Bốn Mươi Năm Nói Láo - Phần III - Chương 4

ĐÀO TRINH NHẤT

Đào Trinh Nhất là một thái cực của Lê Văn
Hòe. Hòe nói nhiều bao nhiêu thì Đào Trinh Nhất lại ít nói bấy nhiêu. Ông không
năng đến nhà báo, cứ đúng ngày đúng tháng đẻ ra bài xong thì có tùy phái đến
lấy bài đưa về; đôi khi, dạo lên báo quán lấy ít tiền trước về tiêu. Anh em đều
ngán vì ông nói khoan thai, chậm chạp, yếu ớt; đã thế có khi đến mươi, mười lăm
phút mới nói một câu; xong, ngồi xì ra đấy. Bị Tây trục xuất ở nam ra vì bị ngờ
là chống Pháp và thân Nhật, ông Nhất xì ra không nói, có thể là vì buồn - nhiều
người ngờ thế, viện lẽ ông ở Nam đã lâu ngày, quen thuộc với làng báo ở nam hơn
là bắc. Thực ra, tính ông từ xưa đến nay vẫn thế. Trong suốt thời kì tôi ở Nam,
nằm hút ở đường Lefèbvre, Nhất vẫn cứ xì ra như thế; mặt ông lúc nào cũng bệch
bạc, lạnh lẽo, nhất là mỗi khi cười thì càng lạnh lẽo quá làm cho người đối
thoại với ông lần đầu ơn ớn nơi xương sống và không thể có cảm tình ngay; nhưng
biết Nhất lâu ngày, anh em thân đều nhận ông là một người chung thủy, trước sau
như một và đối xử rất tận tình với bạn. Việc ông đứng ra làm tờ “Cải Tạo” cho
Phạm Văn Thụ - mà người đầu tiên ông nói với Thụ mời về hợp tác là tôi - cũng
như việc ông viết bài cho báo “Vì Dân” của Hội Đồng An Dân, một phần lớn, theo
tôi, là vì cái tình đối với hai người bạn của ông lúc bấy giờ là bác sĩ Phạm
Văn Phán và ông Mai Ngọc Thiệu. Giúp cho tờ “Trung Bắc Chủ Nhật”, ông vì tình
với cụ Luận và Nguyễn Doãn Vượng nhiều hơn; nhưng lúc đầu, ông vẫn giữ gìn, chỉ
ký tên XYZ, sau rồi mới ký là Quán Chi và mãi sau này, hiểu biết rõ Vượng hơn,
ông mới chịu để báo quảng cáo rõ cái tên Đào Trinh Nhất. Lúc ấy, đối với làng
báo Bắc, ông đã quen với độc giả rồi: những bài sưu tầm, nghiên cứu của ông
được người ta tìm đọc, một phần vì tài liệu súc tích, mà một phần cũng vì ông
đã khéo làm những cái tít khiến cho độc giả giựt gân, muốn đọc xem trong bài
ông nói gì. Loạt bài “Vương Dương Minh”, tuy nhiên chỉ được một số người ham
chuộng. Độc giả “Trung Bắc Chủ Nhật” mê Đào Trinh Nhất là vào hồi ông viết tiểu
thuyết dài như “Cô Tư Hồng”, “Con Quỷ Phong Lưu”... khả dĩ đối địch được lại
với những truyện dài của Lê Văn Trương lúc ấy đang làm mưa làm gió trong làng
tiểu thuyết và đồng thời cũng là tiểu thuyết gia số một của nhà xuất bản Tân
Dân, được ông Vũ Đình Long hết lòng chiều chuộng. Thấy tiểu thuyết của Đào Trinh
Nhất được người ta đọc say mê, ông Vũ Đình Long nhờ Vũ Ngọc Phan điều đình ông
viết thêm cho “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”, nhưng ông Nhất rất phân minh: ông nhận lời
viết cho nhà Tân Dân, nhưng không viết tiểu thuyết, chỉ viết những bài sưu tầm,
khảo cứu về văn học, tôn giáo. Sự hợp tác không được lâu vì “Tiểu Thuyết Thứ
Bảy” bị một vài cha cố Tây lúc ấy làm khó dễ vì một bài nói về đức bà Maria và
chúa Giê Su, “viết không đúng theo Kinh Thánh”.

