40 gương thành công - Chương 18

18. Dorothy Dix

Theo ý bạn, ký giả nào
có nhiều độc giả nhất? Tôi thì cho rằng ký giả đó là một người đ àn bà sung
sướng nhất Hoa Kỳ, vì đã giúp cho đủ hạng người giải quyết những vấn đề tình
cảm của họ. Đã bao lâu nay, bà là người mẹ, là giáo sĩ rửa tội cho hàng triệu
người đau khổ, cả đ àn ông lẫn đ àn bà. Chưa có ai đã tránh cho đồng bào được
nhiều vụ li dị, đã cứu vớt được nhiều gia đình như bà. 

Tên bà là Elizabeth
Meriwether Gilmer. Bạn chưa nghe nói về bà ư? Có chứ! Đã nghe nói nhiều lần
rồi, nghe tên Dorothy Dix nhiều lần rồi chứ! Dorothy Dix chính là bà. Hồi mới
cầm viết, bà lựa bút hiệu đó vì bà thích nó, mà cũng vì bà muốn kỷ niệm một
người mọi tên là Dix đã hầu hạ gia đình bà lúc bà còn nhỏ. 

Vậy bà ký tên Dorothy
Dix dưới những bài đăng trong hai trăm tờ nhật báo, để cho hàng triệu độc giả
khắp thế giới đọc, từ Luân Đôn tới Châu Úc, từ Nữu Ước tới Nam Mỹ và Nam Phi
Châu. 

Cách đây ít lâu, tôi hân
hạnh được uống trà với bà ở New
Orleans, bà kể chuyện về tuổi thơ, về sự giáo dục của
bà trong mười năm, sau cuộc nội chiến. Thân phụ bà có một trại nuôi ngựa giống
ở biên giới Tennessee và Kentucky. Gia đình bà là một gia đình cổ ở
phhương Nam
vì chiến tranh mà sa sút. Bà nói: 

- Chúng tôi sống kỳ cục
lắm, nghèo không ra nghèo, sang không ra sang. Ngôi nhà cũ của chúng tôi đẹp
lắm, chung quanh có những cánh đồng cỏ mơn mởn, bò và cừu mập ú, nhởn nhơ bên
cạnh những cánh đồng trồng lúa và bông vải. Ăn thì chén dĩa bằng bạc. Như tiền
thì không có. 

Bà bận những đồ bằng len
nhà, dệt ở hàng xóm. Bà thích kể rằng vú nuôi của bà là một con ngựa cái để
đua, vì già và bệnh tật nên được thả ở trước nhà. Bà nói thêm: 

- Tôi biết cưỡi ngựa
trước khi đi học. Ba tôi đặt tôi lên lưng ngựa, tôi níu chặt bờm ngựa trong khi
nó ăn cỏ. Khi nào nó luồng qua một sợi dây thừng mắc quần áo hoặc một cành cây
là tôi bị hất xuống đất. Tôi la hét cho tới khi có người chạy ra bồng tôi lên,
đặt tôi trên lưng ngựa. 

Một chị vú da đen dạy
cách ăn nói cư xử cho bà và chị em bà. Trong bữa cơm, chị ta đứng sau lưng bà,
rình như một tên lính gác. Vô phúc mà láu ăn hoặc bốc đồ ăn hoặc khóc thì, cốp!
Bị cú trên đầu liền. 

- Ăn uống cho đàng
hoàng. Đừng làm như những thằng nhỏ mất dạy da trắng đó nữa! 

Ba đứa nhỏ phải chơi một
mình, làm lấy đồ chơi mà chơi. Nhưng chơi với chó và ngựa, thú vị biết bao! Bà
nói: 

- Chúng tôi được tự do
như chim trên trời vậy. Không bị bó buộc gì hết. Muốn đi đâu thì đi, làm gì thì
làm. Chúng tôi thắng yên cương rồi cho ngựa chạy phi vô rừng, đằng sau là một
bầy chó sủa vang trời. Chúng tôi biết hết cả những bí mật của rừng, những chỗ
chim cùn cút trốn ở đâu, chim ưng làm tổ ở đâu, thỏ giấu con ở đâu. Chúng tôi
cũng biết chỗ nào có trái lý dại và mùa thu tới, chỗ nào có những hạt dẽ ngon
nhất. Lòng tự tin của chúng tôi tăng lên rất mau, vì chúng tôi biết xoay sở
lấy, biết biển báo khi gặp nỗi khó khăn. 

Đây là một điều lạ lùng
nhất về bà. Chính một ông cụ già gần như điên, đã dạy bà được nhiều điều rất
quí. Ông cụ đó là bạn cũ của ông nội bà và sống trong nhà bà như người thân.
Không những cụ dạy bà tập đọc mà còn hướng dẫn bà yêu những sách quí trong tủ
sách nhà nữa. Bà nói: 

- Chưa đầy hai mươi
tuổi, tôi đã thuộc lòng Shakespeare, Scott, Dickens, tôi đã đọc Smollet,
Fielding và Richardson.
Không có sách để trẻ em đọc, tôi đ ành nhai đại những sách khó tiêu nhất nhưng
bổ ích của người lớn. Và lúc nào tôi cũng thấy sung sướng được đọc những sách
đó. 

Bà đi học trường nhà
nước rất ít. 

Cha tôi cho tôi lại học
trường cô Alice hay cô Jenny không phải vì các
cô ấy dạy giỏi mà chỉ vì thân phụ các cô ấy đã có công lao với xứ sở, hoặc làm
đại tá dưới quyền chỉ huy của tướng Beauregard, hoặc đã tử trận ở Gettysburg. Làm sao được?
Đó cũng là một cách giúp các cô ấy sống. 

