Thanh gươm huyền bí (Quyển 1) - Chương 4 phần 1

Chương 4: Cạm bẫy

Ngay khi Lyra vừa đi
khỏi, Will tìm một trạm điện thoại và quay số của văn phòng luật sư mà cậu tìm
thấy trên phong bì.

“Alô, cho cháu nói
chuyện với ông Perkins ạ”.

“Làm ơn cho hỏi ai đang
gọi đấy?”

“Có việc liên quan đến
tới ông John Parry ạ. Cháu là con trai ông ấy.”

“Cậu vui lòng chờ một
chút nhé...”

Một phút trôi qua, rồi
một giọng nói vang lên, “Alô, tôi là Alan Perkins đây. Tôi đang được nói chuyện
với ai đây?”

“William Parry. Xin lỗi
ông vì cháu đã gọi. Đó là việc về bố cháu, John Parry. Cứ ba tháng một lần ông
gửi tiền từ tài khoản của bố cháu sang tài khoản của mẹ cháu.”

“Vâng...”

“Ừm, cháu muốn biết bố
cháu ở đâu. Bố cháu còn sống hay đã chết?”

“Cháu bao nhiêu tuổi hả
William?”

“Mười hai tuổi. Cháu
muốn biết về bố cháu.”

“Ừ... Mẹ của cháu… liệu
mẹ cháu… có biết cháu đang gọi điện cho tôi không?”

Will thận trọng suy
nghĩ.

“Không,” cậu trả lời.
“Nhưng mẹ cháu không được khỏe. Mẹ cháu không thể nói cho cháu biết nhiều về bố
mà cháu thì lại rất muốn biết.”

“Ừ, tôi thấy rồi. Cháu
đang ở đâu? Cháu có ở nhà không?”

“Không, Cháu... Cháu ở
Oxford.”

“Một mình ư?”

“Vâng.”

“Cháu nói là mẹ của
cháu không khỏe phải không?”

“Vâng.”

“Mẹ cháu đang ở bệnh
viện hay sao đó?”

“Đại loại thế. Thưa
ông, ông có thể cho cháu biết hay không ạ?”

“Được, tôi có thể cho
cháu biết một vài điều nhưng không nhiều đâu và cũng không phải lúc này, tôi
cũng không muốn làm việc này qua điện thoại. Trong vòng năm phút nữa, tôi phải
đi gặp khách hàng... Cháu có thể tìm đường tới văn phòng của tôi vào hai rưỡi
được không?”

“Không được đâu ạ.”
Will trả lời. Là thế có thể quá mạo hiểm: có thể ông ta biết được tin là cảnh
sát đang truy nã mình. Cậu bé nghĩ thật nhanh rồi tiếp tục. “Cháu phải bắt xe
buýt tới Nottingham và cháu không muốn bị lỡ chuyến đi, ông có thể nói với cháu
qua điện thoại được chứ? Tất cả điều cháu muốn biết là bố cháu có còn sống
không, và nếu bố cháu còn sống thì cháu có thể tìm thấy bố ở đâu. Ông nói với
cháu được chứ?”

“Không đơn giản như vậy
đâu. Tôi không thể tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng trừ khi tôi chắc
chắn là khách hàng của mình muốn. Dù sao đi nữa, tôi cũng muốn xem những giấy
tờ chứng minh cháu là ai.”

“Vâng, cháu hiểu, nhưng
ông có thể chỉ nói cho cháu biết bố cháu còn sống hay đã chết được không?”

“Ồ... Không được. Như
vậy là không bảo mật. Thật đáng tiếc là tôi không thể nói với cháu vì tôi cũng
không biết.”

“Cái gì cơ?”

“Số tiền đó đến từ một
hợp đồng ủy thác gia đình. Ông ấy đưa chỉ dẫn cho tôi chuyển tiền cho mẹ con
cậu tới khi nào ông ta bảo thôi. Từ ngày đó đến giờ tôi cũng không nghe thấy
ông ấy nói gì cả. Nhưng có một điều... Tôi nghĩ rằng ông ấy đã biến mất. Đó là
lý do tại sao mà tôi không thể nói cho cháu biết được.”

“Biến mất? Cứ thế mà…
biến?”

“Thực ra thì đó là vấn
đề của bên cảnh sát. Này cháu, tạo sao cháu không tới văn phòng của tôi và...”

