Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 22 - 23
Chương hai mươi hai
Vetala.
Nữ Phù thủy nhảy lùi khỏi sinh vật
vừa phòng mình xuyên qua tấm mạng và đang nhào tới bà. Rõ ràng nó đang ngủ
trong xà-lim bên kia. Bà bắt được thoắt chuyển động trong một tích tắc cuối
cùng trước khi nó hiện hẳn ra, nhưng bà không nhanh đủ để kịp thoát khỏi những
móng vuốt đang vụt lia lịa. Một cái móng tay gồ ghề lởm chởm đã lạng một nhát
trên da thịt bà, và cả cánh tay bà đau nhói như bị bỏng. Bà biết bà cần phải ra
trở lại ngoài ánh sáng trời càng nhanh càng tối và rửa sách vết thương.
Perenelle rùng mình khi nghĩ đến những thứ cáu bẩn ghê tởm dính dưới móng tay của
con vetala.
Phía sau con ma cà rồng ấy, tấm mạng
nhện treo lủng lẳng những mảnh rách tơi tả. Những tia lửa màu xanh lá nhỏ li ti
nhảy múa từ bên này qua bên kia tấm mạng, và bà tự hỏi không biết cái gì đã
đánh thức sinh vật này. Mỗi mảng mạng nhện vẫn cho thấy một chút hình ảnh của Nicholas,
Josh và Shakespeare.
Và rồi thêm một sinh vật thứ hai
lại nhảy qua những sợi tơ nhện lòng thòng.
Perenelle nhận thấy hai sinh vật
này giống nhau đến mức có thể ngỡ là một cặp sinh đôi. Khuôn mặt chúng xinh đẹp,
mang những đường nét sắc sảo của người Ấn Độ, làn da tuyệt mỹ và đôi mắt to
trong trẻo màu nâu. Bà biết rằng chúng thường phủ đôi cánh dơi đen ngòm quấn
quanh người chúng, để che giấu thân hình tiêu tụy với làn da xám xịt và bàn tay
bàn chân đầy móng vuốt mãi đến giây phút cuối cùng trước khi chúng tấn công.
Lùi xuống dãy hành lang,
Perenelle bước từ từ xa khỏi bọn vetala, cố gắng hết sức để nhớ lại những gì bà
đã hiểu biết về chúng. Bọn chúng nguyên sơ và giống như loài dã thú, những sinh
vật của bóng đêm và vùng tối tăm u ám, và cũng như nhiều dòng giống ma cà rồng
sống về đêm, chúng nhạy cảm với ánh sáng và không thể chịu được ánh nắng mặt trời.
Cần phải đến được mấy bậc thang đằng
sau bà... nhưng bà không dám quay lưng lại mà chạy.
De Ayala xuất hiện đằng sau hai
sinh vật kia. Bóng ma ấy giơ cả hai tay lên và bay dập dờn xuyên qua hai sinh vật.
Ông ấy kêu rền rĩ, một tiếng hú kinh khiếp kéo dài đầy tuyệt vọng và cô độc
vang lên dội vào những phiến đã ẩm ướt rồi vọng trở lại. Bọn vetala chẳng xem hồn
ma ấy ra gì. Những con mắt to tướng long lanh của chúng cứ tập trung không chớp
vào Nữ Phù thủy, hai cái miệng hơi hé ra để lộ hàm răng trắng tinh hoàn hảo, cằm
chúng ướt mèm toàn là nước bọt. De Ayala chớp nháy biến mất và rồi những cánh cửa
bên trên giộng ầm ầm và kêu lạch cà lạch cạch rất mạnh tung bụi đất rớt xuống
phủ đầy đầu chúng. Bọn vetala thậm chí còn không thèm phản ứng. Chúng cứ đơn giản
nhích từng chút một tiến thẳng ra phía trước.
“Thưa Quý bà, tôi không thể giúp bà được rồi,” de Ayala hiện ra sát
bên cạnh Nữ Phù thủy, thốt lên với vẻ thất vọng. “Dường như thể chúng biết tôi chỉ là một hồn ma và hoàn toàn không có
khả năng làm hại chúng vậy.”
