya, trong bộ Văn Hóa, bèn mời ba ký giả là Nguyễn Doãn Vượng, Khái Hưng
Trần Khánh Giư (trong tập đoàn Phong Hóa, Ngày Nay) và Nguyễn Giang (con trai
cụ Nguyễn Văn Vĩnh) đứng ra sử dụng nhà in Việt Báo của Phạm Lê Bổng tặng, và
xuất bản một báo hàng ngày là tờ “Bình Minh” để đề cao quân đội Nhật và chương
trình Đại Đông A của Đại Nhựt Bản.

Trước mặt Nguyễn Giang và Trần Khánh Giư,
Nguyễn Doãn Vượng từ chối không làm. Tôi biết chắc đây không phải là lần đầu
Vượng từ khước nhà in của Bổng. Trước đó ít lâu, sau một hội kiến về đêm với
Bổng, Vượng đã cho tôi biết là Bổng, trước biến chuyển của thời cuộc, đã “lơn”
Vượng và đề nghị “tặng” nhà in Việt Báo cho riêng anh và anh đã đem việc này
nói cùng ông Luận. Ông Luận đưa ra ý kiến là nếu bán rẻ thì mua chớ không lấy
không: còn Vượng thì dù bán rẻ cũng không chơi, vì anh tuy là bạn với Bổng,
nhưng không muốn dính líu gì với Bổng. Thành ra đến lúc Komatsu và Omya đề nghị
cho tam đầu chế Vượng, Giư, Giang, cái nhà in và hai tòa nhà, Nguyễn Doãn Vượng
từ khước liền, viện cớ rằng anh đã có hai tờ “Trung Bắc Chủ Nhật”, “Báo Mới”
với một nhà in cũng khá lớn, mà hiện giờ thì nhà in còn đang thiếu thợ làm,
chưa sử dụng được triệt để các máy móc nhằm thi hành kế hoạch đã vạch sẵn của
anh. Trần Khánh Giư không nói gì, nhưng Nguyễn Giang thì nói với Komatsu, với
giọng nửa đùa nửa thật: “Vượng từ chối vì hắn sợ Tây trở lại.” Vượng trả lời:
“Tôi sợ Tây hay không thì có Komatsu ngồi đây biết rõ.” Komatsu cười, nhìn
Giang và Vượng, nói (bằng tiếng Pháp): “Không, tôi biết Vượng lắm, anh ta đúng
là đạo Trung Dung; nhưng anh Giang, anh là một cha muốn làm ái tình, nhưng nhát
quá nên đành thủ dâm.” Tờ “Bình Minh” ra đời, không có Nguyễn Doãn Vượng là do
lẽ đó. Trong tháng đầu xuất bản, tờ “Bình Minh” cũng được người ta tìm đọc khá
đông, nhưng về sau, phần vì không có gì mới lạ, phần vì người ta chán ngán chế
độ hà khắc của Nhật, nên số độc giả “Bình Minh” sụt dần. Khái Hưng rút lui;
Nguyễn Giang mời Phan Quang Đán (lúc đó làm tổng thư ký hội Cứu Đói với Mai Văn
Hàm, chủ nhiệm tờ “Tin Mới” mua lại của bác sĩ Luyện) về làm chủ bút. Nhưng vì
Đán không rành về nghề báo, nghề in, lại thêm cái chữ quốc ngữ mới của Nguyễn
Giang đưa ra cố đọc cũng không tài nào mà đọc được, nên báo “Bình Minh” sụt
mãi, sụt mãi, để thành ra một thứ báo “cơm nguội” không ai buồn mó tới.

