Cây Dâu Tằm - Chương 07 phần 1
Chương 7
Sáng hôm sau, mãi đến gần
tám giờ Bailey mới
thức giấc, vì tối hôm trước, ba
giờ sáng nàng mới lên giường ngủ. Sau khi Matt ra về, ngôi nhà xấu xí
này bỗng trở thành trống vắng vô cùng với tất cả những gì của cuộc sống mà nàng
không còn có nữa. Nàng đã lên giường, nhưng cứ nằm trăn trở trong hơn tiếng
đồng hồ. Sau cùng nàng đã ngồi dậy, mặc chiếc quần vải thô và chiếc áo thun
ngắn tay vào, bước xuống bếp kiếm chút gì nóng để uống.
Trong một lúc nàng ngồi ở
bàn ăn trong phòng khách nhìn bức tường che khuất lò sưởi. Chỉ khi nghe tiếng
động bên ngoài và nhìn ra cửa trước, ước mong Jimmie chợt xuất hiện bước vào phòng,
nàng mới biết là mình phải làm một công việc nào đó nếu không sẽ phải nằm khóc
suốt đêm.
Trong nhà bếp, chiếc tủ
lạnh chất đầy những hũ mứt cần được hâm nóng lại trước khi cho vào những vại
lớn, và trên nền nhà là những thùng trái dâu tây mua từ những quán bên đường.
Trong tủ lạnh chất nhiều gói mận, một hộp lớn quả mâm xôi, một xô lớn những
trái anh đào, và nhiều rau quả.
- Khóc hay làm việc! -
Nàng nói lớn, rồi mang đôi giày thể thao vào, buộc chiếc khăn làm bếp trước
bụng. Sau khi đặt thùng nho tây lên bàn, và tìm dụng cụ làm nắp trong thùng
đựng vật dụng làm hồ hộp, nàng bắt tay vào việc. Phillip đã gởi một người thợ đến gắn đường dây cáp,
nàng bật máy truyền hình xem chương trình HGTV trong khi làm việc.
Giờ đây nàng ngáp dài
bước xuống giường và mặc áo quần đi vào bếp, đến tủ để thức ăn nhìn hàng dãy
những hũ gồm rượu trái mâm xôi, rượu sê ri, mứt nho tươi, xốt cà chua xanh, cà
rốt ngâm giấm, mứt
mận và mận muối. Trên bệ cửa sổ là chiếc hộp thiếc đựng công thức nấu nướng mà
trước đó nàng đã vô cùng hồi hộp khi tìm thấy. Rất tiếc là nó chỉ có một vài
công thức cơ bản về chiên thịt miếng và bít tết gà quay.
Nhìn những dãy hũ các món
mà nàng đã làm tận đến ba
giờ sáng, giờ đây nàng chẳng biết bước kế tiếp của mình là làm gì.
- James Manville, tiên sư
anh! - Nàng nói lớn. - Tại sao anh lại để em như thế này? Làm thế nào em tự lực
mưu sinh được trong khi em chẳng biết gì mọi thứ.
Trong một lúc, cơn giận
xâm chiếm toàn thân nàng, nhưng kế đó nàng lại thấy mình sắp bật khóc. Nàng dựa
trán vào kệ. Ôi, nàng nhớ Jimmie vô cùng, nhớ tiếng cười, giọng nói, nhớ những
buổi trò chuyện, lắng tai nghe nàng nói, cùng nhau giải quyết những vấn đề của
nhau, và nàng nhớ đến những lần ân ái cùng chàng. Trước đây nàng vẫn thức dậy
trong những ngôi nhà đầy tiếng cười chung quanh. Nhưng giờ đây nàng chỉ còn một
mình cô đơn, không ai để chuyện trò, không ai để tham khảo ý kiến, và không còn
những cuộc ân ái say sưa. Một phần con người nàng muốn choàng tấm áo đen vào và
sống như hoàng hậu Victoria, suốt đời còn lại để tang cho chồng. Nhưng phần
khác của con người nàng lại muốn cười đùa, vui vẻ, thậm chí còn có thể lăn lộn
trên giường với một người đàn ông.
Nàng chầm chậm rời tủ
đựng thực phẩm, và vài phút sau đã ngồi trên cái bậc thềm cửa sau ăn một bát
Cheerios, trầm ngâm suy nghĩ. Mình làm gì đây hôm nay? Nàng tự hỏi - Làm thêm
mứt trái cây. Làm thêm xốt? Nhưng làm sao bán?