“Trông chúng có vẻ đói đấy,”
Perenelle lầm bầm, “và chúng biết là chúng không thể ăn thịt được ông thôi.” Bà
im bặt, chợt để ý thấy những miếng tơ nhện đằng sau hai con ma cà rồng bắt đầu
ánh lên một màu xanh lá dìu dịu mờ mờ. Bà bắt được thoáng hiện rời rạc của chồng
bà bàng bạc trong luồng điện của ông.
“Perenelle.”
Giọng Nicholas chỉ là tiếng thì
thào mỏng nhẹ như những sợi tơ nhuyễn chất. Có hình ảnh gì lung linh chuyển động
sát bên ông, và rồi luồng điện của ông sáng lóe bừng sáng đủ để tỏa ra một màu
xanh mờ mờ đùng đục chiếu xuyên những mảnh tơ nhện qua đến tận dãy hành lang trên
Alcatraz.
Nữ Phù thủy biết hơn cả chục câu
thần chú có thể đánh bại bọn ma cà rồng, nhưng sử dụng chúng là đồng nghĩa với
việc kích hoạt luồng điện của bà... và điều đó cũng có nghĩa là mang con nhân
sư lại đây. Bà cứ tiếp tục bước giật lùi; một khi bà tới được cầu thang, bà sẽ
quay ngoắt người chạy đi và hy vọng thoát ra được đến cánh cửa trước khi bọn
chúng đánh gục bà. Bà nghĩ mình có thể làm được. Đây là những sinh vật của rừng,
những móng vuốt của chúng được thiết kế phù hợp với nền đất mềm và vỏ cây, lúc
nãy bà đã nhìn thấy những móng tay móng chân của chúng trượt trên nền đá như thế
nào rồi. Mấy cái cánh xếp lại của chúng cũng bất tiện và cồng kềnh vướng víu.
Perenelle bước lui thêm một bước nữa, di chuyển về phía ô cửa hình chữ nhật đầy
ánh sáng ngay phía sau bà. Bây giờ bà có thể cảm thấy hơi nóng ấm của mặt trời rọi lên lưng, bà biết bà đã gần
mấy bậc thang kia lắm rồi.
Và rồi, bên trong những mảng tơ
nhện đang đu đưa kia, bà trông tháy Sophie và Josh, hai đứa đang đứng hai bên
chồng bà. Tất cả đang nhìn chăm chăm và bà với vẻ rất chú tâm, chân mày cau gắt
lại. Luồng điện của Nicholas chiếu ra màu ngọc lục bảo bừng sáng. Bên tay phải
ông, Sophie trổ ra chùm ánh sáng màu bạc, và Josh, bên tay trái, nở bung một
màu vàng ánh kim. Tấm mạng nhện tỏa sáng như một chiếc đèn lồng và toàn bộ dãy
hành lang như được thắp sáng bừng.
“Perenelle.”
Hai con vetala quay người lại,
rít ré lên như bầy mèo phản ứng trước âm thanh và ánh sáng ập đến bất thình
lình, và Perenelle nhìn thấy chồng đang với tay đến mình, những ngón tay xòe
căng ra. Những phân tử ánh sáng nhảy múa ở mút đầu ngón tay ông... và trong
tích tắc, bà biết ông sẽ làm gì.
“Nicholas! Ngừng lại! Ngừng lại
ngay!” Bà kêu thét lên.
Xoay tròn ra khỏi tấm mạng rách
bươm là những hình trôn ốc quấn cuộn lại và những vòng tròn xoắn vặn thoát ra từ
chùm năng lượng nổ lốp bốp màu bạc, màu xanh lá, và màu vàng ánh kim. Kêu lên
rin rít và phun ra phì phì, tất cả nảy bật khỏi mấy bức tường và khoảng trần rồi
tụ tập lại quanh bàn chân Perenelle, tạo thành một vũng ánh sáng đang dần dần
chìm lún vào mặt đá. Nữ Phù thủy thở một cách khó nhọc khi một luồng sóng năng
lượng ấm áp chảy ngược lên cẳng chân bà, xuyên qua vùng ngực bà và bất ngờ xuất
hiện trong đầu bà. Những hình ảnh nhảy múa tận trong góc xó xỉnh của tâm trí
bà; những ý tưởng và ký ức không phải của bà.