Chính vào lúc đó, Nguyễn Phổ và Nguyễn Dương,
hai em trai của Nguyễn Giang, tìm tôi rủ về “cứu vãn” tờ “Bình Minh”, nhưng vì
biết Nguyễn Giang là một thứ “đồ gàn”, có tính lẩm cẩm, nên tôi dễ từ chối, và
tôi đã từ chối ngay, viện lẽ là không ai chịu được Giang, có làm với nhau bất
quá cũng chỉ được ít lâu rồi lại thôi thì hợp tác làm gì. Làm với nhau thì oán
thán, thù hằn, thế thì không làm với nhau để giữ lấy tình anh em trước sau như
một, há lại chẳng hơn ư? Chính vì lẽ đó, nên lúc Nguyễn Phổ đề cập đến việc tôi
về giúp cho tờ “Trung Việt Tân Văn”, anh nói với tôi một cách dè dặt; nhưng lần
này thì tôi nhận lời anh, sau một vài đêm suy nghĩ. Tôi nói “suy nghĩ” cũng là
đúng một phần nào, vì người làm báo ở vào lúc đó thật là khó tính, nhất là một
người làm báo không thuộc đảng phái nào, chỉ biết có nghề mình và quyền lợi của
dân tộc. Lúc ấy, Nhật thua trận, quân đội Lư Hán đến tiếp thu quân đội Nhật, và
Việt Minh thì vừa mới về, đem lại tin tưởng và lẽ sống cho dân. Tất nhiên,
những mâu thuẫn và cọ xát giữa Việt Minh và Trùng Khánh không thể nào không xảy
ra. Làm ăn mà không khéo thì bị mang tiếng là phản bội; nhưng trái lại, nếu có
lập trường vững chắc và một đường lối sáng suốt thì cũng có thể đỡ đần một phần
nào chính thể mới phôi thai lúc đó, bị tấn công về mọi mặt. Không tối nào tôi
không cùng Phổ và Kì (Nguyễn Kì là con trai cụ Vĩnh, em của Phổ) và Dương
nghiên cứu, thảo luận nên làm ăn ra thế nào, một mặt; và mặt khác, tôi thường
xuyên gặp Phùng Bảo Thạch, Ngô Tất Tố, Thượng Sĩ, Trần Kim Dần để xét cho thật
kĩ có nên nhận làm báo “Trung Việt Tân Văn”, cơ quan chính thức của quân đội Lư
Hán đến tiếp thu quân đội Nhật hay không. Anh Phổ, bây giờ anh ở đâu? Vẫn còn ở
Bắc Việt hay đã đi Tây đi Tầu rồi? Mười lăm năm xa cách - bằng cả một cuộc đời
phiêu bạt của cô Kiều! - mười lăm năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ thương anh
như những ngày ở hậu phương và không bao giờ tôi quên được những đêm không ngủ,
chúng ta uống cà phê nói chuyện về quân Nhật đi và quân Tàu tới. Nguyễn Phổ là
tế tử của cụ Lê Kì. Trong các bạn của cụ, có nhiều người Trung Hoa. Vì thế, ông
Tsan Cẩm Thoòng, được phép xuất bản tờ “Trung Việt Tân Văn”, liền được ngay các
bạn như cụ Ly Seng Pao, Nguyễn Hải Thần giới thiệu mời cụ Kì ra làm giám đốc và
cụ Trần Phượng Thê làm quản lý. Thực ra, báo ấy không phải do ông Tsan Cẩm
Thoòng cầm chịch, nhưng là của một Lam Y thân tín của Tưởng Tổng Thống và là
con trai của ông Tsan đứng cầm chịch ở bên trong. Báo ra đời nhằm mục tiêu xiết
chặt tình thân thiện Hoa Việt, tuyên truyền cho chế độ Trung Hoa trắng và đề
cao quân đội Tàu nói chung và đoàn quân của Lư Hán đến tiếp thu ở Việt Nam, nói
riêng. Vì là bạn của Phổ và thường chuyện trò với hai cụ Kì, Thê được coi là
tâm đầu ý hiệp, các cụ Kì, Thê và Lý thân ái mời tôi về làm chủ bút cho báo.