“Cháu không thể. Cháu
phải tới Nottingham.”

“Được rồi, hãy viết thư
cho tôi hay là bảo mẹ cháu viết cho tôi, tôi sẽ cho hai mẹ con biết những điều
tôi có thể nói. Nhưng cháu phải hiểu rằng tôi không thể làm được nhiều qua điện
thoại.”

“Vâng, cháu cũng cho là
thế. Nhưng ông có thể cho cháu biết bố cháu mất tích ở đâu được không ạ?”

“Như tôi đã nói, đó là
vấn đề phía các nhà chức trách. Vào thời gian đó, có một vài bài báo liên quan
đấy. Cháu có biết bố cháu là một nhà thám hiểm không?”

“Vâng, mẹ cháu có nói
với cháu một vài chuyện.”

“Bố cháu đã dẫn đầu một
đoàn thám hiểm và cả đoàn đã mất tích. Khoảng mười năm trước. Có thể là hơn.”

“Ở đâu ạ?”

“Ở miền Bắc xa xôi. Tôi
nghĩ là Alaska. Cháu có thể tra cứu ở thư viện công cộng ấy. Tại sao cháu...”

Nhưng đúng lúc đó thì
Will hết sạch tiền xu để gọi điện. Điện thoại cứ tút dài bên tai cậu. Will liền
bỏ ống nghe xuống rồi

Bây giờ điều cậu muốn
hơn cả là được nói chuyện với mẹ. Cậu phải tự ngăn mình không gọi điện cho bà
Cooper bởi nếu cậu nghe thấy tiếng mẹ lúc này thì e rằng cậu không thể không về
thăm mẹ được. Nhưng nếu làm như vậy thì cả hai mẹ con đều gặp nguy hiểm. Nhưng
có thể gửi cho mẹ một tấm thiệp.

Will chọn tấm thiệp có
hình phong cảnh thành phố và viết: “GỬI MẸ THÂN YÊU, CON VẪN
KHỎE VÀ AN TOÀN. CON SẼ SỚM GẶP LẠI MẸ. CON MONG MỌI THỨ ĐỀU TỐT ĐẸP. CON YÊU
MẸ. WILL.
” Cậu đề địa chỉ, mua một cái tem, ôm tấm thiệp trong lòng một lúc
rồi mới bỏ nó vào thùng thư.

Lúc này là giữa buổi
sáng, cậu đang ở phố mua bán chính, những chiếc ô tô buýt luồn lách trong đám
đông khách bộ hành. Will nhận ra mình thật lộ liễu; vì đây là ngày thường, vào
giờ này những đứa trẻ tầm tuổi như cậu đáng nhẽ đang ở trường. Vậy thì cậu đi
đâu?

Không cần mất nhiều
thời gian để ẩn mình, Will có thể dễ dàng trốn đi vì cậu rất giỏi việc này; cậu
thậm chí còn tự hào về khả năng của mình. Cái cách cậu làm cũng giống như cái
cách mà Serafina Pekkala đã làm cho mình trở nên vô hình khi ở trên tàu, cậu
làm cho mình không dễ bị thấy. Đó là hòa mình vào cảnh quan xung quanh.

Biết rất rõ về thế giới
của mình đang sống, cậu đến một cửa hàng văn phòng phẩm, mua một cái bút bi,
một xếp giấy và một cái cặp. Các trường học thường gửi học sinh đi khảo sát mua
sắm hoặc một vài hoạt động như thế. Nếu trông cậu bé giống như đang tham gia
một kế hoạch như vậy thì cậu sẽ không bị lạc lõng.

Will đi dọc con phố,
giả vờ như mình đang ghi chép một vài số liệu, khi thấy thư viện công cộng, mắt
cậu mở thật.

***

Trong lúc đó, Lyra đang
tìm một nơi nào đó thật tĩnh lặng để tham khảo ý kiến chiếc Chân - kế. Ở Oxford
của cô, chỉ trong năm phút đi bộ cũng có thể tìm được hàng tá chỗ. Nhưng Oxford
này khác xa quá mức tưởng tượng, với những mảnh chắp vá thân thuộc đến nao lòng
ngay bên cạnh những sự kỳ dị lạ lùng gần như khó hiểu: tại sao người ta lại sơn
những dòng kẻ màu vàng trên đường? Những chấm trắng lốm đốm trên vỉa hè là cái
gì? (Ở thế giới của Lyra, họ chưa từng được biết đến kẹo cao su.) Còn những cái
đèn xanh đỏ ở góc phố nữa? Quả thật còn khó đọc hơn cả Chân - kế bội phần.