Tháp Eiffle rực sáng chói lọi những ngọn đèn...
Nidhogg hoành hành trên khắp đường phố...
Các Valkyrie trong bộ giáp trắng tinh...
Những người phụ nữ giống hệt nhau bị giam hãm trong khối băng đá...
Bọn gargoyle lao tuột xuống khỏi Notre Dame...
Loài Genii Cucullati gớm ghiếc tiến lên phía trước...
Phản xạ tự nhiên, luồng điện của
bà tỏa sáng lung linh hiện rõ bao quanh lấy bà, màu trắng như nước đá và băng
hà, đồng thời tóc bà căng thẳng ra tạo thành một lớp vỏ bọc màu tối sẫm phía
sau lưng.
“Nicholas,” Perenelle hét lên khi
tấm mạng đen sạm lại thành bụi đất và luồng điện của bà nhạt dần cho đến khi
tan hết ra. “Mình giết tôi mất!”
Và rồi, tiếng kêu ré đắc thắng của
con nhân sư hú vang lanh lảnh xuyên thủng từng phiến đá của Alcatraz.
Thậm chí ngay cả bọn vetala cũng
phải quay người bỏ chạy tìm nơi lẩn trốn.
Chương hai mươi ba
Bằng một cú vỗ cánh kinh khiếp,
con nhân sư đã hiện ra nơi cuối dãy hành lang, móng vuốt sư tử to tướng đập
chan chát dọc theo sàn đá. Thu mình thật thấp, bụng sát đất, snh vật ấy dang rộng
đôi cánh diều hâu và kêu thét đầy vẻ đắc thắng bằng một thứ ngôn ngữ đã có từ
trước thời pharaoh thứ nhất của người Ai Cập. “Bà là của tôi, Nữ Phù thủy ạ.
Tôi sẽ chén sạch ký ức của bà, rồi nhai đến tận xương bà.” Cái đầu con nhân sư
mang hình hài của một người phụ nữ xinh đẹp, nhưng đôi mắt mụ ta có đôi đông tử
hẹp như hai đường rạch dọc, còn cái lưỡi huơ huơ trong không khí thì dài nhằng,
đen thui và chẽ nhánh. Khép hờ đôi mắt, mụ ta thụt đầu vào hít một hơi thở sâu
và rùng mình. “Nhưng cái gì thế này... cái gì thế này?” Cái lưỡi mụ ta lao vụt
ra, nêm nếm không khí. Mụ ta bước một hai bước xuống hành lang, móng vuốt gõ
lách cách trên mặt đá. “Cái này có thể là cái gì được nhỉ? Bà mạnh mẽ... quả thực
là mạnh mẽ... quá sức mạnh mẽ.” Và rồi mụ ta dừng phắt lại, bộ mặt tuyệt hảo
không chút tì vết nhăn nhúm thành một vẻ cau có xấu xa. “Và sung sức.” Giọng mụ
ta chùng xuống. “Mọi lần bà đâu có sung sức tới vậy.”
Perenelle dợm quay bước lao vút
lên cầu thang, nhưng rồi đột nhiên và đứng sựng và xoay người trở lại đối mặt với
con nhân sư. Khóe mắt bà nhíu lại cùng với một nụ cười rất nhẹ uốn cong đôi môi
bà, khiến khuôn mặt bà trông thật hung ác. Đưa tay lên ngang mặt để có thể nhìn
gần hơn, bà ngạc nhiên khi trông thấy có một chiếc găng tay trong như một lớp
kính bao bọc từng ngón tay xuống tới lòng bàn tay. Lớp kính này biến từ trạng
thái trong suốt sang mờ mờ rồi đến đục hẳn. “Sao, tất nhiên tôi là như thế mà,”
bà thì thào. Và rồi bà phá ra cười thật lớn, âm thanh kích động kinh khủng vang
dội vào những bức tường. “Cám ơn mình, Nicholas; cám hơn hai đứa nhé, Sophie và
Josh!” Bà hét toáng lên.