Trước khi biết bảy lần
bảy là bốn mươi chín, bà đã leo cây giỏi như một con sóc và cưỡi ngựa tài như
một chú nài. Sự thật bà chỉ được học trong những sách cũ của thân phụ để
lại. 

Rồi năm mười tám tuổi,
bà về nhà chồng, tính sống cuộc đời yên ổn như mọi thiếu phụ khác trong trường
hợp đó. Nhưng một bi kịch xảy ra, vùi bà trong một tai biến về hai phương diện
gia đình và tài chánh. Mới cưới nhau được ít lâu, chồng bà thành một người tàn
tật, một phế nhân. Bà phải săn sóc chồng, nuôi chồng cho tới khi chồng chết,
trong ba mươi lăm năm đằng đẳng. Lúc đó bà không biết làm sao kiếm đủ nuôi thân
mình, đừng nói là nuôi chồng nữa. Bà lo lắng quá, hóa đau, phải tới Gulf
Coast ở Mississipi để
dưỡng sức. 

Lần đi xa nhà đó đã làm
thay đổi hẳn đời bà. Trong khi nghỉ ngơi trên bờ biển, bà viết một truyện ngắn
kể một việc xảy ra trong gia đình bà hồi nội chiến. Song thân bà sợ những đồ
quí bằng bạc bị lính phương Bắc cướp mất, sai một tên nô lệ đem chôn ở bên mộ
tổ tiên. Hắn chôn xong còn làm phép phù thủy yếm cho kẻ trộm khỏi tới gần. Bà
bán truyện đó cho một bà hàng xóm làm chủ nhiệm một tờ nhật báo lớn nhất miền Nam, tờ Picayune ở New Orléans. Người ta trả bà ba Mỹ kim và
dùng bà làm phóng viên trong tòa soạn. Như vậy bà chỉ kiếm được năm Mỹ kim mỗi
tuần, vừa đủ cho hai ông bà sống, nhưng nhờ viết phóng sự mà sau này bà nổi
danh khắp trong nước. 

Công việc đầu tiên của
bà là mỗi chủ nhật viết một bài dài khuyên bảo phụ nữ về đời tình cảm của họ
đối với chồng con. 

Phần đông nữ sĩ viết một
lối văn cầu kỳ. Họ rán dùng một bút pháp có vẻ thông thái, độc đáo để tỏ ra
mình hơn người, họ muốn tự tạo một tư cách "thượng đẳng". Dorothy Dix
trái lại, viết rất giản dị, thành thử nữ độc giả thích ngay. Bà không cần tự
tạo một tư cách giả tạo, chính bà đã có một tư cách chân thực, mạnh mẽ của một
phụ nữ Mỹ sống giữa thiên nhiên và những truyền thống của một gia đình cổ
phương Nam.
Một xã hội càng rập theo đời sống mới nhất luật bao nhiêu thì lại càng trọng
những người còn giữ được cái ý nhị, tự nhiên của cổ nhân bấy nhiêu. Ở thời đại
này, nhiều người nhờ bí quyết đó mà thành công trong nghề viết văn, nghề làm
báo, truyền thanh, hát bóng, diễn kịch... 

Những bài của Dorothy
Dix được hoan nghênh nhiệt liệt. William Rodolp Hearst luôn luôn tìm những tài
ba mới, tặng bà những số tiền lớn để bà viết cho tờ Evening Journal ở Nữu Ước.
Bà cần tiền lắm nhưng không bỏ chủ báo cũ, vì chính nhờ tờ Picayune mà bà đã
học được nghề viết báo. Vả lại lúc đó chủ tờ Picayune đau, cần bà ở lại giúp
việc. Vì vậy bà không nhận lời William Rodolp Hearst, nhưng năm 1901, khi chủ
báo cũ mất, bà qua viết tờ Evening Journal. Trong hai chục năm sau chẳng những
bà giữ mục Tâm tình mà còn viết nhiều bài phóng sự lớn để đứng về phương diện
nhân đạo mà phê bình những tin tức kích thích nhất, như vụ xử lớn về hình sự.
Chẳng hạn bà viết phóng sự vụ xử Harry K. Thaw, nhà triệu phú ở Pittsburg đã
giết kiến trúc sư nổi danh nhất Nữu Ước là Stanford White(...) Bà thuật lại vụ
Hall Mills, một tội đại hình bí mật nhất của thế kỷ XX. 

Thành thử một thiếu nữ
rất giản dị, mà hồi hai mươi tuổi còn quê mùa, chưa đi xe lửa quá sáu lần, chưa
đi coi hát hoặc ra thành thị quá hai lần, sống trong một trại hẻo lánh ở
Kentucky, nay đã thành một ký giả nổi danh nhất Nữu Ước. 

Người ta thường hỏi bà
có phải chính bà viết những bức thư ký tên độc giả rồi lại tự đáp trên mục
"Thư tâm tình" không. Bà đáp: 

- Đâu có vậy! Cần gì
phải thế? Mỗi ngày tôi nhận được từ một trăm tới một ngàn bức thư của độc giả
mà! 

Những bức thư đó là
những tài liệu lạ lùng về lòng người. Người ta không giấu giếm gì cả, cởi hết
lòng với bà. Đọc nó, bà biết được hơn ai hết những thắc mắc của con người thời
này. 

Bà được các trường Đại
học Tulane và Oglethorpe tặng nhiều vinh hàm, nhưng vì bà không có con, nên
những vinh hàm đó không làm cho bà vui bằng khi nhận được những hàng chữ như
vầy của thanh niên đau khổ, hoang mang: "Tôi trọng bà hơn má tôi, tôi biết
rằng bà hiểu tôi..." 

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3