Có lẽ nàng dành ngày hôm
nay để tìm cho ra điều mà Jimmie muốn nàng tìm. Trong những tuần lễ kể từ khi
lần đầu tiên đọc mảnh giấy chàng để lại, càng đọc nó nàng càng thấy bực mình
“Hãy tìm ra sự thật về chuyện gì đã xảy ra nhé Frecks? Hãy làm chuyện này cho
anh.”
Sự thật về cái gì? Nàng
tự hỏi. Chàng không thể cho nàng một chỉ dẫn để bắt đầu ở đâu sao? Mọi người ở
Calburn đều gọi nông trại chàng để lại cho nàng là nông trại Hanley cũ kĩ. Cái tên này có liên hệ
gì đến cái tên Manville của Jimmie không? Dĩ nhiên rất có thể Jimmie đã nói dối
về họ của mình. Dường như chàng đã nói dối mọi thứ có liên quan đến thời thơ ấu
của chàng, vậy thì cái họ chàng cũng có thể bịa ra.
Nhưng khi nhìn lên cây
dâu tằm cổ thụ, mắt nàng chợt mở lớn. Có một thứ mà Jimmie chẳng thể nào nói
dối được. Có một vết sẹo trên mặt chàng, một vết sẹo nằm ẩn sau đôi ria mép rậm
của chàng, vết sẹo chỉ có nàng biết. Chỉ có một lần duy nhất nàng đề cập đến
nó, vào đêm cưới, và đó cũng là lần duy nhất Jimmie đã thật sự giận nàng. Kết
quả là nàng không bao giờ đề cập đến nó nữa.
Nhớ đến chuyện đó, nàng
thấy có chút gì hi vọng. Có lẽ thật ra đó cũng là một cách dễ dàng tìm ra điều
mà Jimmie muốn nàng biết.
Nàng đi vào nhà, đặt bát
đĩa không vào máy rửa chén, rồi cầm xách tay và chìa khóa xe. Đã đến lúc nàng
xuống xem phố Calburn. Nhưng vừa mở cửa xe, theo một cảm tính nhất thời, nàng
chạy lại vào nhà đem mấy hũ, mứt, rượu chất đầy một thùng gỗ. Để cho những
người dân địa phương ở đây nếm thử sản phẫm của nàng đâu có hại gì.
Nếu phải dùng những từ
đơn giản để mô tả Calburn, thì nàng hẳn đã dùng từ “hoang vắng” hay “bỏ hoang”.
Nông trại của nàng nằm cách ngã tư, hay là phố Calburn khoảng hai dặm đường. Trên
đường lái xe đến đó, nàng chỉ nhỉn thấy từ ngôi nhà này đến ngôi nhà khác, hầu
hết bỏ trống. Có những ngôi nhà nông trại cũ lớn nằm cách xa đường với những
hàng hiên sâu nằm dưới bóng những thân cây lớn kích thước bằng cỡ những giàn
phóng hỏa tiễn. Một vài ngôi nhà có sân cỏ được cắt xén, trong khi những ngôi
nhà khác thì sân đầy cỏ dại và bụi cây nhỏ. Thỉnh thoảng nàng thấy một vài ngôi
nhà trông như có người ở, nhưng hầu hết đều mang vẻ trống vắng.
- Chuyện gì xảy ra ở đây
vậy? - Nàng lớn tiếng tự hỏi. - Tại sao những người ở đây lại bỏ đi?
Khi đến ngã tư đường,
nàng thấy hầu hết các tiệm đều trống. Một số có những tấm bảng bên trên cửa sổ,
một số khác có những cửa kính bày hàng bẩn thỉu đằng sau chẳng có gì cả. Một
vài cửa kính bày hàng có những chữ đã vàng nhạt ghi “cho thuê”. Vẫn còn một vài
cơ sở làm ăn còn hoạt động ở Calburn. Có một cao ốc trông như được tách làm
hai, một bên là bưu điện bên kia là nhà hàng ăn tối. Có một cửa tiệm bán đồ cổ,
nhưng những đồ vật trưng bày đằng sau lớp kính dơ bẩn là thứ cũ chứ không phải là cổ. Có một cửa
hàng bán thực phẩm gia súc, và cả đồ gia dụng nữa, và một cửa hàng bách hóa bên
ngoài có để một thùng chứa đầy rau quả trông không còn tươi lắm. Bailey nghĩ là
nàng chắc sẽ phải thảo luận với Matt để nơi mà nàng có thể mua đồ tạp hóa. Có
một tiệm bán áo quần, kim chỉ lẫn cho thuê video và bán kem. Và cuối con đường
là thẩm mỹ viện Opal.