Đây rồi, cổng trường
đại học Thánh John, nơi cô bé và Roger đã trèo lên vào buổi tối để làm pháo hoa
trên những luống hoa; rồi những phiến đá cũ rất đặc biệt ở phố Catte. Chỗ đó
Simon Parslow đã viết nguệch ngoạc hai chữ SP, ở đây cũng giống hệt như vậy! Ai
đó trên thế giới này có tên viết tắt giống vậy cũng đã đứng vẩn vơ ở đây và làm
một việc không khác tẹo nào.

Có thể ở thế giới này cũng
có một Simon Parslow.

Và có thể cũng có một
Lyra.

Sự ớn lạnh chạy dọc
sống lưng Lyra, Pantalaimon trong hình dáng một con chuột chui tọt vào túi cô.
Cô bé tự lắc đầu, chẳng cần tưởng tượng nhiều thì cũng có quá đủ những bí ẩn
rồi.

Một khác biệt nữa ở thế
giới này là có rất nhiều người đi bộ trên vỉa hè, họ ở trong và ngoài những tòa
nhà, tất cả loại người, đàn bà cũng ăn mặc giống như đàn ông, cả người châu
Phi, có cả một nhóm người Tartar ngoan ngoãn đi theo sau người dẫn đầu, tất cả
đều ăn mặc gọn gàng và đeo một chiếc túi nhỏ màu đen. Lúc đầu nhìn thấy họ, cô
bé rất sợ vì họ không có nhân tính, mà những người như vậy ở thế giới của cô
gọi là ma trơi hay còn tệ hơn thế.

Nhưng (điều này mới lạ
lùng nhất), trông họ vẫn đầy sức sống. Những sinh vật này đi lại rất hoạt bát,
vì dẫu sao họ đều là con người, nên Lyra buộc phải thừa nhận rằng có lẽ ở đây
họ là như vậy, rằng nhân tính của họ cũng giống hệt Will, cũng được giấu ở bên
trong.

Sau một giờ lang thang,
xem xét Oxford giả này (theo Lyra thì Oxford của cô mới là thật) cô thấy đói,
cô mua cho mình một thanh sôcôla bằng đồng hai mươi bảng. Người bán hàng nhìn
cô vẻ kỳ quặc, mặc dù cô nói rất rõ ràng, nhưng ông ta là người Ấn Độ và ông
không nghe được giọng của cô. Còn chút tiền lẻ, cô mua một quả táo ở chợ
Covered. Nó lớn hơn ở Oxford rất nhiều, cô đi tới phía công viên. Cô thấy mình
đang đứng bên ngoài một tòa nhà thật lớn, một tòa nhà lớn như vậy không hề tồn
tại trong Oxford thật của Lyra. Cô ngồi trên thảm cỏ phía ngoài để ăn, thầm
ngưỡng mộ tòa nhà cao.

Thì ra đó là bảo tàng.
Cửa bảo tàng đang mở, bên trong có rất nhiều thú nhồi bông, xương hóa thạch và
các mẫu khoáng chất giống như bảo tàng địa chất Hoàng gia mà cô đã đi thăm cùng
với bà Coulter ở London. Phía sau sảnh lớn toàn bằng kim loại và kính là một
lối đi dẫn vào khu vực khác của bảo tàng, trông nó có vẻ vắng vẻ, Lyra liền
bước vào xem. Trong đầu cô lúc này chỉ có chiếc Chân - kế. Ở căn phòng thứ hai,
cô nhìn thấy những thứ rất quen thuộc với mình: một va ly đựng đầy quần áo rét,
trông giống như bộ áo lông của cô... những
chiếc xe trượt tuyết, sừng hải mã được chạm khắc và cái lao để săn hải cẩu...
cùng với một trăm lẻ một chiến lợi phẩm lộn xộn, di vật, dụng cụ phép thuật và
những vũ khí không chỉ ở Bắc Cực, mà như cô thấy, từ nhiều nơi trên thế giới
này.

