Bốn Mươi Năm Nói Láo - Phần II - Chương 1

Phần II: BÁO ĐẤU
TRANH

TÔI, THẰNG VÔ
LẠI

Lỗ lã không đáng kể. Đóng cửa tờ “Công Dân”, chúng tôi vui
như Tết, bởi vì còn bao nhiêu tiền, chúng tôi đi hát sáng đêm. Thực ra, trong
thời gian làm báo, anh em cũng chẳng ai có tiền tiêu xài, người nào cũng lo
xoay sở riêng để chi tiêu trong gia đình. Riêng có Vũ Trọng Phụng bấn nhất, là
vì anh chưa có vợ để buôn bán giúp đỡ, mà bà nội và mẹ lại già, không thể kiếm
ra tiền. Vì thế Vũ Trọng Phụng không mấy tán thành nếp sống của chúng tôi lúc
đó; nhiều khi anh em đi hát hay chè rượu, phiện phò thì anh ngồi uống nước, hút
thuốc lào một mình và viết bài cho báo khác để kiếm thêm giúp bà, nuôi mẹ. Cuốn
“Dứt tình” và “Dông tố” của Thiên Hư Vũ Trọng Phụng viết trong thời kì này. Bây
giờ đọc hai cuốn truyện ấy, có nhiều người tưởng là anh viết một hơi; thực ra,
Vũ Trọng Phụng không bao giờ có thời giờ để viết quá mười trang giấy. Cứ gần
đến ngày phải nộp bài cho “Hà Nội Báo” - tiểu thuyết “Dông tố” bắt đầu viết
từng kì trên báo này - Vũ Trọng Phụng lại ngồi ì ra một đống, hút thuốc lào và
hỏi ầm lên có ai biết kì trước “Dông tố” đã viết đến đoạn nào rồi không. Chẳng
ai trả lời cả, bởi vì chẳng có ai đọc “Dông tố” hết.

Vũ Trọng Phụng chán đời hết sức, đành phải đi tìm “Hà Nội
Báo” để đọc xem mình đã viết đến câu gì, bấy giờ mới phủ phục xuống giường như
con voi viết tiếp, mắt hiếng hẳn đi mà lưỡi thì lè ra như lưỡi con thằn lằn, có
khi vừa viết vừa chửi thề sao mình
lại khổ đến thế này, cứ phải viết mới có tiền sanh sống.

Bây giờ Phụng đã ra người thiên cổ; nhắc đến anh, người ta
thường kể lại một câu nói của anh: “Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết để ăn
thì đâu có phải chết non như thế này.”

VŨ TRỌNG PHỤNG

Câu nói ấy, chính Phụng đã thổ lộ với tôi trên giường bịnh.
Phụng và tôi là bạn học từ lớp Dự bị trường Hàng Vôi. Ở trường này ra, tôi theo
học Lycée Albert Sarraut, còn Phụng lúc được mười tám, mười chín tuổi đã phải
đi làm thư ký cho nhà in IDEO, kiếm mỗi tháng mười hai đồng bạc để về nuôi bà
và nuôi mẹ. Vì không đủ sống một phần, mà cũng vì thích viết văn, đọc báo phần
khác, đến tối về nhà, anh viết truyện ngắn để bán cho tờ “Ngọ Báo” của Bùi Xuân
Học và “Nông Công Thương” của ông Phạm Chân Hưng (thân phụ Phạm Huy Thông, tác
giả cuốn thơ bất hủ “Tiếng địch sông Ô”). Những truyện ngắn đầu tay của Vũ Trọng
Phụng là những truyện “bực thầy”. Bây giờ nhắc đến anh, ai cũng nhớ đến “Số
đỏ”, “Dông tố”, “Trúng số độc đắc”, “Dứt tình”, hay những phóng sự như “Cạm bẫy
người”, “Kĩ nghệ lấy Tây”, mà ít có ai nhớ rằng Vũ Trọng Phụng nổi tiếng một
thời là vì những truyện ngắn như “Chống nạng lên đường”, “Cái răng vàng” và
nhiều truyện khác nữa mà tôi không nhớ tên đề, trong đó có một truyện đăng báo
“Nông Công Thương”, thuộc về loại hiện thực, tả một gia đình ở Hàng Bạc có mấy
cô con gái đứng trong mành mành nhìn trai ở ngoài đường và tối đến lại tụ họp
gẩy đàn “xừ, xang, xê, líu, cộng”.

