Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 21

Chương hai mươi mốt

Tiến sĩ John Dee đi bộ vào phòng
đợi lớn dành cho khách đến trong phi trường London City. Hắn không ngạc nhiên
khi nhìn thấy một người đàn ông mặc bộ vét màu đen, áo sơ-mi trắng và đeo kính
đen, đang cầm một tấm bảng in chữ DEE gọn lỏn trên đó. Tay Pháp sư đã điện thoại
trước và cho văn phòng ở London của công ty Enoch Enterprises biết là hắn đang
đến.

“Tôi là John Dee,” hắn vừa nói, vừa
trao cho người đàn ông này cái túi du lịch nhỏ nhưng giữ lại cái túi đựng máy
tính xách tay.

“Vâng, thưa ông, tôi đã nhận ra
ông. Xin ông đi theo tôi.”

Dee nghĩ hắn có thể nghe một chút
âm hưởng miền Trung Đông trong giọng người đàn ông này; hắn gần như có thể khẳng
định đó là người Ai Cập. Hắn bước theo người đàn ông tới một chiếc limousine
màu đen không rõ xuất xứ đậu ngay bên ngoài cửa dành cho khách đến trong khu vực
cấm đậu xe. Người tài xế kéo mở cánh cửa sau và bước lùi lại, và trong tích tắc,
hai cánh mũi của Dee bắt được một mùi quen thuộc và ngay lập tức hắn nhận ra rằng
chiếc xe và anh tài xế này không do công ty của hắn phái đến. Chỉ trong một
giây, hắn nghĩ đến việc quay người lại và bỏ chạy... nhưng rồi hắn nhận thấy hắn
đâu có chỗ nào để đi nữa. “Cám ơn,” hắn vừa nói một cách lịch sự, vừa chuồi
mình vào khoảng tối tăm bên trong. Cánh cửa đóng lại và một tiếng cạch nhẹ
nhàng như được đẩy bằng hơi. Mùi hương bên trong khoang xe kín mít cô đặc đến mức
khiến hắn muốn ngạt thở. Hắn ngồi xuống khẽ khàng và nghe một tiếng thụi khi
người tài xế đặt chiếc va-li của hắn vào thùng để hành lý đằng sau xe; chốc lát
sau, chiếc xe lướt nhẹ và êm ru tách ra khỏi lề đường.

Tay Pháp sư đặt túi đựng máy tính
xách tay bên cạnh hắn, rồi quay sang nhìn vào hình dáng đang đội chiếc mũ trùm
hắn mà biết đang ngồi ở đầu kia của chiếc ghế bọc da. Một nụ cười gượng ép trên
mặt hắn, hắn cúi chào nhẹ. “Thưa bà, phải nói là tôi rất ngạc nhiên - và vui mừng,
tất nhiên - khi được gặp bà ở đây.”

Hình dáng ngồi trong bóng tối động
đậy và có tiếng quần áo kêu sột soạt. Rồi đèn bên trong lách cách bật lên, và
Dee, mặc dù đã được mùi hương báo trước cho biết hắn sắp sửa nhìn thấy gì, vậy
mà hắn vẫn nhìn chết trân vào cảnh tượng khủng khiếp của một cái đầu sư tử cái
to tướng đang dịch lần lần xa khỏi đầu hắn. Ánh sáng chiếu lên những chiếc răng
cửa trông có vẻ đanh ác và lấp lánh trên lớp lông dày. Elder Đen tối Basket ngẩng
đầu nhìn hắn bằng đôi mắt to có con ngươi như hai đường rạch màu vàng. “Tôi thật
sự bắt đầu thấy không ưa ông, Tiến sĩ John Dee ạ.” Bà ta càu nhàu.

Tay tiến sĩ cười sượng trân, rồi
hạ ánh mắt nhìn rời khỏi hàm răng sắc nhọn và phủi những hạt bụi vô hình ra khỏi
tay áo hắn. “Vậy là ba nằm trong đa số rồi; nhiều người không thích tôi lắm.
Nhưng công bằng mà nói,” hắn bồi thêm rất nhẹ nhàng, “tôi cũng không thích nhiều
người. Thật ra là hầu hết mọi người. Nhưng, tin tôi đi, thưa bà, đối với bà cơ
bản tôi không có gì ngoài một mối quan tâm sâu sắc nhất.”