Cái việc cha cố Tây lúc ấy chơi ngang xương
như vậy đã làm cho các ký giả không hài lòng. Văn Hạc Lê Văn Hòe cho Nhất viết
thế là đúng; Hồng Lam Hồ Khắc Tráng cũng vậy; riêng Huyền Hà là người theo đạo
Công giáo thì không nói gì, chỉ mỉm cười. Là vì thực ra Huyền Hà không thích
những chuyện lôi thôi như thế: ngoài việc dịch truyện từ Anh ngữ sang Việt ngữ
cho “Trung Bắc Chủ Nhật”, như “Chài”, “Bức Màn Sơn”, “Con Đường Nguy Hiểm”...
và một số truyện ngắn của các danh văn ngoại quốc, Huyền Hà không muốn bàn tán
đến việc gì, ngoài việc đánh bài.

Huyền Hà cùng học một trường, theo cùng lớp,
và ngồi cùng một bàn với tôi. Anh khá về cả văn chương lẫn toán, nhưng lười vào số dách vì ngay từ lúc ấy anh
đã ham đánh bạc - đánh bạc ngay cả trong khi cô Lataste giảng về sử địa. Sau
này ra đời, vẫn chơi bời đi lại với nhau, tôi biết là anh đánh bạc dữ dội,
nhưng không lúc nào tôi đả động, vì tôi biết từ thuở bé, anh đã sống thiếu tình
thương trong một gia đình giàu có ở đường Hàng Trống, mà rất ít người biết
chuyện đau thương ấy. Tuy đã lớn tuổi, chúng tôi ra đời vẫn giao du với nhau như
lúc hãy còn bé nhỏ: tôi có cái ấm
bay
để pha trà ban đêm lúc viết văn, đem ra khoe với Huyền Hà, còn
Huyền Hà mỗi khi có một cuốn truyện tình “hy hữu" - kèm tranh vẽ - đạp hộc
tốc đến cho tôi mượn để coi, và lúc thì cho một ít "Lệ chi hồng trà",
lúc thì cho bao thuốc lá Mỹ - lúc ấy không có thuốc lá Mỹ như bây giờ - hay một
vài điếu thuốc lá Nga, lúc thì cho một gói đường nguyên tử “lạ lắm, toa ạ, chỉ cần cho một tí thôi cũng
đủ làm ngọt cả một ly cà phê lớn
”. Tình bạn nhàn nhạt như nước lạnh, kéo dài
như thế cho đến lúc Pháp đánh Việt ở Hà Nội thì tôi về một căn nhà nghỉ mát ở
Đầm Linh Đường, rồi từ đó ra hậu phương theo kháng chiến; còn Huyền Hà ở lại.
Đến khi trở về, tôi đi qua Hàng Trống, vào hỏi thăm anh, thì anh đã mất vì có
một bọn lính lê dương vào quấy ở tiệm ảnh của ông Hương Ký; anh can thiệp và bị
bọn chúng bắn vào sau lưng trong lúc anh quay lưng lại để trèo lên thang gác.
Cũng khi đó, tôi cũng nghe thấy nói Nghiêm Xuân Lãm cùng với gia đình chết cả
vì Tây ném lựu đạn xuống cái hầm mà ông với gia đình trú ẩn; Việt Bằng bị bắn ở
một ngoại ô; Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc cũng không còn nữa. Nghe thấy
thế, tôi buồn muốn khóc, đi một mình ở ven hồ, đọc một mình câu thơ của Thao
Thao nói về chim sếu “bên hồ cứt trắng
kho
”. Từ chỗ sâu thẳm nhất của lòng, tôi nghe thấy một cái gì rõ rệt hơn
trước cuồn cuộn lên, cuồn cuộn lên. Còn nhớ có một lần, không xa, tôi đã nghe
thấy một cái gì manh nha trong tim óc, và lúc ấy tôi tiên cảm rằng cái gì đó sẽ
thay đổi rất nhiều ý niệm về nếp sống, về cách nghĩ và cả nghề nghiệp của tôi.
Thì hôm nay đây, “cái gì đó” đã hiện ra rõ rệt hơn trước một chút: làm báo
không thể là chỉ để chơi hay kiếm tiền, người làm báo phải trả nhiều thứ nợ hơn
người khác vì người làm báo biết nhiều hơn, cảm nhiều hơn và cũng sống gần với
thực tế xã hội hơn người khác. Được rồi, người ta bảo làm báo là nói láo ăn tiền, mặc họ; nhưng người làm
báo chân chính không thể và không bao giờ quan niệm nghề nghiệp của mình như
vậy. Hơn cả ai hết, họ biết rằng báo chí là một bộ môn văn hóa phản ánh sinh
động nhất, đầy đủ nhất tính chất của một chế độ và cho một chế độ xã hội, không
những nói lên - đúng như lời ông Nguyễn Văn Vĩnh đã nói với Hy Tống - nói lên
phẩm chất hoặc văn minh ưu việt, hoặc thoái hóa của chế độ ấy, mà còn đi sâu
vào từng tình tiết, tâm tư của con người, từng khía cạnh trớ trêu, uẩn khúc,
giả tạo của chế độ.