Nụ cười của người phụ nữ làm con
nhân sư hoảng sợ, nhưng tiếng cười của bà mới thật sự khiến cho mụ ta khiếp đảm.
Sinh vật đó ngập ngừng bước tới, rồi lại thu chân về. Mặc cho vẻ ngoài đáng sợ
và nổi tiếng là thường làm người ta thất kinh, nhưng con nhân sư lại là con vật
nhút nhát, và chính sự sợ hãi cùng với tính nhát gan đã giúp mụ có thể sống sót
suốt nhiều thiên niên kỷ.
Nữ Phù thủy đối diện với sinh vật
ấy và áp hai bàn tay vào nhau, ngón cái đè lên ngón cái, các ngón tay chạm
nhau. Đột nhiên, luồng điện của bà lóe lên ánh sáng trắng tinh, phủ trắng xóa
toàn bộ dãy hành lang và rồi nổ lốp bốp xung quanh bà thành một hình bầu dục bảo
vệ gồm những tinh thể phản chiếu như gương soi. Mọi lớp gạch bể, mọi đường ống
gỉ sét, từng khoảnh trần rêu mốc vấy bẩn, những tấm mạng nhện rách tả tơi và những
rào chắn cửa xà-lim bằng kim loại nát bở hiện rõ ra từng chi tiết tinh tế. Những
vùng tối có góc cạnh dà thượt vươn dài xuống hành lang đến tận con nhân sư, mặc
dù bản thân Perenelle không hề có bóng.
Người phụ nữ vung mạnh bàn tay phải
ra. Một quả cầu ánh sáng trắng tinh trông gần giống như một trái banh bằng tuyết
vọt khỏi lòng bàn tay bà và nảy bật lên một lần, hai lần trên nền nhà, rồi lại
nảy lên trở lại và lăn tròn cho tới khi dừng hẳn ngay giữa những móng vuốt bẩn
thỉu của con nhân sư.
“Vậy tôi phải làm gì với cái thứ
này đây?” Sinh vật ấy càu nhàu. “Đớp vào miệng rồi mang nó lại cho bà chắc?”
Nụ cười của Perenelle thật đáng sợ
khi tóc bà dựng đứng lên như một đám mây đen giăng ngay phía sau bà.
Khối cầu kia bắt đầu lớn ra. Xoay
tròn, xoắn vặn, lật qua lật lại, nổ lốp bốp văng ra những tinh thể nước đá đọng
lại thành từng lớp trên người mụ ta. Nhiệt độ không khí đột ngột rơi tụt xuống
và hơi thở con nhân sư biến thành những làn khói trắng phà vào không trung.
Con nhân sư là sinh vật của sa mạc.
Cả cuộc đời dài dằng dặc của mụ, mụ chỉ biết sức nóng khô khan và ánh mặt trời
nung đốt. Chắc chắn rồi, trong mấy tuần lễ nay kể từ khi mụ được giao nhiệm vụ
cnah giữ Alcatraz, mụ đã dần quen với sự lạnh giá nơi hòn đảo nhà tù này, sự ẩm
thấp đến nhức nhối của những dải sương mù cuộn tròn của vùng vịnh, sự ngứa ngáy
của mưa, sự rét buốt của gió. Nhưng mụ ta chưa trải nghiệm mức độ lạnh thế này
bao giờ. Đây là một cơn giá lạnh quá độ đến nỗi cảm giác như bị nung bị đốt. Vô
số những tinh thể nhỏ xíu phun ra khỏi khối cầu ngời sáng và đậu xuống trên da
thịt mụ như than hồng bừng cháy. Một bông hoa tuyết lớn không hơn một hạt bụi đậu
trên lưỡi mụ: cái lưỡi như thể mút phải một hòn than nóng. Còn trái banh vẫn cứ
lớn dần lên.