Ánh đèn vụt tắt và Basket lại trở
nên tàng hình trong vùng tối.

Mọi ý nghĩ lóe lên trong Dee và hắn
hỏi, “Tôi tưởng ác cảm của bà đối với sắt sẽ ngăn cản không cho bà sử dụng
phương tiện hiện đại như chiếc xe hơi thế này chứ?”

“Sắt không độc đối với tôi, không
như một số các Elder khác. Tôi có thể dung hòa nó trong một thời gian ngắn. Và
phần nhiều trong chiếc xe hơi này là carbon mà.”

Dee gật gù, ghi nhớ thông tin là
sắt không độc đối với các Elder. Hắn luôn tưởng rằng chính vì sự ra đời của sắt
đã dồn các Elder ra khỏi thế giới này chứ.
Sau hơn bốn trăm năm phục vụ họ, hóa ra vẫn có rất nhiều điều hắn chưa biết về
họ.

Chiếc xe chạy chậm dần, rồi ngừng
hẳn. Xuyên qua cửa sổ phủ màu tối sẫm, Dee chỉ có thể nhận ra ánh đèn giao
thông màu đỏ đang chiếu sáng. Hắn chờ cho đến khi đèn đổi sang màu xanh rồi mới
tự cho phép mình nói chuyện trở lại. “Tôi có thể hỏi tôi đã làm gì cho bà giận
được không?” Hắn lẩm bẩm, có ý cố giữ được cho giọng nói không bị rung. Basket
là một Elder thuộc Thế hệ Thứ nhất và là một trong những nhà cai trị nguyên thủy
của Danu Talis. Sau sự nhấn chìm của hòn đảo, bà ta đã được tôn kính qua nhiều
thế hệ ở Ai Cập, cũng như các quốc gia và dân tộc suốt từ vùng Inca* đến Trung
Quốc đã thể hiện sự kính trọng đối với loài mèo để tưởng nhớ thời kỳ bà đã đồng
hành cùng thế giới loài người cổ đại.

* Thuộc vùng Nam Mỹ, có đế chế khổng lồ ở Peru và toàn bộ vùng Andes,
hưng thịnh từ thế kỷ 12 đến giữa thế kỷ 16. Dân tộc Inca là những kiến trúc sư,
kỹ sư, và nghệ sĩ tài hoa. Hậu duệ người Inca chiếm khoảng 50% người Pera hiện
nay.

Dee nghe tiếng sột soạt của những
trang giấy lật qua và hắn nhận ra rằng bà Elder này đang đọc gì đó trong một
khoảng tối hoàn toàn.

“Ông là hiện thân của những mối
phiền phức, Tiến sĩ Dee à. Tôi có thể ngửi thấy nó đang toát ra nơi ông như luồng
điện mùi lưu huỳnh lố bịch mà ông ưa thích hơn cả.” Có tiếng giấy bị xé vụn ra
chầm chậm và cẩn thận. “Tôi đã nghiên cứu kỹ hồ sơ của ông. Nó không khiến người
ta có chút cảm hứng nào để đọc. Có thể ông là tay chân đầu tiên của chúng tôi
trên thế giới này thật, nhưng tôi cho rằng rõ ràng là ông vô dụng. Ông đã thất
bại hết lần này đến lần khác trong nhiệm vụ được giao là phải bắt cho được nhà
Flamel và để lại một dấu tích toàn là những chết chóc và hủy diệt theo sát gót
chân ông. Ông được giao cho việc bảo vệ sự sống còn của các Elder, vậy mà mới
ba ngày trước đây ông đã phá hủy không chỉ một mà là đến ba Vương quốc Bóng tối
nối liền với nhau. Việc làm táo bạo gần đây nhất ở Paris suýt tí nữa - một cách
vô cùng nguy hiểm - đã để lộ ra sự hiện diện của chúng tôi với loài người. Thậm
chí ông còn cho phép Nidhogg hoành hành khắp đường phố Paris nữa chứ.”