Trung thành với lý tưởng chống áp bức, chuộng
tiến bộ mà quyền lợi tinh thần của con người đã ủy thác cho nó, báo chí luôn
luôn có tính năng tranh đấu và xây dựng. Có khi để thực hiện sứ mạng ấy, người
làm báo hành động trơn tru, êm đẹp, bình thường; nhưng trong rất nhiều trường
hợp, không thể yên ổn, bình an như các tầng lớp người dân khác.

Là vì quyền lợi dân tộc nhiều khi trái ngược
với quyền lợi của một chế độ, hay của một chính phủ, nên mâu thuẫn thường phát
sanh, tạo ra những điều trái nghịch, uất hận, bất công. Vì thế báo chí phải
kinh qua những nghịch cảnh, thăng trầm, mà người làm báo cũng như làm chính trị
- thường bị vu cáo, hành hạ, tù tội, đầy ải hay chết oan, chết ức.

Người làm báo đã bị thiên hạ khinh khi là
loại người nói láo ăn tiền, lại còn mang cái tiếng là dại nữa. Tại sao cứ
chướng ách, chống đối làm gì? Tại sao không làm như bao nhiêu người khác gục
mặt, cúi đầu nhận kẻ thù làm bạn để chúng thí cho cơm thừa canh cặn mà ăn? Tại
sao không nghe lời chúng như chó nghe lời chủ, cầm gươm cầm súng để giết cả cha
mẹ mình, anh em mình, họ hàng làng mạc nhà mình? Hỡi tất cả các nhà viết báo đã
chết và còn sống, hỡi tất cả các anh em ký giả ở bên này và bên kia lằn mức,
nghĩ đến bao nhiêu khổ ải của các anh, nghĩ đến bao nhiêu ngộ nhận mà người ta
gán cho các anh, nghĩ đến bao nhiêu công trình tranh đấu âm thầm, lặng lẽ,
không cần ai biết của các anh, tôi mới thực hiểu chữ “đoạn trường” nó thế nào,
và cũng từ lúc đó tôi mới thấy, trong quỹ đạo của nghề báo, tôi cần phải làm
một cái gì khác trước, thực tế hơn trước, mà cũng là để xứng đáng với những anh
em xa gần hơn trước.