Phụng có một cái tài đặc biệt là không hề biết đánh bạc là
gì, mà tập phóng sự đầu tiên viết cho báo “Nhựt Tân”, anh dám đề cập đến vấn đề
bạc bịp. Thực ra, anh cũng chưa hề quan sát một vụ “đánh bờ” bao giờ, nhưng anh
viết như một người đánh bạc thông thạo nhất, đó là nhờ một người anh là ông
Trưởng Tạo, cũng ở phố Hàng Bạc, nói chuyện lại để cho anh viết. Cũng thế, đọc
truyện “Số đỏ”, ai cũng tưởng Phụng là một tay ăn chơi sành sỏi khét tiếng mà
lại “đểu” là khác nữa, nhưng sự thật trái ngược hẳn: trong tất cả anh em quen
biết, Phụng có lẽ là người “chân chỉ hạt bột” nhất, hiền lành nhất mà tương đối
cũng là đạo đức nhất. Tiêu pha hay chơi bời gì, anh tính toán từng đồng xu,
không phải là vì kẹo, nhưng
chính vì anh phải đứng mũi chịu sào lo cho cả nhà, trong đó có một bà nội góa
và một bà mẹ góa, đồng thời lo sao để dành dụm được ít tiền lấy vợ, hầu có con
nối dõi.

Về sau này, Phụng mòn mỏi đi, một phần lớn cũng là vì thức
đêm thức hôm để viết cho nhiều báo như “Tiểu thuyết thứ bảy”, “Tiểu thuyết thứ
năm”, “Hà Nội tân văn”, lấy tiền, nhưng cuộc sống của anh ở bên ngoài đối với
những người lạ, không có vẻ gì vất vả; trái lại, anh lại ra cái dáng nhàn nhã,
ung dung là khác. Dù bận rộn viết lách đến mấy đi nữa, tuần nào anh cũng đọc
hàng chục tờ báo Pháp để học thêm. Trong anh em, có thể nói anh là người hiểu
rõ tinh thần của giọng văn “Canard Enchainé” nhất, mà anh cũng am hiểu nhất
chánh trị ở nước Pháp và thế giới lúc bấy giờ.

Cũng trong tất cả anh em, Phụng là người có thứ tự, phàm có
tài liệu gì, hay, lạ thì cất đi, cho nên vào lúc một tuần báo ở Huế đả kích anh
viết văn khiêu dâm, anh đã lên tiếng trả lời rất vững, kèm nhiều chứng cớ và
tài liệu rất “búa” làm cho một linh mục phải nhận là anh có lý... Phụng sống
một cuộc đời kín đáo, khiêm nhường, coi việc gì cũng là thường và không bao giờ
tỏ ra ngạc nhiên hay lo sợ quá trớn. Không có tiền thì không tiêu, anh không
hỏi vay của ai bao giờ mà cũng ít phàn nàn với ai rằng mình khổ. Đó là một đức
tính làm cho anh em kính nể, nhưng anh em thương Phụng nhất về điểm dù khổ đến
thế nào, Phụng cũng thủy chung như nhứt với anh em, cứ mỗi khi có báo dù biết
trước là viết không có tiền, không nhiều thì ít, thế nào Phụng cũng có bài cộng
tác với anh em, và lâu lâu Phụng lại đi hát với chúng tôi, nhậu nhẹt như ai
quấy cũng như ai. Bây
giờ, ngồi kể lại cuộc đời nói láo, tôi thơ thẩn còn như trông thấy “những con
ma” thân thiết đó, vào những đêm mưa phùn, nằm tròn chung quanh một khay đèn
nói chuyện thắm thiết ân tình; tuy không tuyên bố ra lời, nhưng qua ánh mắt thì
người nào như cũng tự thề với lòng là sinh tử có nhau.