Bailey lái xe ngay vào
chỗ đậu xe phía trước viện thẩm mỹ. Nàng biết nếu muốn lấy tin tức thì đây là
chỗ nên bắt đầu. Khi nàng mở cửa, có tiếng chuông vang lên, một em bé lứa tuổi
choai choai đang ngồi ăn một thanh kẹo. Con bé có mái tóc vàng, sáng mà chân
tóc lại đen, dài cỡ 5 cm, tách ra thành lọn rất nhỏ được cột lại bằng nhiều dây
băng màu sắc khác nhau. Mặt nó tô màu đen. Dù trời nóng nó vẫn choàng một chiếc
áo thun rất rộng, và chiếc quần đen bó sát.
- Vâng. - Con bé đang đọc
một tạp chí, chỉ đưa mắt lơ đãng nhìn về phía Bailey mà không nhìn thẳng. - Cô
muốn gì? - Bailey do dự nói:
- Không biết… - Có lẽ
nàng đã tính sai. Nàng không muốn con bé này đụng tóc mình.
- Carla! - Từ phía sau có
tiếng gọi ra. - Xem thử ai đó vậy?
- Dạ. Chờ một chút. -
Giọng con bé có vẻ mệt mỏi.
Bailey định mở miệng bảo
là nàng đổi ý, thì chợt một người đàn bà từ tấm màn che cửa phía sau xuất hiện,
đứng lặng người nhìn Bailey.
- Cô, là người đó, -
người đàn bà nọ nói.
Trong một giây đầy sợ
hãi, Bailey lo lắng người đàn bà nọ bảo nàng là Lillian Manville, vợ nhà tỉ
phú.
- Cô là người phụ nữ góa
ở ngôi nhà cũ Hanley, phải không? Và Matt Longrace sắp dọn đến ở với cô hôm nay
phải không?
Bailey mỉm cười gật đầu.
Nàng đã nghe đúng. Nếu muốn biết chuyện gì đang xảy ra ở Calburn thì nàng đã
đến đúng chỗ.
- Đứng lên! - Người đàn
bà nọ gắt giọng bảo con gái lúc ấy đang chăm chú nhìn Bailey như nhìn một người
từ phi thuyền không gian bước ra. Người phụ nữ nọ phải thúc mạnh vai nó mới bảo
nó rời khỏi ghế. - Qua cửa tiệm bên kiếm thứ gì cho cô ta uống, - bà ta bảo cô
bé, - một chai Dr Pepper. - Rồi quay lại Bailey, bà ta hỏi. - Tôi chỉ muốn… -
Hỏi vài câu hỏi, nàng định nói thế, nhưng nhìn thấy cả hai mẹ con bà ta đang
chăm chú nhìn mình nên không muốn làm họ thất vọng. - Tôi chỉ muốn gội và sấy.
- Người đàn bà nọ liền nắm tay nàng như muốn kéo lên ghế, trong khi cô gái vọt
ngay ra cửa trước đi tìm chai nước uống.
Bước ra khỏi hiệu làm
tóc, Bailey cố giữ lưng thẳng, và chỉ bước vào bên trong xe nàng đưa tay vẫy
Opal và Carla đang đứng trong cửa sổ nhìn ra.
Bailey cố giữ một nụ cười
trên môi trong khi lái xe ra khỏi Calburn, nhưng ngay khi ra đến vùng ngoại ô,
nàng đã cho xe dừng lại dưới một bóng cây và tắt máy. Nàng lấy trong xách tay
ra một bàn chải lớn đứng dưới bóng cây chải tóc lại. Người đàn bà nọ chắc đã
dùng cả nửa thùng kem lên tóc nàng. Sau đó, bà ta đã dùng thứ thuốc xịt bóng mà
Opal bảo đảm gió mạnh không làm rối tung để ép nó xuống.
Trong một lúc nàng dựa
người vào một thân cây nhắm mắt. Cả một tiếng đồng hồ dài đầy thách thức và vô
cùng mệt mỏi! Nàng đã bị gặng hỏi về hôn nhân, về chồng con và thời thơ ấu.
Nàng đã phải dùng tất cả năng lực của mình đã bịa ra những điều nghe có vẻ
thật, để đưa ra những câu trả lời nội dung chẳng chứa đựng điều gì cả.