Phải, tôi nghĩ như thế và tôi cảm thấy bừng
bừng người lên như thể muốn ra ngay tiền tuyến để hỏi cái nợ máu của thực dân
đối với anh em đồng bào tôi. Nhưng... về chiều, gió Hồ Gươm thổi lạnh, mưa bay
như rây bột làm cho quần áo và cả lòng người ẩm ướt, tôi cảm thấy nếu không vào
“Le Lac” uống mấy cái “pun xô” để sưởi ấm lòng thì buồn không chịu được, buồn
chết mất. Và, ngay đêm hôm đó, tôi quên hết bao nhiêu bè bạn đã chết, tôi quên
hết tất cả những ý nghĩ cao đẹp ban ngày... Rồi ngày tháng trôi qua, tôi tiếp
tục viết thật nhiều, viết chí tử để sống một cuộc đời đầy đủ, phè phỡn với gà,
chó, chim chóc, cây cảnh... cho đến lúc quân đội Pháp thua hết trận nọ đến trận
kia và dân chúng bắt đầu bán nhà bán cửa để lên đường vào Nam. Quản lý văn khế
Deroche, cũng rục rịch đem văn phòng đi luôn, gửi cho tôi một thư yêu cầu,
trong thời gian một tháng, phải đem trả văn phòng số tiền ba trăm ngàn đồng mà
tôi còn thiếu “nếu không thế thì hai cái nhà tôi cầm sẽ đưa ra bán đấu giá”.
Tôi nhớ lúc đó là tháng chạp âm lịch, trời rét như cắt da cắt thịt, suốt ngày
tôi đi mượn tiền để trả quản lý văn khế mà không ai cho mượn được lấy năm ngàn
đồng. Thất vọng quá, tôi lì, cố không nghĩ đến chuyện bần tiện đó nữa. Đêm
giáng sinh năm ấy, tôi cố giữ cho lòng bình thản, tự bảo mình lúc đi nằm: “Mấy
năm nay ở hậu phương, mình không nghe chuông nhà thờ, năm nay phải cố thức xem
nó có gì đặc biệt không”. Nhưng rồi tôi ngủ lúc nào không biết và tôi giựt mình
thức dậy vào lúc chuông nhà thờ reo gần hết. Giựt mình vì tôi vừa nằm thấy một
giấc mơ vô nghĩa. Tôi mơ mơ màng màng thấy Huyền Hà từ cầu thang gác nhà tôi đi
lên phía đầu giường tôi; anh vận bộ âu phục mầu xám đậm, y như lúc sống, và hỏi
tôi: “Mày làm sao mà mặt mũi rầu rĩ thế?” Tôi đáp đúng nguyên văn như thế này:
“Tao khổ hơn con chó, đi xoay tiền khốn nạn mà không được.”

Huyền Hà thản nhiên, gật đầu, rồi tiếp: “Mày
nói thật đấy à? Nếu quả như thế, tao giúp mày.” Chỉ có thế, rồi tôi thức dậy.
Con chó sủa mấy tiếng ở dưới nhà. Tôi nói chuyện với vợ giấc mộng vừa qua và
kết luận: “Vô lý hết sức. Một người chết mà hiện về bảo giúp cho người sống,
nghe không thể được. Bố mày dóc
quá, dóc lúc sống, mà chết đi vẫn còn dóc như thường.” Nhưng vợ tôi không chấp
nhận luận cứ đó, vì tin rằng những người lúc sống thông minh, mà bị bất đắc kì
tử, thường linh thiêng hơn nhiều người khác. Tôi phủ nhận tư tưởng ấy, nhưng
trong thâm tâm, tôi tự nhủ hôm nào phải hỏi thăm mộ Huyền Hà ở đâu để đến viếng
anh một chút. Tuy nhiên ý định ấy không thể thực hiện được, vì mỗi ngày, việc
xoay tiền cấp bách hơn. Một hôm, Bùi Cẩm Chương, chủ nhiệm báo “Hồ Gươm” tìm
tôi hỏi có phải tôi cần tiền thực không, rồi anh hứa đi tìm người cho vay. Tôi
không từ chối, nhưng cười vào mũi Chương mà bảo: “Bố mày hàng tuần xoay có mấy trăm đồng lấy báo mà còn không
nổi, lại nói chuyện vay mấy chục vạn cho tớ, bố
mày
đùa đấy chứ?” Bùi Cẩm Chương không nói, nhưng tối hôm ấy đi xe đạp
đến nhà tôi - anh là Chương Mù nhưng đi xe đạp liều không chịu được - báo cho
biết là mai có ông chú anh tới tìm tôi nói chuyện.