Thật là kỳ lạ. Bộ da
của tuần lộc giống hệt thế giới của cô nhưng cách họ buộc dây vào xe trượt
tuyết thì hoàn toàn khác. Có vài bức ảnh về những người đi săn ở Bắc Cực, giống
hệt hai gã đã bắt Lyra đem bán cô tới Bolvangar. Nhìn này! Cũng chính là những
gã đó! Thậm chí những sợi dây đã sờn, được nối lại cũng chính xác đến từng điểm
một, cô cảm nhận điều này rất sâu sắc, chúng đã được buộc vào mỗi chiếc xe
trượt tuyết trong hàng giờ đau đớn. Những điều bí ẩn này là gì vậy? Sau tất cả,
có phải chỉ có một thế giới duy nhất, liệu thế giới nào là mơ đây?

Cô lại nhớ đến chiếc
Chân - kế khi đi qua một thứ gì đó. Trong một ngăn kính có khung bằng gỗ sơn
đen, có rất nhiều sọ người, một vài cái còn có lỗ; một vài cái ở phía trán, một
vài cái ở bên cạnh, vài cái lại ở đỉnh đầu. Có một cái có hai lỗ ở giữa. Quá
trình này, được viết nguệch ngoạc trên một tấm thiệp, được gọi là khoan. Tấm
thiệp này cũng nói rằng tất cả những lỗ hổng được tạo ra trong suốt quãng đời
của người đó, bởi vì xương đã liền và phát triển quanh chóp. Tuy nhiên, có
những cái không có lỗ hổng; mà lỗ hổng ở đây là do đầu mũi tên bằng đồng vẫn
còn trong sọ, cái chóp này rất nhọn và bị vỡ, vì vậy rất khác nhau.

Đó là những điều mà
những người Tartar phương bắc đã làm. Theo những Học giả am hiểu thì chính
Stanislaus Grumman đã tự tạo cho mình một lỗ hổng. Lyra nhìn quanh thật nhanh,
khi không thấy ai ở gần, cô mới lấy chiếc Chân - kế ra.

Cô tập trung vào những
chiếc sọ và hỏi: Những chiếc sọ này thuộc về loại người nào, tại sao họ lại có
những lỗ hổng trên đầu?

Khi cô đứng tập trung
trong ánh sáng đầy bụi được lọc bởi mái nhà bằng kính và xuôi xuống qua phòng
trưng bày ở tầng trên, cô không hề biết mình đang bị theo dõi.

Một ông già khoảng độ
sáu mươi tuổi, trông rất có uy quyền, mặc bộ quần áo may bằng vải kẻ rất đẹp,
đội cái mũ panama, đang đứng ở phòng trưng bày phía trên nhìn xuống qua những
thanh chắn bằng sắt.

Mái tóc xám của ông
được chải gọn gàng từ vầng trán rám nắng hơi nhăn nheo ra phía sau. Ông ta có
đôi mắt đen to và hàng mi thẳng dài. Cứ mỗi phút, ông ta lại đưa lưỡi ra liếm
môi. Chiếc khăn mùi xoa màu trắng trên túi áo ngực xực nức mùi nước hoa cologne
giống như mùi những cây trồng trong ngôi nhà quá nóng đến nỗi rễ của nó bị rữa
ra vậy.

Ông ta đã theo dõi Lyra
được vài phút. Khi cô di chuyển ở phía dưới thì ông này cũng di chuyển theo
phía bên trên. Khi cô đứng im trước những chiếc sọ, ông ta quan sát cô thật
gần, để ý tất cả trên người cô: mái tóc bờm xờm, vết thâm trên má cô, bộ quần
áo mới, chiếc cổ trần uốn cong trên chiếc Chân - kế, đôi chân không giày dép
của cô.

Ông ta rút khăn tay
trên ngực áo ra lau trán rồi lại lấy lau cầu thang.

Lyra đang mải mê tìm
hiểu những điều kì lạ. Không thể tưởng tượng được, những chiếc sọ này quá lâu
rồi. Tấm thiếp trong ngăn tủ chỉ viết ngắn gọn THỜI KÌ ĐỒ ĐỒNG, nhưng theo Chân
- kế thì cái đầu đó đã có cách đây 33.254 năm, ông ta là một phù thủy và lỗ hổng đó được
tạo ra để cho những vị thần đi vào đầu ông. Và rồi chiếc Chân - kế, thông
thường nó thỉnh thoảng vẫn trả lời những câu hỏi mà Lyra không hỏi, nó góp ý
với Lyra là có nhiều Bụi ở chiếc đầu bị khoan hơn là những cái đầu có mũi tên.