“Vâng, đó thật ra là ý tưởng của
Machiavelli...,” tay Pháp sư vọt miệng.

“Nhiều Elder đã yêu cầu phải tiêu
diệt ông,” Bastet nói tiếp bằng một tiếng gầm gừ trầm đục.

Câu nói này đã làm Dee bàng hoàng
đến nỗi không nói được gì. “Nhưng tôi đã phục vụ các Elder Đen tối rất trung
thành mà. Tôi đã làm như thế suốt mấy thế kỷ nay,” hắn chống đỡ đầy ai oán.

“Phương pháp của ông thô bạo, lỗ
mãng quá, không hợp thời,” bà Elder đầu mèo nói tiếp. “Hãy em Machiavelli kìa:
ý sắc bén, gọn gàng và chính xác; còn ông đao to búa lớn, thô thiển và ngớ ngẩn.
Ông từng có lần gần như thiêu đốt chính thành phố này ra tro. Các sinh vật của
ông đã giết chết cả một triệu con người ở Ireland. Một trăm ba mươi ngàn người
chết ở Tokyo. Và dù cho nó gây ra những tổn thất này cho cuộc sống loài người,
ông vẫn thất bại không sao bắt giữ được nhà Flamel.”

“Tôi đã được bảo phải bắt nhà
Flamel và chiếm lấy cuốn Codex bằng mọi
phương tiện có thể có. Đó là ưu tiên số một kia mà, “Dee cáu kỉnh, cơn giận khiến
hắn thiếu thận trọng. “Tôi đã làm những gì tôi phải làm để đạt được mục đích
đó. Còn chuyện ba ngày trước, xin để tôi nhắc cho bà nhớ, tôi đã giao Cuốn sách
của Pháp sư Abraham rồi đó.”

“Nhưng ngay cả chuyện đó ông làm
cũng không xong đâu,” Bastet thầm thì rất lạnh lùng. “Cuốn Codex không hoàn chỉnh, thiếu mất hai trang cuối cùng.” Hơi thở của
bà Elder thay đổi và trong bóng tôi Dee chợt ý thức rằng hơi thở mùi thịt ôi của
bà ta đang gần sát vào mặt hắn rất nguy hiểm. “Pháp sư à, ông được hưởng sự bao
bọc bảo vệ của một Elder đầy quyền lực - có lẽ quyền lực nhất trong hết thảy
chúng tôi - và điều đó đã giữ cho ông còn được sống lâu đến thế này,” Bastet tiếp
tục nhấn mạnh. Đôi mắt vàng khè to tướng sáng lóe vọt ra từ bóng tối âm u, hai
con ngươi hẹp như hai lưỡi dao. “Khi những người khác đòi xử phạt ông hoặc là bắt
ông phải chết, thì chủ nhân của ông lại bảo vệ ông. Nhưng tôi tự hỏi - và tôi
không phải là người duy nhất trong số này - tại sao một Elder lại sử dụng một
công cụ đầy vết hỏng hóc như thế chứ?”

Những lời nói làm hắn ớn lạnh.
“Bà gọi tôi là gì?” Cuối cùng hắn cũng thì thào được. Miệng hắn khô queo và lưỡi
hắn như phát phình ra trong miệng.

Đôi mắt Bastet lóe sáng. “Một
công cụ đầy vết hỏng hóc.”

Dee cảm thấy nghẹt thở. Hắn cố gắng
làm dịu xuống trái tim đang giộng thình thịch của mình. Kể từ lần cuối cùng hắn
nghe phải bày từ đó đến nay đã hơn bốn trăm năm, nhưng chúng vẫn giữ nguyên cảm
giác đau đớn sâu sắc in hằn trong ký ức của hẳn. Hắn không bao giờ quên những
thứ đó. Về nhiều mặt những từ này đã định hình nên cuộc sống của hắn.