Nói chuyện thì mới biết ông chú ấy cũng đét như là bọn tôi, nhưng ông là
môi giới đi vay và nói chắc là vay được. Nhưng đi đến ba bốn chỗ mà cũng không
vay được đồng nào. Tôi bắt đầu thất vọng thì gặp Tuất, thư ký của Deroche, một
người bạn của Chương và tôi, có tiếng là làm ăn khấm khá, nhưng Tuất cũng không
có tiền. Anh cũng hứa giúp tôi và bảo nếu xoay được sẽ kêu điện thoại cho tôi
liền. Tôi ừ ào gượng gạo, vì một ngàn phần không tin được một; nhưng một buổi
sáng, Tuất kêu tôi thật và bảo đến chiều thứ ba tới thì lại văn phòng chưởng
khế. Đúng hôm đó, tôi lại và ngồi chờ. Deroche thấy tôi, cho mời vào trước và
hỏi có tiền chưa. Tôi nói: “Có người cho vay rồi.” Tôi đưa mắt nhìn Tuất hỏi
ai, thì Tuất luống cuống: “Người cho vay chưa đến, ngồi chờ một lúc xem sao.”

Thất vọng không thể tả được, tôi định ra về
thì Tuất reo lên “Kia rồi!” và bảo tôi vào ngay văn phòng làm giấy. Trước mặt
quản lý văn khế, một quả phụ ăn vận đồ đen, đưa thẻ kiểm tra ra và nói với quản
lý văn khế rằng bà bằng lòng lấy ra ba chục vạn trong số tiền bà gửi văn phòng
chưởng khế cho tôi mượn. Tỉnh hẳn người, tôi cũng đưa kiểm tra ra cho chưởng khế
làm giấy tờ; xong rồi, cả hai người cùng ký. Lúc đó, tôi mới liếc xem thiếu phụ
cho tôi vay tên là gì, ở đâu, mà lại tốt như thế được. Đầu óc tôi như có sương
mù; tôi trông bà mang máng nhớ có gặp vài lần, nhưng ngay lúc đó thì không nhớ
là gặp ở đâu. Đến lúc ra về, tôi liền hỏi thì mới biết là vợ Huyền hà! Sở dĩ
tôi không nhớ được rõ lắm là vì lúc Huyền hà còn sống, anh ở gác ba, mà vợ và
con ở tầng nhì; phần nhiều đến chuyện trò với Huyền Hà, tôi chỉ đi qua rồi lên
thẳng, nên ít khi gặp mặt, nhưng vì bè bạn đi lại với Huyền Hà rất ít, nên chị
cũng biết tôi, và lúc sống, Huyền Hà thường nói tới tên tôi, mỗi khi tôi biếu
thức gì, anh lại về khoe với vợ. Chị nói:

- Thực tình, tôi không biết anh vay, đến tận
lúc anh đưa kiểm tra ra, tôi mới biết là anh đấy.