Perenelle dấn tới một bước sát
vào mụ ta. “Tôi nên cám ơn bà mới phải.”
Con nhân sư lùi bước.
“Nếu tôi quay người bỏ chạy, chắc
hẳn bà sẽ đuổi theo tôi đến cùng. Nhưng vì bà nhắc cho tôi nhớ rằng tôi đã mạnh
mẽ hơn trước, nên tôi liền nhận ra món quà mà chồng tôi và hai đứa nhỏ sinh đôi
đã tặng cho tôi.”
Con nhân sư kêu rít lên như một
con mèo hoang khi lớp không khí băng giá châm chích và đốt lói nhói trên gương
mặt người của mụ. “Năng lượng của bà sẽ không kéo dài được nữa đâu. Tôi sẽ uống
cạn chúng.”
“Cứ thử đi,” Perenelle nói khẽ
khàng, gần như êm dịu. “Nhưng để làm được điều đó bà cần phải tập trung và dồn
mọi chú ý vào tôi đây. Và về phần tôi, tôi luôn thấy rằng thật khó tập trung
khi trời lạnh quá đấy.” Bà lại mỉm cười.
“Luồng điện của bà sẽ yếu đi chứ.”
Hàm răng sắc nhọn như kim của con nhân sư bắt đầu gõ lập cập. Những lọn nước đá
mỏng mảnh đã hình thành trên tường.
“Thật vậy. Tôi có một chút, có lẽ
không lâu đến thế đâu, sau đó thì luồng điện của tôi mới mờ nhạt trở lại thành
trạng thái bình thường. Nhưng tôi sẽ có đủ thời gian mà.”
“Đủ thời gian?” Sinh vật rùng
mình. Sương giá giờ đã bao phủ lên ngực và chân con nhân sư; đôi gò má tai tái
của bà ta đỏ bừng, còn môi thì xanh lè.
“Đủ thời gian để làm việc này!”
Trái banh tuyết bây giờ đã có
kích thước của một trái bí đỏ lớn. Con nhân sư bất ngờ ra đòn tấn công, một bàn
chân sư tử khổng lồ tát ngang các tinh thể bị đông cứng như đá. Khi mụ ta giật
mạnh rút chân về, da và móng đã bị cơn giá lạnh gay gắt đốt cháy đến đen thui.
“Một pháp sư trên Quần đảo vùng
Aleut đã dạy cho tôi câu thần chú thú vị này,” Perenelle vừa nói, vừa tiến đến
gần con nhân sư hơn. Bất thình lình sinh vật này cố quay người bỏ đi, nhưng sàn
nhà trơn trợt đầy những viên nước đá kêu lên răng rắc và bàn chân mụ trượt dài
ra phía trước, đẩy mụ ta đổ ầm xuống đất. “Người Aleut là bậc thầy của ma thuật
về tuyết và nước đá. Có nhiều loại tuyết khác nhau lắm,” Nữ Phù thủy nói. “Loại
mềm...”
Những hoa tuyết mềm như lông vũ
cuộn ra khỏi trái banh đang xoay tròn và xôn xao quanh con nhân sư, kêu xì xì
trên làn da mụ, hễ cứ chạm đến đâu thì lại nung đốt và tan chảy đến đó.
“Loại cứng...”
Những miếng nước đá sắc nhọn như
những mảnh đá nhảy múa ra từ trái banh, châm chích vào bộ mặt người của con
nhân sư.
“Và rồi đến những trận bão tuyết.”
Trái banh nổ tung.Tuyết dày bắn
liên tục lên sinh vật ấy, phủ lên ngực và mặt mụ ta. Mụ ho khùng khục khi các
tinh thể đông đặc xoáy vào miệng mình. Bàn chân cào bới quờ quạng cố rút khỏi
đó, nhưng toàn bộ gian sảnh bây giờ là một tấm nước đá. Con nhân sư vươn đôi
cánh lên, nhưng chúng trĩu nặng rũ xuống phía dưới vì bị phủ một lớp sương giá
dày cộp và chỉ vừa đủ để có thể nhúc nhích được thôi.