Vì Opal nói chuyện không
ngừng, nên bà ta chẳng hề để ý là Bailey hầu như chẳng nói gì nhiều. Nhưng cô
con gái bà ta, Carla ngồi ở ghế cạnh, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn qua Bailey như
muốn nói nó biết nàng né tránh những câu hỏi của má nó. Nàng đã phải dùng mọi
khéo léo mình có để Opal tự nhiên đưa ra tin tức thay vì thúc ép bà ta.
- Tôi chỉ quan tâm đến
cái thị trấn Calburn này, - nàng cố làm cho giọng mình có vẻ tự nhiên và vô tư.
Carla lại đưa mắt nhìn nàng vẻ ngờ vực.
- Chẳng có gì nhiều, -
Opal đáp lại trong khi quấn tóc Bailey quanh một bàn chải tròn.
- Tôi chắc lịch sử của
thị trấn này lý thú lắm.
Opal chợt ngừng quấn tóc,
trố mắt nhìn nàng trong gương và nói:
- Cô không đến đây về
chuyện Golden Six, phải không? - Giọng nói bà ta mang vẻ thù nghịch, và mặt thì
có vẻ giận dữ.
Tôi chẳng biết gì về
chuyện bà nói cả. Golden Six là cái gì vậy?
- Tiếng tăm của Calburn,
thế đấy! - Opal nói, rồi quay sang bảo cô con gái im miệng khi Carla khịt mũi
vẻ chế giễu.
- Giờ cô cho tôi biết
thêm về người chồng quá cố của cô đi. - Opal nói trong khi cầm một cuộn tóc nhỏ
hơn và kéo chặt tóc Bailey quanh cái cuộn này làm Bailey muốn ứa nước mắt.
Vào lúc Bailey đang được
sấy tóc thì con bé Carla đi ngang qua nàng và bỏ lại một miếng giấy gấp lại lên
tờ tạp chí của nàng. Không suy nghĩ, Bailey giấu ngay mảnh giấy trên rồi sau đó
nhét vào túi quần.
Giờ Bailey mới lấy mảnh
giấy nhỏ ra xem. “Violet Honeycutt biết tất cả những gì về Calburn. - Ngôi nhà
màu vàng nằm cuối con đường Red River.” Bên dưới là một bản đồ nhỏ cho thấy con
đường Red River rất gần nơi nàng đang đứng. Bailey chải mái tóc một lần nữa,
rồi trở về xe mỉm cười.
Con bé Carla đó trông có
vẻ ngổ ngáo. Bailey chợt thấy thích nó. Với tấm bản đồ vẽ này Bailey tìm con
đường Red River không mấy khó khăn. Đến cuối con đường, nàng thấy một nông trại
nhỏ xinh đẹp được sơn màu vàng, chắc cũng đã lâu lắm với những đường ven cửa sổ
có màu nâu sẫm. Những cây liễu to lớn hầu như che khuất ngôi nhà nhìn từ con
lộ. Khi Bailey cho xe chạy vào lối vào trại và nhìn thấy hàng hiên của nó với
những chiếc xích đu, nàng không sao không thầm bảo Jimmie, sao anh không để lại
cho em một nơi như thế này? Nàng bước lên đến cổng và gõ cửa, nhưng không ai trả
lời.
- Có ai ở nhà không? -
Nàng lên tiếng, nhưng vẫn không có tiếng trả lời. Rời cổng, nàng bước quanh ra
sau ngôi nhà thì nhìn thấy một người đàn bà đang khom người trên một mảnh vườn
trồng rau quả. Người đàn bà
này to lớn mặc chiếc áo dài in hình bông hoa đã cũ, chân mang dép cao su, đầu
đội một chiếc nón rơm lớn, phân nửa vành nón rách tả tơi. Bailey chỉ nhìn thấy
một phần của khuôn mặt, nhưng trông bà ta trạc năm mươi tuổi.
- Chào bà, - nghe tiếng
Bailey, bà tay quay lui. Bà ta có khuôn mặt của nhiều năm sống với ánh mặt
trời, và Bailey đoán bà ta đã dùng cần sa và khá nhiều rượu.
Bà ta thẳng người lên
nhìn Bailey từ đầu tới chân rồi nói:
- Cô đúng là người mẫu
hoàn toàn, - như trong các cuốn quảng cáo thời trang.