Quay mặt đi tránh hơi thở hôi thối
của Bastet, Dee tựa trán lên làn kính lạnh lẽo và nhìn vào màn đêm ngoài kia vụt
lóe lên khi đi ngang qua những vệt sáng. Hắn đang chạy xe qua trung tâm London vào thế kỷ hai mươi mốt, song khi hắn
nhắm mắt và nhớ lại lần gần đây nhất hắn đã cảm thấy giống hệt như thế này, lần
gần đây nhất hắn đã nghe phải đúng những từ này, hắn có cảm giác hắn đang quay
lại với thành phố của Vua Henry VIII.

Ký ức, bị chôn vùi đã lâu nhưng
không bao giờ quên được, bỗng ập ùa trở lại, và hắn biết việc bà Elder sử dụng
bảy từ đó chắc không phải do ngẫu nhiên. Bà ta chỉ muốn cho hắn biết bà ta đã
biết về hắn nhiều như thế nào thôi.

Vào ngày 23 tháng Tư năm 1542, một
ngày mưa rào lạnh lẽo ở London, John Dee đang đứng trước mặt cha mình là
Roland, trong ngôi nhà của họ ở Phố Thames. Dee mới mười lăm tuổi - và trông bề
ngoài cậu bé có vẻ lớn hơn độ tuổi đó - nhưng vào lúc ấy cậu bé lại cảm thấy
thích mình chỉ mười tuổi thôi. Cậu bé khóa chặt bàn tay mình thành hai nắm đấm
giấu sau lưng và cứng người không cử động được, sợ mình sẽ buột miệng nói ra,
nên cậu bé nín thở, trái tim nện thình thịch mạnh đến nỗi thật sự làm rung lắc
toàn thân cậu bé. Cậu bé biết nếu mình cử động, mình sẽ ngã nhào, hoặc quay người
bỏ chạy thoát khỏi căn phòng ấy như một đứa con nít, và nếu cậu bé nói ra một lời
nào thì cậu bé sẽ yếu lòng và bật khóc ngay. Nhưng cậu bé đã kiên quyết nhủ
lòng không được biểu lộ bất cứ sự yếu đuối nào trước mặt Roland Dee. Qua bên
vai phải của cha, xuyên qua ô cửa sổ kẻ ô hình thoi nhỏ xíu, John có thể nhìn
thấy đỉnh Tháp London gần đó. Đứng yên không nhúc nhích và im lặng, cậu bé để
cho cha mình tiếp tục đọc sách.

John Dee luôn biết mình rất khác
biệt.

Khi mới chỉ là một đứa trẻ, và rõ
ràng là từ những năm đầu đời cậu bé đã được ban tặng một khả năng đặc biệt về
toán học và ngôn ngữ; cậu bé có thể đọc và viết không chỉ tiếng Anh thôi, mà cả
tiếng La-tinh và Hy Lạp nữa, ngoài ra còn tự học tiếng Pháp và một chút tiếng Đức.
John hoàn toàn tận tụy với mẹ, Jane, và bà ta luôn về phe với cậu chống lại sự
độc đoán của người cha. Được mẹ khích lệ, John đã đặt ra viễn cảnh sẽ theo học
tại trường St. John’s College, Cambridge. Cậu bé đã nghĩ - đã hy vọng - rằng
cha sẽ vui mừng, nhưng Roland Dee là một nhà buôn vải dệt, giữ một vị trí nho
nhỏ trong triều Vưa Henry và hầu như rất sợ một nền giáo dục quá cao. Roland từng
trông thấy điều gì đã xảy đến cho những người có giáo dục trong triều: làm phật
ý nhà vua thật là một việc quá dễ dàng, và những ai làm như vậy thường có kết cục
trong nhà tù hoặc là chết, hoặc bị tước đoạt hết đất đai và tài sản. John biết
cha muốn mình thừa kế việc kinh doanh làm ăn của gia đình, và để làm điều đó cậu
bé không cần được giáo dục gì hơn là khả năng đọc, viết và cộng một cột số.