Cái đó có ý nghĩa gì
vậy nè trời? Lyra ra khỏi trạng thái tĩnh lặng mà cô dành cho Chân - kế, trở
lại với thực tại, cô thấy mình không còn đứng một mình nữa. Ở ngăn bên cạnh,
một người đàn ông lớn tuổi trong bộ quần áo màu xám, ông sức nước hoa rất thơm.
Ông làm cô nhớ đến một ai đó nhưng cô vẫn chưa nghĩ ra được.

Biết được cô bé đang
nhìn mình, ông quay ra mỉm cười.

“Cháu đang nhìn vào
những cái sọ bị khoan à?” ông già hỏi. “Những người này làm những việc mới kì
quặc làm sao.”

“Ừm,” cô bé không biểu
lộ gì.

“Cháu có biết, có những
người vẫn làm như vậy không?”

“Có,” cô bé trả lời.

“Hippi, cháu biết đấy,
những người như vậy. Dĩ nhiên là cháu còn quá nhỏ để biết tới người Hippi. Họ
nói rằng làm cách này còn hiệu quả hơn là dùng thuốc đấy.”

Lyra cất Chân - kế vào
ba lô của mình rồi tự hỏi làm cách nào mình có thể ra khỏi nơi này: cô vẫn chưa
hỏi nó câu hỏi chính, còn ông lão này đang bắt chuyện với mình. Ông ta có vẻ tốt,
và tất nhiên nụ cười của ông trông rất tử tế. Ông ta lại gần hơn. Tay ông ta
chạm nhẹ vào Lyra khi ông dựa lưng vào ngăn kính.

“Chúng làm cháu ngạc
nhiên phải không? Không thuốc gây mê, không sát trùng, chỉ bằng những dụng cụ
bằng đá. Chúng chắc hẳn rất cứng phải không? Ta không nghĩ là mình đã từng nhìn
thấy cháu ở đây. Ta đến đây rất thường xuyên. Tên cháu là gì?”

“Lizzie,” cô trả lời
rất thoải mái.

“Lizzie. Chào cháu, Lizzie. Ta là Charles. Ở Oxford, cháu có đi học
không?”

Cô không biết chắc phải trả lời như thế nào.

“Không,” Lyra nói.

“Cháu chỉ ghé thăm thôi à? Cháu đã chọn một nơi thật tuyệt vời để ghé
thăm đấy. Cháu đặc biệt quan tâm tới gì nào?”

Đã lâu rồiô chưa gặp ai khiến cô cảm thấy bối rối hơn là người đàn ông
này. Một đằng thì ông ta rất tử tế, thân thiện, ăn mặc rất sạch sẽ và sáng sủa,
nhưng đằng khác Pantalaimon ở trong túi cô lúc này đang tìm cách thu hút sự chú
ý của Lyra và xin cô hãy cẩn thận, bởi vì nó cũng gần nhớ ra một việc gì đó. Từ
một nơi nào đó, cô nhận thấy có mùi, mùi phân, mùi thối rửa. Cô nhớ lại tòa
cung điện của Raknison, không khí thấm đượm mùi nước hoa nhưng sàn nhà đầy rác
rưởi.

“Điều cháu quan tâm ư?” cô nói. “Ồ, tất cả mọi thứ. Khi cháu đi qua đây,
cháu thấy những cái sọ này và chúng làm cháu quan tâm tức thì. Cháu nghĩ là
không một ai muốn được như vậy. Thật kinh khủng.”

“Ừ, ta cũng chẳng thích tự làm mình như thế, nhưng ta cam đoan là nó vẫn
có đấy. Ta có thể dẫn cháu tới gặp người đã làm việc này,” trông ông ta thân
thiện và tốt bụng đến nỗi suýt nữa thì cô liều lĩnh. Nhưng khi thấy cái lưỡi
nhỏ lấm chấm đen liếm ướt át trông như là rắn cô bé liền lắc đầu.

“Cháu phải đi. Cảm ơn vì lời mời của ông nhưng tốt hơn hết là cháu không
nên đi. Dù sao đi nữa, cháu phải đi giờ đây vì cháu sắp gặp một người. Bạn
cháu,” cô bé nói thêm. “Người cháu đang ở cùng.”

“Được, tất nhiên rồi,” ông ta nói đầy tử tế. “Hà, nói chuyện với cháu
thật là thích. Tạm biệt Lizzie.”