Sau đó, vài ngày, chị cho tôi biết thêm:

- Số tiền tôi gửi quản lý văn khế là tiền gia
tài của thày mẹ nhà tôi cho, lúc Huyền Hà mất đi. Có nhiều người nói với thày
mẹ tôi và thày mẹ chồng tôi, khuyên tôi lấy tiền ra để làm ăn sinh lợi, nhưng
tôi không chịu. Tôi cứ định để đấy để sau này cho các con. Nhưng... kì lắm, anh
ạ. Đêm giáng sinh vừa qua, tôi nằm mơ thấy anh ấy về, vào trong phòng xoa đầu
các con đang ngủ và bảo tôi: “Này em, có ai nhờ giúp gì thì cố giúp người ta
nhé.” Tôi nào biết giúp cái gì, mà giúp ai? Tôi suy nghĩ mãi mà không thể nào
hiểu nổi, nhưng kể từ lúc nằm mê, lúc nào tôi cũng thấy nóng ruột. Rồi một hôm,
ông Tuất gặp tôi ở văn phòng chưởng khế, bảo có một người muốn vay tiền. Không
hiểu tại sao, tôi nhận lời ngay, mặc dù không biết người vay tiền đó là ai, và
mặc dù từ trước đến lúc đó, có bao nhiêu người đã nhờ thày mẹ tôi nói giùm mà
tôi không chịu. Thực quả là tôi không hiểu tại sao tôi lại nhận lời cho vay như
vậy, nhưng có một điều tôi nhận thấy rất rõ rệt; nhận lời như thế, tôi không
thấy băn khoăn một chút nào và đến khi ký giấy tờ ở chưởng khế xong, tôi tự
nhiên thấy hết nóng ruột.

Nghe câu chuyện của chị Huyền Hà xong, tôi
thấy cả người lạnh toát, và đến lúc này, thuật lại câu chuyện không thêm bớt,
tôi vẫn còn giật mình, sao lại có thể có sự cảm thông giữa một người bạn với
một người bạn, một nhà văn nhà báo với một nhà văn nhà báo kì lạ đến như thế
được. Và cũng từ lúc đó, lòng tôi thay đổi rất nhiều: tôi tin ở Phật, Trời;
người chết và người sống có sự tương quan; ở đời có âm phù dương trợ thực; và
tôi cứ tin như thế, không cần biết tin như thế thì có phải là thoái hóa, phản
khoa học hay lạc hậu không...

Bây giờ, trở lại lúc làm “Trung Bắc Chủ
Nhật”. Làm thư ký tòa soạn của “Trung Bắc Chủ Nhật” từ số đầu cho tới khi báo
nghỉ, tôi chuyên trách về các bài vở đăng báo và góp thêm ý kiến với Vượng về
việc tìm vấn đề làm các số. Xong đâu đó, tôi chuyển sang cho Vượng suy nghĩ về
cách mi và tìm hình ảnh để cho
báo vui hơn và sống động hơn. Mời người hợp tác cũng như các món chi tiêu thù
tạc đều do Nguyễn Doãn Vượng liệu lý, và nếu cần phải đối phó thì cũng do Vượng
cả. Tôi tránh đi như thế một phần cũng là vì, đúng trong thời gian đó, tôi là
thư ký tòa soạn cho ba tờ báo “Phổ Thông”, “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” và “Truyền
Bá”. Mà “Tiểu thuyết Thứ Bảy” và “Trung Bắc Chủ Nhật” lại là hai tờ báo chạy
nhất nước, số in xấp xỉ ngang nhau. Đứng vào cái thế ngang trái ấy, tôi ngỏ ý
với Nguyễn Doãn Vượng một bên, và ông Vũ Đình Long một bên, xin thôi, để chỉ
làm cho một nhà, nhưng vì cả hai cùng có cảm tình, không chịu, nên rút cục, tôi
vẫn làm; sáng, cho nhà Tân Dân, chiều, cho “Trung Bắc Chủ Nhật”, mà cả hai báo
lúc nào cũng vẫn có thiện cảm với nhau. Khó cho tôi nhất là có một lúc “Tiểu
Thuyết Thứ Bảy” muốn mở rộng phạm vi, mua bài của Đào Trinh Nhất và đồng thời “
Trung Bắc Chủ Nhật” lại muốn nhờ Nam Cao, Kim Lân viết truyện ngắn, Ngô Tất Tố
viết “Thơ Và Tình” dịch thơ Đường và thuật lại những diễm sử liên hệ đến các
bài thơ đó.