Từ trước cho đến lúc đó, tôi vẫn có thói quen
là không bao giờ nhận lãnh một chức vụ gì có tên chánh thức in trên báo. Nhiều
bài báo, cũng như nhiều cuốn sách của tôi, do các nhà xuất bản in ra đều mang
bút tự - mà tự tôi đến giờ cũng quên mất nhiều bút tự của mình, thỉnh thoảng
mới có bài hay sách mang tên thật. Nhận lời làm “Trung Việt Tân Văn”, tôi cũng
định áp dụng phương thức cố hữu là chỉ nhận làm ở bên trong, còn tên trên báo
thì để cho người khác đứng. Nhưng cụ Lý và ông Tsan, cũng như Tsan Chi Số - con
trai ông Tsan - không chịu thế. Họ quan niệm chức vụ chủ bút rất quan trọng và
ép tôi phải đề tên chủ bút, muốn từ chối không tài nào được.

Thấy chỉ vì cái tên công việc dằng dai ra
mãi, các anh em như Trần Kim Dần, Thượng Sỹ Nguyễn Đức Long, Phùng Bảo Thạch,
khuyên tôi nhận lời. Tòa soạn lại gồm các anh em cũ, trừ vài người đã mất hay
đã đi xa. Bù lại, tôi lại được thêm mấy anh em khác trong nhóm “Tiểu Thuyết Thứ
Bảy” hay “Trung Bắc Chủ Nhật” - lúc ấy đã nghỉ - về hợp tác. Cố nhiên một tờ
báo như thế phải giàu, trụ sở phải to, nhuận bút phải hậu và có... thế là đàng
khác. Nhưng có lẽ vì độc giả không có mấy cảm tình với quân đội Trung Hoa lúc
bấy giờ một phần, mà phần khác tại anh em cũng không hăng hái làm việc cho mình
như thuở “Công Dân”, “Vịt Đực”, “Tương Lai”, nên báo không chạy mấy. Vả chăng,
Trần Huy Liệu, lúc ấy, làm bộ trưởng thông tin, ít ra cũng đủ phép “ếm” chúng
tôi. Tôi biết trong anh em lúc bấy giờ, Trần Huy Liệu “trù” chúng tôi nhiều
nhất. “Trung Việt Tân Văn” viết một loại bài đả kích riêng Trần Huy Liệu “chậm
tiến, chưa chi đã lợi dụng chức vụ bộ trưởng của anh để hàng ngày đi công xa
đến nhà Ngân Giang nữ sĩ uống trà tàu và ngâm thơ con cóc”. Uất hận không chịu
được, Liệu dọa “hót chúng tôi vào xe rác”.

Bắc Bộ Phủ, trái lại, lại tỏ ra gượng nhẹ với
chúng tôi vì thực ra chúng tôi, lấy tư cách là một nhà báo, cầm chịch quyền thứ
tư trong nước - đa số người Trung Hoa lúc đó tin như vậy - cũng đã đứng ra thu
xếp được một ít điều xích mích nhỏ giữa quân đội Lư Hán với chánh quyền hồi ấy.
Nói riêng về chức chủ bút của tôi, thật kì. Khác hẳn khi làm thư ký tòa soạn
cho các tờ báo khác, người chủ bút của “Trung Việt Tân Văn”, từ lúc báo ra cho
đến lúc báo nghỉ, gần như không viết gì, không biết gì về báo. Mọi công việc
tòa soạn do Phùng Bảo Thạch và Ngô Tất Tố trông nom hết. Qua ngày này sang ngày
khác, tôi chỉ phụ trách việc đi ăn uống, xã giao, hết cơm Tàu đến cơm Tây, hết
cụ này mời lại đến ông kia thết. Nhưng dù sao, tất cả những cái đó chưa kì bằng
việc mấy chủ nhân của báo quan niệm về nghề báo lúc bấy giờ: bài vở đăng báo
không cần lắm, trọng tâm hoạt động của chủ bút là công việc tiếp thu quân đội
Nhựt. Nghĩa là mỗi khi quân đội Lư Hán tiếp thu ở đâu thì lại có tin báo liền
cho chủ bút với đầy đủ chi tiết: hôm nay, quân đội Nhựt làm sao, ta nhận bao
nhiêu võ khí, tìm ra được mấy kho vải, bao nhiêu kho gạo, bao nhiêu kho
đường... Các anh em Trung Hoa lúc ấy đối với riêng tôi thật là đôn hậu đến làm
cho tôi cảm động vì họ thành thực đến mức bảo trắng cho tôi biết rằng các tin
ấy không cần đăng lên trên báo làm gì. Sỡ dĩ họ báo tin cho tôi biết trước nhất
là vì họ muốn dành cho tôi quyền lợi ưu tiên: ông chủ bút có chỗ tiêu thụ thì
bán đi lấy lời, khi nào ông chủ bút không bán được thì chúng tôi mới bán, ông
chủ bút cứ tự nhiên vì là “anh em cả mà”.

