Và Thế Là Chúng Ta Tiêu - Chương 09
Bằng chứng của sự sống - Câu chuyện về chiếc ghế của Tom Mota phần III - Sự khác biệt giữa cờ lê tròng và cờ lê Allen - Trên đường tới hồ - Gã ngốc - Marcia cắn rứt lương tâm - Ba-mười lăm - Bánh kẹp pho mát thịt băm đồ chơi - Chiếc đồng hồ quả lắc - Một diễn biến khó chịu - Những người da đỏ Yopanwoo thực sự - Một sự xúc phạm vô tình - Karen vượt qua Benny - Joe làm tới cùng - Bức email của Genevieve - Kiểu nó thế, ở đây và bất kỳ nơi nào khác
Tầng năm mươi chín là một thành phố ma. Chúng tôi cần gom dồn cánh nhân viên ăn lương vẫn đang chiếm một phần tư tầng đó và tìm chỗ cho họ giữa những người còn lại chúng tôi rồi đóng tầng năm mươi chín lại, niêm phong nó như một khu vực nhiễm xạ. Trớ trêu là theo hợp đồng chúng tôi vẫn phải trả tiền thuê tầng đó suốt cả năm, dốc ra cả đống tiền chúng tôi không có cho chỗ mặt bằng chúng tôi không cần. Nhưng ai biết được - có thể chúng tôi đang giữ lại những ngăn và văn phòng bị bỏ không đó với hy vọng về một sự đảo chiều. Ở cấp độ công ty thì không phải lúc nào cũng là chuyện lỗ lãi. Nhiều khi, giống như với những con người thật, đó là chuyện liên quan đến niềm tin, hy vọng, và ảo tưởng.
Trong khi Genevieve và Joe đang bàn bạc cách tiếp cận Lynn Mason về buổi hẹn bị bỏ lỡ của chị, Jim Jackers đi xuống tầng năm mươi chín để tìm niềm cảm hứng đang lẩn trốn anh ta ở bàn làm việc. Nhiều khi cũng cần phải thay đổi nơi chốn nếu như không có ý tưởng gì xuất hiện. Jim bỏ tất cả lại phía sau, kể cả cái trang trống vốn sợ anh ta, và đi xuống tầng năm mươi chín chỉ để suy nghĩ. Có điều gì buồn cười liên quan đến ung thư nhỉ? Có điều gì buồn cười liên quan đến nó chứ?
Trong cái ngăn vô danh nơi anh ta tìm đến, thảm trải sàn màu xám còn trần màu trắng. Những bức vách ngăn màu cam, và có một chiếc bàn không có ghế. Một cạnh bàn đã sứt sẹo, hoặc bị gọt đẽo - trông gần như bị gặm - để lộ lõi gỗ ép rẻ tiền bên trong. Ngoài ra thì chẳng còn gì nữa cả - và cũng chẳng có gì để làm ngoài việc tìm ra ung thư buồn cười như thế nào. Căn phòng kêu u u trong sự tĩnh mịch lặng lẽ, điều này lẽ ra phải giúp anh ta tập trung hơn thì lại làm anh ta sao nhãng. Có lẽ là do âm thanh của những bóng điện trên đầu. Cứ như thể cái trang trống đã đi theo anh ta và biến hình thông qua một phép mầu của vật lý thành một âm thanh thuần túy. Tất cả tầng năm mươi chín là một cái trang trống, được giãn cách bởi những ngăn chia ô. Vẻ rờn rợn trơ trọi của cả tầng vây lấy anh ta trong sự im lặng và trống rỗng như một vực thẳm hút tất cả mọi thứ, và một khi anh ta đã bị hút vào, anh ta sẽ mất không chỉ công việc, mà còn cả lý trí của mình nữa. Để tự dứt mình ra khỏi những ý nghĩ ảm đạm đó, anh ta bắt đầu nghĩ đến những chuyện thú vị hơn, kiểu như trưa nay ăn gì. Anh ta sung sướng tìm thấy một cốc cà phê bằng xốp Styrofoam trên sàn nhà dưới gầm bàn, một đầu mẩu thuốc lá nằm còng queo ở đáy cốc như một con sâu tequila chết. Bằng chứng của sự sống! Chẳng có gì buồn cười đến với anh ta, anh ta lắc cốc cà phê và nhìn cái đầu mẩu thuốc lá nẩy quanh cho đến khi hành động đó làm bốc lên những luồng hơi mốc meo và khó chịu, làm anh ta nhớ đến Brizz Già. Liệu có thể nào đây chính là, anh ta tự hỏi, điếu thuốc hút dở của Brizz không nhỉ? Phải chăng một ngày mùa đông là quá sức đối với lão, thành thử lão đã lẻn xuống tầng năm mươi chín, nơi lão sung sướng tận hưởng ba hay bốn hơi thuốc dấm dúi trong không gian thoải mái của phòng có điều hòa nhiệt độ? Jim nghĩ sẽ tuyệt vời biết bao nếu như đầu mẩu này là của Brizz - một di vật từ một khoảnh khắc của niềm khoái lạc vụng trộm, có lẽ là tất cả những gì cần thiết để làm nên giá trị của cả một cuộc đời. Nhưng phát hiện này cũng làm cho anh ta ngẫm nghĩ lại: Brizz đã chết vì ung thư. Làm sao có thể có gì là buồn cười khi chết một cái chết khốn nạn và chẳng để lại gì ngoài một đầu mẩu thuốc lá? Không phải là bằng chứng của sự sống - bằng chứng của cái chết. Jim lại càng mông lung hơn bao giờ hết. Bỗng nhiên anh ta cảm giác như sự im lặng trên tầng năm mươi chín không còn giống cái trang trống mấy nữa mà giống sự câm lặng của những hầm mộ hơn. Mỗi ngăn trống này là một gian hầm chờ đợi chiếc quan tài của nó.