Nhưng John Dee lại muốn nhiều
hơn.

Vào một ngày tháng Tư năm 1542,
cuối cùng cậu bé đã lấy hết can đảm để thưa với cha là mình đang theo học trường
này, dù cha có cho phép hay không. Ông ngoại cậu bé William Wild, đã đồng ý chi
trả học phí, và Dee đã ghi danh học mà cha không hề hay biết.

“Vậy giả như con đi học tại ngôi
trường này, thì sao nữa?” Roland hỏi gằn, chòm râu rậm tua tủa dựng đứng vì cơn
thịnh nộ nổi lên đùng đùng. “Người ta sẽ nhồi nhét vào đầu con những điều vô
nghĩa chẳng ích lợi gì. Con sẽ học tiếng La-tinh và Hy Lạp, toán học và triết học,
lịch sử và địa lý, nhưng những thứ đó ích lợi gì cho cha, hay là chúng có ích
cho con, hả? Con sẽ không bao giờ hài lòng với việc đó. Con sẽ ngày càng tìm kiếm
nhiều kiến thức hơn, và điều đó sẽ đẩy con xuống những con đường tối tăm, con
trai ạ. Con sẽ không bao giờ thấy thỏa mãn, bởi vì con không bao giờ hiểu biết
đủ cả.”

“Xin cứ nói những gì cha muốn,”
thằng bé mười lăm tuổi ráng trả lời. “Con sẽ đi.”

“Vậy thì con sẽ như một con dao
được mài quá thường xuyên đến độ trở nên cùn nhụt: con sẽ trở thành một công cụ
đầy vết hỏng hóc... và ta có một công cụ đầy vết hỏng hóc thì phỏng có ích gì
kia chứ?”

Tiến sĩ John Dee mở choàng mắt ra
và tập trung trở lại vào đường phố của London hiện đại.

Hắn hiếm khi nói chuyện với cha từ
sau ngày đó, ngay cả khi ông già bị tống giam trong Tháp London. Dee đã đi đến
Chelmsford, và rồi đến một ngôi trường mới thành lập Trinity College, và nhanh
chóng thiết lập được uy tín cho bản thân mình như là một trong những người tài
hoa nhất vào thời của hắn. Và đã nhiều lần hắn nhớ lại những lời của cha và nhận
ra rằng Roland Dee đã nói rất đúng: sự tìm kiếm kiến thức của hắn không bao giờ
có thể thỏa mãn được, và điều đó đã dìm hắn xuống những con đường rất tối tăm
và rất nguy hiểm. Rốt cuộc cũng chính điều đó đã dẫn hắn đến với các Elder Đen
tối.

Và đâu đó tận sâu thẳm trong tâm
trí hắn, trong vùng tối tăm và bí mật nơi chỉ chôn vùi những ký ức từng làm hắn
tổn thương nhất, đã ẩn nấp bảy từ đầy cay đắng xót xa đó.

Một công cụ đầy vết hỏng hóc.

Không đếm xỉa gì đến những gì hắn
đã đạt được - những thành công vượt bậc, những khám phá làm mọi người kinh ngạc
và những lời tiên đoán chính xác đến kỳ lạ, thậm chí cả sự bất tử của hắn và sự
liên tưởng của hắn đến những hình tượng đã được tôn sùng qua nhiều thế hệ như
những vị thần và những câu chuyện thần thoại - bảy từ này vẫn nhạo báng hắn, bởi
vì một cách bí mật hắn e sợ rằng cha hắn cũng đã đúng khi thốt ra những lời ấy.
Biết đâu chừng hắn một công cụ đầy
vết hỏng hóc thật.

Đằng hắng một tiếng, hắn nhấc
trán ra khỏi làn kính cửa sổ, gắn lên mặt một nụ cười thách thức giễu cợt và
quay lại với bóng tối bên trong chiếc xe. “Tôi không biết là bà có hồ sơ về tôi
đấy.”