Băn khoăn thứ nhì của các vị ấy là việc tham
gia quốc hội đầu tiên Việt Nam độc lập. Ngoài các nghị sĩ dân bầu, chính phủ
chấp nhận một số nghị sĩ chỉ định dành cho các đảng quốc gia. Ông chủ bút có
gia nhập đảng nào không? Tôi chẳng vào đảng nào hết. Nhưng không có sao đâu,
ông chủ bút cứ nhận lời đi, chúng tôi sẽ nói với cụ Nguyễn và chắc cụ sẽ bằng
lòng lắm. Thực quả làm báo như thế cũng ngộ và khỏe. Từ thuở bước chân vào
nghề, tôi chưa hề bao giờ lại thấy làm báo khỏe đến như thế và tôi cũng không
biết sẽ còn khỏe đến chừng nào nếu biến cố không dồn dập xảy ra trong nước.
Phùng Bảo Thạch nhận làm thêm tờ “Đồng Minh” của cụ Nguyễn Hải Thần, tôi dư
thời giờ cũng giúp vào một tay. Nhưng rồi đến một lúc cả “Trung Việt Tân Văn”
và “Đồng Minh” đều phải tự động đóng cửa vì tình hình rắc rối không tả được.

LÀM BÁO LƯU ĐỘNG Ở KHU BA

Thế là máy bay Pháp lại gừ gừ trên trời, còn
dưới đất thì xe díp, mô tô chạy ầm ầm như gió - nhiều khi để chộ, chớ cũng chẳng có việc gì cần. Tôi
còn nhớ có anh lính nai nịt như ra trận địa, ngồi thẳng đườn đườn trên mô tô nổ
máy chạy bay như thể phải đi cứu ông D'Argenlieu hay Sainteny lâm nạn, nhưng
rút cục đến dốc Hàng Kèn thì hãm máy, vào tửu quán uống một ly rượu mạnh và ôm
con gái chuyện trò như pháo ran.

Thấy Nhật đã đuổi Pháp đi rồi mà bây giờ lại
thấy Pháp trở lại lù lù cả đống, dân chúng chán nản không tưởng tượng được.
Việt Minh ở vào một thế rất khó khăn: một mặt đối phó với Pháp, một mặt tuyên
truyền dân gian để cho khỏi mất tin tưởng, và mặt khác nữa lại phải lo chuyện
đoàn kết các đảng phái, vì các đảng phái lúc này léng phéng định xé lẻ rất nhiều và đi với Tàu hoặc Pháp để
chống lại Việt Minh.

Tôi viết bài cho một tờ y học, tờ “Vui Sống”,
đồng thời tổ chức nhà in cho nhiều anh em ở các nơi về thành, vì t’nh nào cũng
có một hai tờ báo. Vì là anh em quen biết cũ, tôi viết bài thêm cho một vài tờ;
riêng có tờ “Kháng Chiến” của Nguyễn Kì ở Cao Bắc Lạng thì tôi để tâm vào nhiều
nhất.

Trong khi ấy, các tờ báo như “Tiểu Thuyết Thứ
Bảy”, “Trung Bắc Chủ Nhật”, “Truyền Bá”, “Phổ Thông Bán Nguyệt San” đều nghỉ
hết. Anh em văn hóa, văn nghệ chuẩn bị lên đường ra hậu phương chiến đấu. Thế
rồi lịnh tiêu thổ kháng chiến ban ra; thành phố đào hầm trú ẩn; tự vệ xẻ đường
đắp ụ để đối phó với một tình thế nẩy lửa chắc chắn không thể nào tránh được,
xảy ra không biết lúc nào.