Nhưng cuộc đời bao giờ đứng im một chỗ mãi, không thay đổi?
Tiền hết, các buổi họp ở hồng lâu cũng không còn. Mỗi người đi một ngả: Nguyễn
Triệu Luật đi dạy học; Vũ Liên chết; Nguyễn Như Hoàn cũng qua đời. Còn lại
Phùng Bảo Thạch, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và tôi ngồi chờ một cái gì.

Chờ thì cái gì mà chẳng đến? Chúng tôi lại gặp Đinh Khắc
Giao rủ nhau làm tờ “Tương Lai”, giám đốc chính trị là Hà Văn Bính, còn chủ bút
là Phùng Bảo Thạch. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhận rằng Phùng Bảo Thạch là một
nhà báo lão luyện, có nhiều sáng kiến và nhiều mánh lới, nhưng đó là một người
bạn không may suốt cả một cuộc đời, nên về vật chất đã chẳng bằng ai, mà tiếng
tăm về nghề báo thì hầu như không có mấy ai biết tới. Bây giờ chẳng biết ở bên
kia Bến Hải, anh còn làm nghề báo nữa không? Riêng tôi biết, thì từ hiệp định
Genève trở về trước, anh là một người khổ cực về nghề báo, tù tội về nghề báo,
nhưng tuyệt nhiên tôi không hề nghe thấy anh ta oán một lời nào. Trái lại,
trong những cuộc hội họp với anh em, anh lại ưa cười, ưa phá, và cũng là người
đầu tiên bầy ra những trò vui nhộn để làm cho anh em quên lãng cuộc đời đầy
nước mắt.

Để “giúp vui”, nhiều anh em bị đưa ra làm mục tiêu cho bọn
chúng tôi đùa cợt. Đùa ít thì không sao, đáng tiếc là có nhiều khi anh em đùa
dai quá, thành thử “nạn nhân” tức bực cáu bẳn, không ngại đưa ra những lời lỗ
mãng để đáp lại. Đó là trường hợp Vũ Liên bị chọc, tức quá không chịu nổi nữa,
nửa đêm bỏ nhà báo đi về nhà quê, sau khi thóa mạ cả bọn chúng tôi là “quân mất
dạy”. Nguyễn Triệu Luật cũng vậy, nắm tay đập xuống bàn bị thương, chảy máu,
thề từ giờ “không thèm viết lách với bọn bay”. Riêng Ngô Tất Tố thì có khi bị
Phùng Bảo Thạch và tôi chọc uất quá, tưởng như có thể thổ ra máu như Chu Công
Cẩn. Thực tâm lúc nào tôi cũng kính phục Ngô Tất Tố về đức độ, về văn tài, học
lực, như một bực đàn anh. Thành thực hơn nữa, tôi lại phải nói thêm rằng tôi
rất bất bình khi thấy báo “Duy Tân” của Nguyễn Đình Thấu kêu đầu xứ Tố là Đồ Tố
và cứ nhắc đi nhắc lại câu vè: Anh
Đồ ơi, đôi mắt anh không sáng, cũng không nhèm. Suốt đời anh không biết ăn kem
Bờ Hồ.
Nhưng không hiểu duyên nợ gì cứ buộc tôi phải chọc

Ngô Tất Tố. Điển hình là vụ Ngô Tất Tố dạy tôi học chữ nho,
và tôi dạy lại Ngô Tất Tố học chữ Tây. Sau một mật ước với anh em, tôi làm ra
bộ rất đứng đắn, một hôm, trịnh trọng bảo Ngô Tất Tố:

- Bác Tố ạ, chúng ta làm báo đã lâu, nhưng thực ra chưa làm
báo.

Tố quắc mắt, hỏi tôi:

- Bác nói gì? Tại sao ta lại chưa làm báo?

- Là ý tôi muốn nói thế này, bác ạ. Bác viết báo vào
hạng cừ, anh em đều nhận thế;
nhưng dù sao bác cũng phải nhận rằng bác còn thiếu chữ Tây, mà tôi vào cái hạng
đàn em, nhưng viết cũng gọi là khơ khớ, tôi lại thiếu hẳn cái chữ nho.

Thế rồi tôi bỏ lửng không nói nữa. Lát sau, Phùng Bảo Thạch
mới bàn:

- Thì có khó gì đâu. Bác Tố và anh Bằng bổ túc lẫn cho nhau
thì chu hết, cần gì phải băn khoăn.