Dù sao, các việc ấy không đáng kể. Thời cục
hồi đó biến chuyển từng ngày, những việc đáng cho người ta đối phó có một tính
cách trọng đại hơn nhiều. Thế chiến thứ nhì bắt đầu. Vượng đưa ra ý kiến Nhật
có thể đổ bộ ở Việt Nam; báo “Trung Bắc Chủ Nhật” ra một loạt bài về đổ bộ từ
Đông qua Tây, từ cổ chí kim. Báo chạy trội hẳn lên. Cụ Luận vuốt râu, ngồi uống
rượu, nhìn ra đường Henri d'Orléans suy ngẫm: thì ra Nhật đổ bộ thực. Đi đâu
cũng nghe thấy tiếng gươm đập vào gót sắt của người lính Nhật kêu chan chát.
Sách “Nhật Ngữ Thực Hành” bán chạy như tôm tươi. Bịt tai lại, vẫn nghe thấy
vang lên “Dô tô”, “Dô tô nay”. Trong khi ấy, Pháp vẫn còn ở lại. Nhiều vấn đề
cần phải đối phó bắt đầu, thứ nhất là với Nhật. Hàng ngày xảy ra không biết bao
nhiêu việc liên hệ đến Nhật và Pháp. Giá “Trung Bắc Chủ Nhật” là một tờ báo
thường thì có lẽ họ cũng chẳng kể tới làm gì; đàng này lại mang tiếng là một tờ
báo chạy nhất mà thiên về văn hóa chính trị, nên cả Nhật lẫn Pháp đều muốn vơ
vào mình. Thành thử ra ở giữa, “Trung Bắc Chủ Nhật” lâm vào cái thế bí: Ngoảnh mặt về Tề e Sở giận, quay đầu
sang Sở sợ Tề ghen.

Tôi còn nhớ mãi câu chuyện liên quan tới phụ
bản in vào dịp báo xuân lúc đó. “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” in một bức tranh lụa của
Lê Văn Đệ. Muốn chơi “trội”, “Trung Bắc Chủ Nhật” điều đình với họa sĩ Foujita,
đến thăm Hà Nội vào một ngày tháng chạp, vẽ riêng cho một bức tranh để làm phụ
bản “Trung Bắc Chủ Nhật”. Thế là Pháp không bằng lòng. Thiếu tá Robb phàn nàn
với cụ Luận và nhờ khuyên Vượng thay đổi phụ bản đi; nhưng đã lỡ quảng cáo rồi,
Vượng cứ in phụ bản Foujita một mặt, và lo đối phó với Pháp mặt khác. Rút cục,
Pháp cũng chịu luận cứ của Vượng đưa ra là hợp lý và cũng kể từ lúc đó, Pháp và
Nhật cùng thi đua mua lòng “Trung Bắc Chủ Nhật” bằng cách này hay bằng cách
khác, và có một lúc đại sứ Nhật đã không ngại bảo viên Tổng Lãnh Sự của ông là
Ogawa đưa ra một túi bạc để lì xì “Trung
Bắc Chủ Nhật” nhân dịp Tết.

Vượng đã làm một cử chỉ khiến tôi cảm mến;
anh từ chối, viện cớ rằng báo của anh tạm đủ sống, khi nào cần, anh sẽ đề nghị
sau, còn lúc này thì thật quả chưa cần. Viên đại sứ Nhật bảo anh cầm lấy số
tiền đó cho con anh “như một thứ tiền mừng tuổi”. Rất cám ơn, nhưng tôi chưa có
con - Vượng trả lời kính cẩn.