Tiếng lớp da bọc ghế kêu cót két
khi Bastet thay đổi tư thế. “Chúng tôi có hồ sơ về mọi người bất tử và người
không bất tử đang phục vụ chúng tôi. Hồ sơ của ông tình cờ lại là hồ sơ dày hơn
tất cả các cái khác kết hợp lại.”

“Tôi đang được tâng bốc chăng.”

“Không phải đâu. Đó là, như tôi
đã nói, một chuỗi những thất bại thôi.”

“Tôi thật thất vọng rằng bà lại
xem xét vấn đề theo cách đó,” Dee nói khẽ khàng. “Cũng còn may, tôi không có bổn
phận phải trả lời bà. Tôi chỉ phải trả lời cho một người có quyền hành cao
hơn,” hắn nói tiếp, với một nụ cười vẫn gắn chặt trên khuôn mặt.

Bastet rít lên như một con mèo bị
nắm đuôi.

“Nhưng những lời nhận xét hài hước
này thế là đủ rồi,” tay Pháp sư vừa nói tiếp, vừa xoa thật nhanh hai bàn tay
vào nhau. “Cái gì mang bà đến London thế? Tôi tưởng bà đã quay lại ngôi nhà rộng
lớn ở Bel Air sau chuyến phiêu lưu của chúng ta ở Mill Valley rồi chứ.”

“Sáng sớm hôm nay có một người từ
quá khứ xa xưa liên lạc với tôi.” Giọng bà Elder Đen tối trầm trầm rền rền đầy
giận dữ. “Một người tôi tưởng đã chết lâu lắm rồi, một người tôi không bao giờ
muốn nói chuyện một lần nào nữa.”

“Tôi không chắc là chuyện này có
liên quan tới tôi...,” tay Pháp sư buột miệng.

“Mars Ultor đã liên lạc với tôi
đó.”

Dee rướn thẳng người lên. Bởi
chưng đôi mắt hắn đã quen với bóng tối, nên hắn gần như có thể nhận ra được cái
đầu mèo của Bastet in bóng màu đen lên ô cửa hình chữ nhật hơi sáng hơn. “Mars
nói chuyện với bà à?”

“Lần đầu tiên trong hàng mấy thế
kỷ. Và ông ta nhờ tôi giúp đỡ ông.”

Dee gật đầu. Lúc nãy khi hắn rời
khu hầm mộ, Elder này vẫn chưa trả lời cho lời đề nghị của hắn là mang cặp song
sinh trở lại Paris và ép buộc Sophie tháo bỏ lời nguyền cho ông ta.

Tiếng quần áo sột soạt và mùi mèo
của Bà Nữ thần đột nhiên phà ra mạnh mẽ. “Chuyện đó có thật không?” Bà ta hỏi,
đủ gần để khiến Dee phải dội lại tránh hơi thở của bà ta.

Tay Pháp sư quay đi chỗ khác, nhấp
nháy cho nước mắt rơi ra khỏi mắt. “Cái...” Hắn ho khan mấy tiếng. “Cái gì thật
không?”

“Ông có thể thả ông ấy ra thật
không vậy? Bà Phù thủy đã nguyền rủa ông ta; đó là lời nguyền mà bà ấy sẽ không
tháo cởi đâu.”

Một trong những lý do khiến tay
Pháp sư người Anh sống sót trong triều đại chết người của Nữ hoàng Elizabeth và
sau suốt mấy thế kỷ nay là hắn không bao giờ đưa ra một lời hứa khi hắn không
thể giữ, hoặc một lời đe dọa khi hắn không có ý định thực hiện. Hắn mất một lúc
để cân nhắc cho câu trả lời của hắn, cẩn thận giữ cho khuôn mặt mình một vẻ
trung dung. Mặc dù đang ở trong bóng tối ở băng ghế sau của một chiếc xe, hắn
biết rằng không có gì khác với các Elder đầu mèo này. Bà ta có thể dễ dàng nhìn
thấy trong bóng tối kia mà. “Bà Phù thủy đã chuyển tất cả kiến thức và toàn bộ
sự hiểu biết của bà ta cũng như các truyền thuyết vào đứa con gái Sophie, con
bé mà bây giờ chúng ta đã biết là một đứa trong cặp song sinh huyền thoại. Thậm
chí đứa con gái này còn thừa nhận là mình biết cách làm thế nào để đảo lại câu
thần chú, nhưng khi Mars yêu cầu con bé - van nài con bé - hãy làm như vậy, con
bé đã từ chối. Tất cả những tôi phải làm là cho con bé một lý do đúng đắn để nó
không từ chối nữa khi chúng ta yêu cầu trong lần tới.” Đôi môi tàn ác của Dee vặn
thành một nụ cười. “Tôi có thể là người rất có khả năng thuyết phục đấy.”