“Và đương nhiên rồi, phải có mưa
đá...”
Từng mảnh, từng viên nước đã cỡ bằng
hạt đậu nã không ngừng vào sinh vật cổ xưa kia. Những viên tuyết và những hòn
mưa đá nẩy bật ra khỏi trái banh đang xoay tròn, đâm thủng thành những lỗ nhỏ lỗ
chỗ trên đôi cánh của mụ.
Hú lên thảm thiết, con nhân sư
quay người bỏ trốn.
Một cơn bão nước đá bám đuổi theo
mụ ta, nước đá nảy bật và bay vèo trên mặt sàn, vỡ tan văng lên đụng tới trần
nhà, kêu lanh canh khi văng vào mấy cánh cửa xà-lim bằng kim loại. Lớp nước đá
này dày cả hai ba phân rải dọc theo chiều dài của dãy hành lang, những rào chắn
kim loại bị nát bở dưới cái giá lạnh khắc nghiệt, gạch bể nát thành bụi và toàn
bộ khoảnh trần đổ sập xuống dưới sức nặng của lớp nước đá dày cộp.
Con nhân sư gần như đã đến được
cuối dãy hành lang thì tất cả đổ ập xuống quanh người mụ, chôn vùi mụ ta dưới
hàng tấn đá và kim loại. Và rồi nước đá nứt nẻ kêu răng rắc và bật tanh tách
bao trùm trên hết thảy, hàn kín đống gạch vụn bên dưới lớp băng vĩnh cửu cứng
như sắt dày đến gần nửa mét.
Perenelle lảo đảo khi luồng điện
của bà nhấp nháy tan biến mất.
“Hoan hô, thưa Quý bà,” hồn ma Juan Manuel de Ayala vừa lẩm bẩm, bừa
hiện ra khỏi vùng u tối.
Nữ Phù thủy dựa vào tường, thở hổn
hển rất khó nhọc. Người bà run rẩy vì đã gắng quá sức, và nỗ lực ấy đã để lại
cho bà những khớp xương đau nhức và cơ bắp cứng đờ.
“Bà đã giết chết mụ ta mất rồi hả?”
“Hầu như chưa đâu,” Perenelle mệt
mỏi nói. “Làm mụ ta chậm lại, chọc tức mụ, làm mụ sợ hãi. Tôi e rằng cần phải mất
nhiều hơn thế mới giết chết được một con nhân sư.” Bà quay người và chầm chậm
trèo lên cầu thang, người dựa hẳn vào tường.
“Tuyết và nước đá thật ấn tượng,” de Ayala nói, trồi người lên cầu
thang trở lại để ông ta có thể chiêm ngưỡng cái nút chặn cứng ngắc bằng băng hà
đang nằm ở mút dãy hành lang.
“Tôi định thử làm một thứ khác,
nhưng không biết vì lý do nào đó, tôi lại có một hình ảnh hai người nữ chiến
binh bị giam trong nước đá; họ trông giống như những Valkyrie ấy...”
“Một ký ức hay sao?” de Ayala gợi ý.
“Không phải ký ức của tôi,”
Perenelle thầm thì, rồi thở một hơi dài sảng khoái khi bà bước ra được dưới ánh
mặt trời rực rỡ buổi sáng. Với một chút luồng điện còn sót lại cuối cùng, bà
kéo lê những ngón tay từ bên này qua bê kia các vết thương, rửa sạch chúng. Rồi,
nhắm mắt lại, bà nghiêng mặt về phía ánh sáng. “Tôi nghĩ đó là ký ức của
Sophie,” bà nói đầy vẻ kinh ngạc. Rồi bà im bặt, một ý nghĩ ập đến bất chợt khiến
bà lạnh buốt. “Các Valkyrie và Nidhogg lại xuất hiện ngoài thế giới ư,” bà ngạc
nhiên nói. Theo bản năng, Nữ Phù thủy quay người về hướng đông và mở choàng mắt.
Chuyện gì đang xảy ra cho Nicholas và bọn trẻ? Họ đã gặp phải bao nhiêu rắc rối
rồi?