Ngô Tất Tố hỏi bổ túc thế nào. Phùng Bảo Thạch đề nghị mỗi
ngày hai người nên dành ra nửa tiếng đồng hồ để dạy lẫn nhau: Tố dạy Bằng chữ
nho, còn Bằng dạy Tố tiếng Pháp. Anh em cho là phải. Ngay hôm sau, tôi bắt đầu
chương trình dạy tiếng Pháp và được bác Tố chăm chú học hỏi một cách thành
kính. Tôi bắt đầu bằng một tràng lý luận:

- Tôi không hiểu chữ nho ra sao chứ cách cấu tạo chữ Pháp
của họ tinh vi và thiết thực hết sức. Đại khái cây mía. Nó nói gì? Thoạt đầu,
nó giống cây tre, cây tre tiếng Pháp là [bambou].
Hít cây mía, có nước. Nước là eau.
Vì thế cây mía tiếng Tây gọi là bambou
hít ra lô.
Nghe được lắm. Bác Tố lẩm nhẩm đọc “bambou hít ra lô” là
cây mía, cây mía là “bambou hít ra lô”... Mặt tôi vẫn nghiêm. Vẫn lý luận như
trên, tôi dạy thêm: lanh nhanh
cái tàu điện, đanh đông
cái đỉnh đồng, lơ sơ vơ
anh sợ vợ, laboratoire
Lã Bố ra tòa. Đến hai danh từ sau cùng, anh em và chính tôi thấy mặt bác Tố bơ
vơ, không thể nín cười được nữa, bật ra một tràng cười khổng lồ làm rung động
cả cửa kính và sàn gác. Tố biết mình bị lỡm, cầm cái gối ném vào mặt tôi và
ngay lúc đó đứng dậy mặc cái áo the, chụp cái khăn vào đầu, lê đôi giầy Gia
Định một cách thiểu não đến nhà Mai Lĩnh nằm nhai khối hận. Từ hôm đó, Ngô Tất
Tố kêu tôi là “đồ vô lại” và “gạt tôi sang hàng ngũ thành tích bất hảo”, không
thèm nhìn mà cũng không thèm nói một câu. Phần tôi, tôi hối hận không để đâu
cho hết và tự nguyền rủa mình sao lại có thể “đem một linh hồn ra đùa giỡn” một
cách vô học, vô liêm sỉ đến như thế được.

Cả tòa soạn phải họp lại, cử một phái đoàn đưa tôi đến nhà
xuất bản Mai Lĩnh để xin lỗi Ngô Tất Tố. Anh em bao giờ lại nỡ bỏ nhau: Ngô Tất
Tố, rút cục, bằng lòng tha lỗi cho tôi. Vì thế, trong tờ “Tương Lai”, ba chữ
Ngô Tất Tố và bút hiệu Ngô Công lại chịu cùng đứng chung với bút hiệu của chúng
tôi để làm cho tờ “Tương Lai” thành một tờ tuần báo tranh đấu được người ta lưu
ý.

THẤT VỌNG THƯ
NHÌ

Chính vì báo “Tương Lai” được lưu ý mà chúng tôi mắc bẫy
của thực dân và gặt lấy một thất vọng trong nghề báo.

Nguyên lúc ấy, chế độ bảo hộ đang trải qua một thời kì xáo
trộn. Léon Blum lên cầm quyền ở Pháp, Marius Moutet là bộ trưởng thuộc địa. Mặt
trận bình dân ra đời. Ở nước ta, chính trị cũng vì thế mà sôi động hơn lúc
trước, tờ “Tân Xã Hội” của Trần Đình Long xuất bản ít lâu thì nhóm “Le Travail”
xuất hiện, đặt trụ sở ở góc đường Nguyễn Trãi, ra vào có một số nhân vật hiện
nay đang tranh đấu “ở hàng ngũ bên kia”. Chúng tôi là bạn, hàng ngày, vẫn gặp
nhau trò chuyện. Tưởng rằng có tờ “Le Travail” bây giờ lại thêm tờ “Tương Lai”
thì cũng như cọp thêm cánh, ai ngờ chính vì tờ “Tương Lai” mà anh em lại bất
hòa, rút cục đến sanh ra giận dỗi và ly tán mất một thời gian.