Từ khi còn nhỏ tuổi, học lớp Dự Bị, Vượng đã
sống một cuộc đời đen tối, thiếu mọi tình yêu thương, thiếu cả về vật chất,
nhưng Vượng không hề bao giờ bê bối về tiền nong đối với những người lạ, cũng
như đối với anh em. Tôi vẫn phục đức tính ấy của Vượng, nhưng ở vào trường hợp
làm báo - mà báo lại không giầu gì quả tôi đã ngạc nhiên trong một phút. Từ
chối một sự giúp đỡ như vậy của Nhật vào lúc bấy giờ, không phải chỉ là một
thái độ trong sạch của một nhà báo trung thành với lý tưởng của mình, nhưng
phải nói là can đảm, vì ai cũng biết trạng thái tâm lý của đa số người Nhật khi
đó kì lạ lắm.

Đứng vào cái thế tranh chấp ngấm ngầm với
Pháp ở nước ta lúc ấy, đa số người Nhật cho rằng ai không đi với họ tức là đi
với Tây; họ giận; mà họ đã giận thì không ngại tỏ ra thái độ cục cằn, có khi võ
biền. Nhưng bù lại, họ lại hiểu biết hơn ai: nếu người đối thoại tỏ ra thành
thực, không khuất sợ uy vũ thì họ lại vì nể và đãi vào hàng bạn, chớ không coi
là một thứ người mà Đại Nhựt Bản, theo chủ trương Đại Đông A, đến để giác ngộ
và che chở. Trước cử chỉ ấy của Vượng, tôi cảm thấy như có một bông hoa bé nhỏ
nở ở trong lòng và tự nhủ: “Thôi cũng được. Như thế, Nhật họ đỡ hiểu lầm là các
nhà báo Việt Nam đều tên là Hoàng Cừ, Đặng Văn Hinh, Trương Anh Tự.” Cho mãi
đến khi phải tự nghỉ vì tình thế không cho phép, “Trung Bắc Chủ Nhật” lúc nào
cũng giữ vững lập trường mà Vượng và tôi đã thỏa hiệp lúc bàn nhau xuất bản:
lập trường quốc gia, dân tộc.

Thế rồi Nhật chiếm Việt Nam, loại Pháp ra
ngoài. Rất nhiều anh em, già có, trẻ có, khuyên chúng tôi chớ nên găng quá với
người Nhật, trong số đó bạn văn hóa không hiếm gì. Chúng tôi chỉ ừ ào, nhưng,
về thảo luận với nhau. Vượng và tôi vẫn giữ nguyên đường lối đã vạch sẵn: làm
báo Việt Nam, cho người Việt Nam, vì người Việt Nam. Một người bạn Nhật, thấy
thế, không hiểu vì vô tình hay hữu ý, bắn tiếng dọa bắt giam Vượng, mặt khác
lại xách đến nhà tôi một cây kiếm dài thườn thượt, buộc phải nhận một chức vụ
về kiểm duyệt. Vượng đã giải quyết ổn thỏa cho tôi vụ ấy. Nhưng chính lúc Nhật
làm dữ như thế thì trên toàn bộ, Nhật không còn đánh tốt, thắng mau như vụ Trân
Châu Cảng. Tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” vừa
làm vừa trông
. Báo không chạy dữ dội nữa, và đến lúc Nhật thua, Việt Minh
hoạt động mạnh, thì chẳng cứ “Trung Bắc Chủ Nhật”, tất cả các báo đều hãm thắng để đi chậm chậm rồi
lấy cớ kĩ thuật, thiếu giấy báo, để nghỉ một thời gian. Cũng vào khoảng đó, tờ
“Báo Mới” cũng của cụ Luận, và do Nguyễn Khắc Kham làm chủ nhiệm, Nguyễn Doãn
Vượng làm thư ký tòa soạn, cũng nghỉ luôn. “Báo Mới” là một tờ báo hàng ngày mà
anh em định làm theo một công thức mới, với hi vọng sẽ là một tờ báo lạ nhứt và
chạy nhứt, nhưng chưa thực hành được ý định thì
biến cố xảy ra dồn dập để đưa đến việc quân đội Lư Hán kéo đến tiếp thu Hà Nội.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3