- Đúng là tôi đấy, - nàng
dang tay ra, quay người một vòng nói.
- Tôi là Ovis Norm
Thompson Land đây.
Bà ta cười lớn để lộ hàm
răng dưới thiếu một hai chiếc răng.
- Tôi giúp gì được cho cô
nào?
Nhưng Bailey không trả
lời câu hỏi của bà ta. Nàng nhìn những cây bà ta vừa đặt xuống đất. Chúng không
phải là cà chua, mà là những cây thuốc phiện.
- Thứ đó không phải là
bất hợp pháp sao? - Nàng nhẹ nhàng hỏi.
- Chỉ khi nào mình ích kỉ.
Tôi chia sẻ thứ tôi
trồng với viên phó cảnh sát phụ trách Calburn. Vì thế ông ta bảo là tôi có một
khu vườn rất đẹp. - Bà ta nháy mắt nhìn Bailey. - Cô vào bên trong rồi cho tôi
biết đã cất công đến tận nơi này để làm gì nhé?
Bailey mỉm cười khi nghe
bà ta nói thế. Trước đây nàng vẫn thường nghỉ những ngày cuối tuần ở những nơi
phải đi bằng máy bay. Nhưng dường như con đường Red River này cũng có thể xem
như là “ở tận nơi này”.
Nàng theo bà ta vào cổng
sau của ngôi nhà, và thấy có một máy giặt kiểu cũ ít nhất cũng vào năm 1940,
cộng thêm một vài tấm ván giặt. Ở một góc còn có một đống bàn ghế dùng để ngồi
ở sân cỏ bị gãy đổ, chất lại, có lẽ để làm củi đốt. Họ đi vào bếp mà Bailey
nhận ra ngay là chẳng hề thay đổi ba mươi năm nay. Lớp vải lót sàn nhà đã cũ
nhiều chỗ, các kệ gỗ trông rất cũ dính đầy vết dầu mỡ. Dọc theo một bức tường
là một lò bếp tráng men cũ với một lò nướng thật lớn có thể thui cả nửa con bò.
Bên dưới cửa sổ là một chậu rửa bát đĩa tráng men, kiểu giống hệt cái chậu mà
nàng mới mua cho ngôi nhà ở nông trại.
- Cổ lỗ quá phải không
cô? - Người đàn bà nói khi thả người ngồi xuống chiếc ghế lưng quay về chậu rửa
bát, Bailey đã từng thấy những chiếc ghế y hệt như thế này bày bán ở những cửa
hàng độc quyền Mỹ.
- Không, - nàng nói bằng
một giọng thành thật. - Đây là những mẫu gỗ thật sự của những thứ mà chúng ta
hiện đang cố sao chép lại.
- Cô không có vẻ là người
khéo ăn khéo nói lắm, nhưng tôi bắt đầu thích cô. Cô đến ngồi đây rồi thì muốn
hỏi điều gì thì hỏi. Hay muốn đóng hộp cà chua? - Bà ta cho câu nói đùa của
mình là thú vị vì trông Bailey rất có vẻ là dân thành thị.
Nàng khẽ mỉm cười. Nhìn
vào chậu rửa bát đĩa, nàng thấy bên trong đầy cả những trái cà chua trồng nhà
mới hái, một số có những lỗ bị sâu đục. Rồi mở bên cạnh cửa sau mà nàng đoán là
nơi chứa thức ăn như hầu hết các nông trại xưa vẫn có, và thấy có hàng trăm hũ
bằng đất và bằng sứ đang chờ để được đổ đầy những sản phẩm của mùa hè. Trên nền
có vài ấm nước để làm đồ hộp và mấy hộp làm nắp đậy mới.
- Bà nói chuyện, tôi làm
hộp. - Bailey nói trong khi mang những chiếc ấm nọ đến chậu rửa bát đĩa đổ đầy
nước vào. - Tôi biết tại sao thị trấn này bị bỏ hoang phế, và tôi muốn biết tại
sao Opal, ở tiệm làm tóc gần như muốn giết tôi khi cho là tôi đang cố moi móc
tìm ra một cái gì đó về Golden Six. Nó là thứ gì vậy? Một hội đoàn nào đó, phải
không. À, tôi là Bailey James. Tôi thừa hưởng…
- Nông trại cũ của Hanley,
tôi biết, - bà ta nói. - Chồng cô mất để lại nông trại ấy cho cô, và Matt
Longrace đang đến ở với cô hôm nay. Patsy sướng run lên vì đẩy được anh ta đi.