“Tương Lai”, cũng như tờ “Công Dân”, là một tờ báo trình
bày rất sạch sẽ, lấy hai điểm này làm đích: đả kích quan trường, lên án chế độ
thực dân. Tất cả tòa soạn đều hăng say viết lách, không ngờ ở ngay chính cạnh
chúng tôi lại có những tay sai của mật thám thường xuyên báo cáo hoạt động của
anh em mà không ai biết. Do đó, thực dân đã lợi dụng những tay sai đó gây mâu
thuẫn giữa nhóm “Tương Lai” và nhóm “Le Travail”, để rút cuộc khi không, chẳng
có chuyện gì đáng kể, chúng tôi căm thù Trịnh Văn Phú, Nguyễn Văn Tiến và các
anh em khác, và coi như là thù nghịch.

Nhưng hiểu lầm gì rồi cũng qua đi, chẳng sớm thì muộn, anh
em cầm bút chân chính cũng bắt tay nhau thông cảm. Bởi vì những mánh khóe của
thực dân không còn ai không rõ. Nhóm “Le Travail” cũng như nhóm “Tương Lai”,
vẫn chưa quên vụ chánh mật thám Arnoux, giữa một buổi trưa, rình lúc đồng chí
Văn đi vắng, đến nhà Văn ở đường Henri d’Orléans tạ sự viếng thăm rồi liệng một
tấm thiệp có tên và chức vụ của y, mưu làm cho Văn mang tai mang tiếng, mất uy
tín với anh em, cùng biết bao nhiêu vụ khác mưu gây hoang mang trong các anh em
yêu nước, như vụ một tên mật thám trông thấy thượng Sĩ Nguyễn Đức Long nhẩy
chồm từ xe hơi xuống bắt tay lia lịa và trách “sao lâu nay không ra ngoài ấy (ý
nói sở Mật thám) tán chuyện với nhau”, hay vụ một tên mật thám khác viết thư
đến cho Nguyễn Mạnh Chất ở báo “Le Travail” kèm một số tiền năm mươi đồng.
Chẳng nói, các bạn đọc cũng thừa biết cả Nguyễn Đức Long và Nguyễn Mạnh Chất
đều không hề giao thiệp với mật thám bao giờ.

Về vụ tờ “Tương Lai” thì khác: bọn tay sai của mật thám
“nằm vùng” trong báo đã bán đứng chúng tôi để ăn mày một chút danh vọng cho bản
thân của chúng. Biết vậy, tòa soạn, sau một cuộc họp kín, quyết định từ chức
hết để cho “bọn chúng” làm với nhau, nhưng xuất bản tập tễnh được vài ba số thì
“Tương Lai” cũng chết. Chính vì vụ “từ chức tập đoàn” này, các anh em “Le
Travail” và chúng tôi cùng hiểu nhau hơn, và cũng do đó, một số lớn anh em ở
nhóm “Tương Lai” cùng nhóm “Le Travail” tiếp tục tranh đấu cho đất nước đến bây
giờ, có người còn sống nhưng cũng nhiều người đã chết ở chốn non cao nước thẳm.

Bây giờ, thảng hoặc có khi tình cờ lượm được một tờ báo
“Tương Lai” cũ, đọc từ đầu đến cuối, tôi thấy buồn se sắt khi nhớ lại một quãng
đời làm báo đã qua và nhiều lúc tôi ngạc nhiên sao lúc ấy anh em lại có thể
viết được những bài hay như những bài phim của Ngu Công, những pô tanh kín đáo mà chua chát
của Vũ Trọng Phụng, những xã thuyết sắc bén của Phùng Bảo Thạch... Và từ ý nghĩ
này bước sang ý nghĩ kia, tôi ưa nhớ lại một ngày nào bỏ Thủ đô theo kháng
chiến, tôi được nghe một câu nói không thể nào quên được, lúc dự một buổi họp
nhắm lập “làng văn hóa”: “Tạo một lớp thợ chân tay chỉ cần năm năm, chớ tạo một
lớp thợ văn hóa thì phải mười lăm năm là ít”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3