Những ngày kháng chiến đầu tiên ở hậu phương
thật là cực khổ, nhưng cũng thực là vui lạ. Tôi chạy về khu ba, ngồi kéo sợi,
và trong hơn nửa năm trời không làm gì; nhưng sau lần lần bắt liên lạc được với
các anh em cũ, tôi viết mấy vở kịch (trong đó có kịch Bom Ba Càng) có tính cách
tuyên truyền, rồi do đó đi họp văn hóa, viết một hai tờ báo nhỏ địa phương ở Hà
Nam, vùng Đần, Đọi Đệp. Ngày tháng nặng nề trôi; đời sống thiếu thốn đủ mọi
cách nhưng lòng người hể hả như chết mà sống lại. Tôi chưa hề được sống những
giờ phút sôi động và ấm lòng như thế: đồng bào thương xót nhau như ruột thịt;
người dân giúp đỡ nhau thực tình; anh lính ho thì người dân tự nhiên thấy ngực
mình đau nhói. Riêng tôi, tôi rưng rưng nước mắt khi thấy Nguyễn Phổ và Nguyễn
Kì từ Cao Bắc Lạng về thăm tôi ở Đần. Mỗi phiên chợ, tôi ra ngồi ở quán cà phê,
do đó gặp đủ mặt anh em để trò chuyện và thăm dò tin tức. Cảm động nhất là Sở
Bảo Doãn Kế Thiện đã già rồi mà cũng lặn lội từ Sơn Tây về rủ tôi đi làm việc
văn hóa; Nam Cao được nghỉ xả hơi về
nằm khèo với tôi, ăn cơm với cà chua và rau cải, uống nước chè tươi nhắm với
tóp mỡ, cùng bao nhiêu anh em khác nữa hiện giờ đã chết, mà cũng còn nhiều
người còn chiến đấu. Trong số các anh em đó, có người đi hàng mấy ngày đường,
một thân một mình; có người ngày nghỉ, đêm đi bằng đò, có vệ quốc quân hộ tống.
Nguyễn Đức Long, bút hiệu Thượng Sỹ, là người ẩn hiện, đi về thăm tôi nhiều
nhất.

Long bắt đầu viết báo từ tờ “Tin Mới” của bác
sĩ Nguyễn Văn Luyện. Trên tờ hàng tuần, anh viết phóng sự, điều tra, truyện
ngắn; còn trên tờ hàng ngày, anh đặc trách về phê bình sách và cũng chính vì
mục này anh đã tạo ra nhiều thù, ấy là không kể nhiều bận đã có văn gia, thi sĩ
định cho anh một mách. Ra bưng
kháng chiến, Long làm tờ hàng ngày “Chống Giặc” của Đặng Thai Mai ở liên khu
ba, trong đó có Sỹ Ngọc, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh... Vì phụ trách về phóng sự,
điều tra tin tức, anh phải đi luôn, nên thừa dịp về thăm tôi một tháng đôi lần
và rủ tôi viết bài cho “Chống Giặc”. Nhưng chẳng bao lâu, chiến tranh lan ra
đến đó, tờ “Chống Giặc” chuyển đến một địa điểm xa xôi khác. Vì bị sốt rét
nặng, Long không đi được, về Kẹo, ở gần với tôi. Nói là gần, nhưng cũng cách
nhau đến bảy, tám cây số. Tôi kéo sợi, đem ra bán ở chợ Đần, còn Long thì ăn
xong, không ngủ, đi nghe ngóng khắp nơi, thảo hết chương trình này đến kế hoạch
nọ, nhưng rút cục không thể nào thực hiện được - trừ một tờ bán tuần báo tên là
“Bạn Trẻ”.