Anh ta không ngớt phàn nàn về hai thằng con biếng nhác của cô ấy. Dĩ nhiên
Patsy đã làm cho mấy đứa con quá hư hỏng nên Matt có phàn nàn cũng phải. Tôi là
Violet Honeycutt.
- Vâng, tôi có nghe nói
tên bà. - Bailey đang di chuyển những chiếc hũ từ phòng nhỏ và đặt chúng vào
hai ấm đầy nước để khử trùng. - Điều tôi muốn biết nhất là về nông trại mà tôi đã
được thừa hưởng. Ai đã từng sống ở đấy. Ông bà Hanley có con cái gì không?
- Cô muốn tìm người nào?
- Violet hỏi, vẻ ngờ vực.
Nghe nói thế Bailey liền
ngồi xuống chiếc ghế ở bàn, đối diện với Violet. Cử chỉ ấy của nàng rõ ràng có
ý nghĩa là nếu Violet muốn bảo quản lâu cà chua của bà ta thì bà ta phải trả
lời các câu hỏi chứ không phải đưa ra các câu hỏi.
Violet cười lớn.
- Ai đó đã dạy cho cô
cách thương thuyết làm ăn phải không?
Bailey vẫn ngồi yên.
Bà ta mỉm cười, mở một
cái hộp gỗ nhỏ trên bàn, lấy ra một điếu thuốc vấn hỏi!
Bailey chỉ nhìn vào bà
ta, chờ câu trả lời.
- OK. - Violet nói, rồi
dựa người ra ghế bật lửa hít một hơi thuốc dài, nhắm mắt lại trong một lúc. Mở
mắt ra lại, bà ta mới bắt đầu nói: - Họ Hanley trước đây sở hữu nơi đó, nhưng
chuyện họ đã bỏ đi cách đây một thời gian lâu không có nghĩa là dân chúng ở đây
quên họ là sở hữu chủ của nông trại ấy.
Bailey đứng lên, bước lại
chậu rửa bát, lấy một con dao lột vỏ mài nhiều lần đến độ lưỡi dao đã khuyết
vào phía trong. Đây là con dao hình mỏ chim nguyên thủy, Bailey nghĩ đến con
dao Pháp đắt tiền nàng dùng.
- Cô quan tâm đến gia
đình Hanley à?
Bailey do dự trước khi
trả lời. Tốt hơn hết tiết lộ càng ít càng tốt.
- Không, - nàng đáp. -
Tôi quan tâm nhiều hơn đến những gì xảy ra trong những thập niên 60 và 70 ở
Calburn.
- À, vậy là cô quan tâm
đến nhóm Golden Six?
- Tôi chẳng biết nó là
cái gì hay là ai nữa.
- Sáu chàng trai, tốt
nghiệp trung học năm 1953. Bọn chúng là những kẻ khiến Calburn nổi tiếng. Nhưng
rồi một kẻ nào đó ganh tị lại dựng lên những câu chuyện về chúng, và mọi thứ
sụp đổ. - Giọng Violet đầy cay đắng.
Bailey biết là Jimmie mãi
đến năm 1959 mới ra đời, vì thế không thể nào là một thành viên trong nhóm được
gọi là Golden Six ấy.
- Tôi quan tâm đến khoảng
thời gian sau đó nữa. - Nàng lấy một cái chảo nhôm đổ đầy nước đặt lên bếp đun
sôi để nhúng những trái cà chua vào đấy và lột vỏ chúng.
- Năm 1968, một trong sáu
anh chàng nọ bắn chết vợ rồi tự sát. Có phải cái năm đó không?
1968, năm ấy Jimmie hãy
còn quá trẻ, chắc chẳng liên quan gì đến một chuyện như thế.
- Tôi thật sự quan tâm
nhiều đến những người có liên hệ đến nông trại của tôi.
- Thành thật mà nói, tôi
chẳng biết gì về chỗ cô ở cả, nhưng tôi biết một cô gái trước đây sống ở
Calburn. Đem cái điện thoại ấy lại cho tôi để tôi gọi xem cô ta có ở nhà không.
Đây là cuộc gọi đường xa. - Bà ta nhìn Bailey chờ.
- Tôi sẽ trả tiền. -
Bailey đáp, chùi tay vào khăn bước lại chiếc điện thoại màu đen, loại quay lỗ
rất cũ, có thể cho vào Viện bảo tàng.