Elder Đen tối làu bàu.

“Ông đừng làm ra vẻ vui thích về
chuyện ấy lắm thế. Tôi hẳn đã tưởng ông phải biết run sợ khi có một người như
Mars lại đầu quân vào hàng ngũ của ông chứ.”

Bà Elder phá ra cười, một thứ âm
thanh khó chịu. “Ông không biết chút gì về Mars Ultor, kẻ Báo thù, phải không?”

Tay Pháp sư suy nghĩ một lúc rồi
mới trả lời. “Tôi biết một số trong những câu chuyện thần thoại này,” hắn thú
nhận.

“Có lần ông ta là một anh hùng; rồi
ông ta lại trở thành một con quỷ dữ,” Bastet nói chậm rãi. “Một sức mạnh từ bản
chất, không thể chế ngự được, không thể đoán trước được và có khả năng gây chết
người đến mức không thể tin nổi.”

“Có vẻ như bà không thích ông ta lắm
nhỉ.”

“Thích ông ta?” Bastet lặp lại.
“Tôi yêu mến ông ấy. Và chính xác bởi vì yêu ông ấy mà tôi không muốn ông ấy sống
bên ngoài thế này một lần nữa.”

Lúng túng, Dee lắc đầu. “Tôi cứ
tưởng chúng ta cần Mars trong cuộc chiến sắp tới chứ.”

“Cơn thịnh nộ của ông ta có nguy
cơ tàn phá thế giới này và mọi Vương quốc Bóng tối tiếp giáp... và rồi hoặc một
anh hùng nào đó thuộc giống người hoặc chiến binh Elder nào đó sẽ buộc lòng phải
tiêu diệt ông ta hoàn toàn. Ít ra thì khi ông ta ở trong khu hầm mộ, tôi cũng
biết được là ông ta đangở đó và tôi biết là ông ta đang an toàn.”

Dee cố mặc cho những gì hắn nghe
được một ý nghĩa nào đó. “Làm sao bà có thể tuyên bố là yêu ông ta mà lại muốn
ông ta bị kết án tử hình trong lúc đang sống sờ sờ như vậy được?”

Dee cảm thấy, chứ không phải nghe
được, tiếng sột soạt của mấy cái móng tay khi chugs vung lên thành hình vòng
cung xuyên qua không khí trước mặt hắn. Chỗ ngồi bọc da thình lình xẹp xuống và
kêu xì xì vì bị châm thủng. Khi nói, giọng của bà Elder rung rung đầy cảm xúc.
“Các quốc gia loài người đã gọi Mars bằng nhiều tên suốt mọi thời đại. Riêng
tôi, tôi gọi ông ta là Horus*... và ông ta là cậu em bé bỏng của tôi.”

* Thần mặt trời Horus, theo thần thoại Ai Cập.

Kinh ngạc đến sững sờ, Dee ngồi
trở lại vào chỗ của mình. “Nhưng vậy thì tại sao Bà Phù thủy lại nguyền rủa ông
ta?” Hắn hỏi. “Bà đang có ý nói rằng lời nguyền này thật ra là đang bảo vệ ông
ta kia mà.”

“Bởi vì thậm chí bà yêu ông ta
còn hơn cả tôi yêu nữa. Bà Phù thủy Endor là vợ ông ấy.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3