“Tạm biệt,” cô bé chào.

“À, với lại, đây là tên và địa chỉ của ta,” ông ta đưa cho Lyra một tấm
danh thiếp. “Đề phòng trường hợp cháu đổi ý muốn biết nhiều hơn nữa về những
thứ như thế.”

“Cảm ơn ông ạ,” cô ồn tồn, rồi để tấm thiếp vào sau ba lô trước khi ra
khỏi bảo tàng. Lúc đi ra, cô cảm thấy mình như đang bị ông ta nhìn theo

Khi đã ra khỏi bảo tàng, cô liền quay lại công viên, nơi ô biết có một
cái sân giành cho môn cricket và những môn thể thao khác, rồi cô tìm một khoảng
yên tịnh dưới những tán cây và lại thử Chân - kế một lần nữa.

Lần này cô hỏi về nơi có thể tìm ra một Học giả biết về Bụi. Câu trả lời
nhận được thật đơn giản: nó chỉ về hướng căn phòng trong tòa nhà cao tầng phía
trước mặt. Thực ra, câu trả lời quá thẳng thắn và quá bất ngờ làm Lyra cho rằng
Chân - kế có nhiều điều muốn nói nữa: bây giờ cô bé nhận ra là nó có mang cảm
xúc, giống như con người, và cô biết rằng nó muốn nói nữa với cô.

Giờ thì nó nói thật. Những điều nó cho biết là: Hãy quan tâm hơn
tới cậu bé. Điều quan trọng là giúp cậu tìm ra bố. Nhớ lấy trong đầu điều này.

Cô bé chớp mắt. Cô thật sự hoảng hốt. Will đã hiện ra từ hư không để giúp
cô; chắc chắn hiển nhiên như vậy. Cái ý nghĩ mình đã đi cả quãng đường tới đây
chỉ để giúp cậu ta làm cô hết hơi.

Nhưng Chân - kế vẫn chưa nói xong. Cái kim lại tiếp tục xoay, và cô bé
đọc: Đừng nói dối Học giả.

Lyra bọc tấm vải nhung quanh Chân - kế rồi cất vào trong ba lô. Rồi cô
đứng dậy nhìn quanh để tìm cho ra tòa nhà mà học giả đó đang ở và đi về hướng
đó, trong lòng ngổn ngang bất an và ngờ vực.

***

Will dễ dàng tìm ra thư
viện. Người giữ thư viện đã được thuyết phục rằng cậu bé đang làm bài nghiên
cứu địa lý, cho nên đã giúp cậu tìm một đống phụ trương của tờ Times vào
năm cậu được sinh ra, cũng là năm mà bố cậu bị mất tích. Dĩ nhiên, có vài mục
về John Parry, c liên quan tới một cuộc thám hiểm khảo cổ học.

Cậu phát hiện có những
cuộn vi phim để riêng từng tháng. Will lần lượt đưa chúng vào máy chiếu để tìm
hiểu câu chuyện và đọc với sự tập trung cao độ. Câu chuyện đầu tiên kể về
chuyến đi của đoàn thám hiểm tới phía Bắc Alaska. Đoàn thám hiểm này được Viện
Khảo Cổ thuộc trường Đại học Oxford tài trợ. Đoàn thám hiểm sẽ khảo sát khu vực
mà họ mong rằng sẽ tìm thấy dấu tích của người cổ xưa sinh sống. Đi cùng đoàn
thám hiểm là ông John Parry, một sĩ quan Hoàng gia và là một nhà thám hiểm
chuyên nghiệp.

Câu chuyện thứ hai để
xếp vào sáu tháng sau. Nó chỉ nói ngắn gọn rằng đoàn thám hiểm đã tới Trạm Khảo
Sát Cực Bắc vùng Bắc Mỹ tại Noatak, Alaska.

Câu chuyện thứ ba tiếp
đó hai tháng. Người ta nói rằng không có tín hiệu trả lời từ Trạm Khảo Sát và
John Parry cùng đoàn thám hiểm được coi như là đã mất tích.

Có hàng loạt những tít
ngắn sau đó, miêu tả rằng những đội tìm kiếm đã vô vọng khi tìm kiếm họ, những
chuyến bay lùng kiếm qua biển Bering, phản ứng của Viện Khảo Cổ và phỏng vấn
người thân...

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3