“Bạn Trẻ” là một tờ báo của tư nhân, tự túc,
in trên giấy bản, khổ nhỏ. Báo quán đặt ở một căn nhà lá chật chội ở một làng
tại khu ba, trong vẻn vẹn có một cái bàn và một cái giường. Thượng Sỹ Nguyễn
Đức Long và tôi phụ trách về bài vở cho báo ấy. Lúc nào Long đi thăm dò đường
lối chánh trị để viết bài thì tôi trông nom việc sửa chữa mô rát và đạp cái máy
đa lét
để in. Chủ nhiệm không có mặt mấy khi ở báo, phải lo tiền, lo
giấy, lo mực mua ở chợ Đồng Quan về. Làm báo như tờ “Bạn Trẻ”, thực cũng lạ
lùng, mà thú vị, vì từ thuở bước chân vào nghề, tôi chưa làm một tờ báo nào
thiếu phương tiện đến như thế bao giờ. Viết bài ban ngày, ban đêm xếp chữ và
in; vừa trông in, vừa ăn cơm; in xong thì một số anh em - hầu hết là sinh viên
và học sinh - đến lấy báo tản mác đi bộ, đi thuyền, đi xe máy khắp các nơi
trong vùng kháng chiến để bán. Báo “Bạn Trẻ” bán cũng khá; bán xong, anh em
nhặt tiền về để mua mực, mua giấy in số sau; nhưng khích lệ nhất là có nhiều
độc giả mua báo lại ủng hộ tiền và có người, dù biết trước là tình thế thay đổi
luôn luôn, vẫn cứ sẵn sàng gửi tiền mua cả năm hay sáu tháng. Càng làm cho
chúng tôi nức lòng hơn nữa là trong một đại hội ở Liên khu ba, Ủy ban Kháng
chiến đã tổ chức một cuộc trưng bày các báo kháng chiến để đánh dấu nỗ lực của
anh em văn nghệ sĩ, tờ “Bạn Trẻ” đã được xếp vào hàng đầu về kĩ thuật làm báo
và Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến đã kêu gọi anh em nên giúp tay cổ động tờ “Bạn
Trẻ” cho mỗi ngày được phổ cập hơn.

Về sau này, về thành, gặp Vũ Đình Chí (Tam
Lang) - bị Tây giam ở một địa điểm tại t’nh Hà Đông trong thời kì kháng chiến -
anh có cho Nguyễn Đức Long biết là anh đã được đọc một số “Bạn Trẻ” trong nhà
giam, và có một bài nói về sự tàn ác của quân đội Pháp hãm hiếp đàn bà già yếu
- dù là không ký tên thực - anh đọc cũng đoán là của tôi. Kể lại lúc làm tờ
“Bạn Trẻ”, tôi không thể quên một kỷ niệm không bao giờ quên được. Trong “Bạn
Trẻ”, có một mục về tin tức nội thành, thuật lại tất cả các hành động của ngụy
quyền và hoạt động của các người ở lại với Pháp, làm cho Pháp. Phụ trách về mục
đó, mỗi tháng một lần, tôi phải đi từ Đần qua nhiều vùng có Tây chiếm đóng, qua
ruộng, qua sông để về một làng tề,
gặp một ông bạn làm giáo học cung cấp cho tin tức thuộc vào loại đó.

Tôi nhớ hồi đó là mùa đông, trời lạnh cắt da
cắt thịt. Lặn ngòi ngoi nước về được đến nhà ông giáo, thường là trời đã tối,
không còn trông rõ mặt người. Đứng ở ngoài cổng nhìn vào thì cái vườn ở đằng
trước tối om; trong nhà, có ngọn đèn thắp sáng và những hoa lửa bay lên như
những con đom đóm nhỏ. Ấy là cái hỏa lò than đốt lên để sưởi. Ông giáo mặc áo
bông, đi đi lại lại trong nhà, thỉnh thoảng lại hơ hai bàn tay vào lửa và ngâm
vang câu thơ cũ “Thế sự du du nại lão
hà...”.

Mỗi lần, tôi về thăm ông như thế, bao giờ ông
cũng hỏi “Đã ăn uống gì chưa?”, nhưng đó là hỏi lấy lệ mà thôi, chớ dù ăn rồi
hay chưa ăn, ông cũng hối vợ và cô em đi thổi một nồi cơm thực nóng, làm một
con gà vàng mời ăn, không quên rót một chén rượu nóng để uống cho ấm bụng. Vợ
và cô em gái ông là những người đàn bà kiểu mẫu. Em gái ông chừng đôi mươi, đi
đi lại lại buôn bán từ vùng tề sang vùng kháng chiến như đi chợ, nên mỗi khi từ
giã ông ra về, người em gái lại đưa tôi đi vì sợ tôi không am hiểu đường lối,
có thể sa vào bẫy của địch hoặc không biết trả lời mỗi khi có việc cần đối phó.
Quên làm sao được những buổi sáng rét căm căm, thức dậy từ lúc trời hãy còn tối
đen như mực để sửa soạn ra về. Bà giáo, trẻ măng và đẹp như một bài thơ, ông
giáo và cô em cùng dậy, để tiễn tôi. Cả một gia đình lịch sự như nhau; ông giáo
trò chuyện nho nhã, cô em lo liệu chu đáo cho tôi không thiếu thốn thức gì, còn
bà giáo thì đã đun nước từ lúc nào để pha trà và không lần nào quên thổi một
nồi cơm, nắm mấy thỏi, kèm một ít muối mè hay vài khúc cá để vào ba lô cho khách. Sống cả một
kiếp người ở nội thành, không thể có những phút thương thương như thế. Tình
đồng bào với đồng bào ngạt ngào thơm mùi của hoa bưởi nửa đêm về sáng. Nhưng
chiến tranh tàn khốc nào có muốn cây có lộc, bông có trái, người có con, xuân
có bướm: khói lửa lan tràn từ hậu phương đến các làng tề và một hôm chúng tôi
được tin đa số người làng ấy đã tản cư đi nơi khác.

Thế rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc cảm, là vì tôi quan
niệm rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, còn vấn đề hèn hay
không, đó là tùy ở nhân cách của từng người. Một buổi sáng kia, nhân đi uống
rượu với Nguyễn Đức Long ở “Le Lac” về, tôi bỗng nghe thấy có tiếng gọi khẽ ở
sau lưng. Đứng lại, tôi định thần một lúc thì tự nhiên tỉnh hẳn rượu: người
thiếu phụ chít khăn vuông, mặc áo nâu non, gánh cam và quýt đứng trước mặt tôi,
chính là bà giáo! Trời lất phất mưa bay. Gió Hồ Gươm thổi mạnh làm nghiêng cái
nón lá của người thiếu phụ, để hé mấy sợi tóc mây che nửa mặt hoa. Việc đầu
tiên là tôi hỏi thăm ông giáo và cô em. Bà nói vắn tắt cho tôi biết là tháng
tám năm ấy, sau khi tôi đi khỏi được vài ngày, quân Pháp về làng, càn quét và
bắt nhiều người đem đi, trong số đó có ông giáo. Còn cô em may vừa đi khỏi hôm
trước, và hình như vẫn còn đi lại buôn bán ở liên khu ba, nhưng lâu lắm không
tin về nhà. Về phần ông giáo, bà tuyệt mù tin tức, nhưng theo lời mấy bạn thân
cho biết sau khi giam ở Nhà Tiến ít lâu, quân Pháp đã bốc ông cùng với một bọn chừng năm chục người đem lên
máy bay đi Sài Gòn (?) đánh đập bật tròng hai con mắt, và dường như ông đã
không chịu nổi những phương pháp tra tấn tối ư dã man của bọn thực dân cướp
nước.

Thấy đứng lâu chuyện trò như thế ở giữa đường
không tiện, tôi ghi số nhà vào một mảnh giấy con, mời bà lại chơi với nhà tôi;
nhưng cho đến tận lúc ký hiệp định Genève, tôi vẫn không được thấy bóng người
đàn bà diễm tuyệt, kiên trinh kia đâu nữa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3