Một âm thanh leng keng làm anh ta sao nhãng. Thật là nhẹ cả người. Anh ta dỏng tai lên. Im lặng. Sự im lặng đằng đẵng. Và rồi - cạch cạch - cạch. Cạch. “Phù,” ai đó nói. Ơn Chúa - bằng chứng của sự sống. Anh ta đứng lên và đi vào hành lang. Anh ta nhìn ở cả hai phía, chờ đợi. Lại là sự im lặng. Sau đó âm thanh trầm đục của một thứ gì đó nặng nề đập xuống sàn - bịch. Dường như nó vọng đến từ cuối đầu kia - khu ngăn làm việc tổ ong đầu kia, gần cửa sổ nhất. Và rồi, hợp âm loảng xoảng của nhiều dụng cụ đang bị lộn tung lên. Nó dẫn anh ta đi nốt phần đường còn lại. Anh ta bước tới ngưỡng cửa của một ngăn làm việc, ở đó anh ta nhìn thấy Chris Yop đang quỳ gối áp cờ lê vào một chiếc ghế lật ngược.
Khi Yop ngẩng lên thấy Jim đang đứng ở cửa ngăn làm việc, anh ta không nói gì. Anh ta điềm nhiên quay lại với công việc. “Yop,” Jim nói, “anh đang làm cái gì dưới này vậy?” Yop không trả lời. Phần đế của chiếc ghế bao gồm sáu nan hoa, mỗi nan hoa theo nguyên bản lại có một cái bánh xe gắn vào đầu. Những chiếc nan hoa đang chĩa về phía Jim, trông như những cái chân lủng lẳng của một con bọ bị lật ngửa bụng. Yop đang quỳ gối ở một bên ghế tháo bánh xe thứ sáu và cũng là bánh xe cuối cùng. Xong việc, anh ta đặt nó vào cùng những cái bánh xe khác. Anh ta mang theo mình một cái va li đen to đùng - loại người ta vẫn kéo qua các sân bay - được đặt nằm cạnh hộp dụng cụ của Reiser trong cái chỗ làm việc nhỏ bé chật chội đó. Mọi người đều biết rằng Reiser giữ các dụng cụ trong phòng làm việc của anh ta, và có vẻ như Yop đã mượn chúng. Anh ta đã nhét cà vạt vào giữa hai cúc áo giữa trên áo sơ mi, để nó khỏi buông xuống cản trở. Jim nói trông anh ta giống như một nhân viên kỹ thuật sửa máy photocopy, nhưng là một người lóng ngóng, đang xoay xở với một chiếc ghế. “Đó là ghế của ai vậy, Chris?” Jim hỏi. Một lần nữa Yop lại không trả lời.
Chúng tôi nghe chuyện này từ Marcia Dwyer, người nghe nó từ Benny. Khi Jim lần đầu tiên đề cập chuyện này với Benny, trong phòng làm việc của Benny, Benny đã hỏi anh ta, “Lúc đó cậu không lo bị bắt gặp cùng với anh ta à, làm cái việc mà anh ta đang làm ấy?” Dễ đoán là Jim nói rằng anh ta thậm chí không hề nghĩ gì đến việc đó. “Ngay cái phút nhìn thấy anh ta, tớ đã biết anh ta âm mưu chuyện gì rồi,” anh ta nói với Benny, “nhưng lúc đó tớ không hề nghĩ tớ sẽ gặp rắc rối vì nó. Hơn nữa, đó cũng là chuyện đáng để theo dõi. Cậu đã bao giờ nhìn thấy một chiếc ghế bị tháo tung ra như thế chưa?” Đến một thời điểm, sau vài phút làm việc liên tục, Yop đứng lên cởi áo khoác ra, gấp nó lại ngay ngắn trên một vách ngăn. Sau đó anh ta cởi cúc tay áo rồi xắn hai ống tay lên và lau trán bằng hai mu bàn tay lông lá của mình. “Làm gì mà anh ăn mặc chỉnh tề thế, Chris?” Jim hỏi anh ta. Một lần nữa, không trả lời. Cũng chẳng thèm nhìn liếc gì về phía Jim. Hành vi lạ lùng đến từ Chris Yop, người xưa nay vẫn luôn rên rỉ vì bất kỳ chuyện chết cha chết mẹ gì. Thành ra Jim thấy lúng túng khi cứ đứng đó nhìn. Lần đầu tiên anh ta chợt nhận ra rằng sự im lặng đó rất có thể là cố tình, rằng Yop khó chịu với anh ta vì lý do gì đó.
“Anh ta khó chịu với cậu vì chuyện gì mới được chứ?” Benny hỏi. “Cậu chẳng hề làm gì anh ta cả.” “Tớ cũng nghĩ là tớ chẳng làm gì,” Jim nói. “Nhưng tớ cứ đứng ở ngưỡng cửa nói với thằng đó mà hắn không hề trả lời gì. Nên tớ bắt đầu tự hỏi không biết mình có làm gì khiến hắn bực tức không.” Sau đó, khi Marcia kể lại câu chuyện cho chúng tôi sau khi nghe nó từ Benny, chúng tôi nghĩ rằng đó đúng là cách mà anh chàng Jim Jackers mong manh sẽ phản ứng. Đó là Chris Yop, không còn là nhân viên nữa, đã bị mời rời khỏi tòa nhà từ hai ngày trước với lời đe dọa bắt giữ và lúc đó lại đang phá hoại tài sản của công ty, ấy thế mà Jim vẫn còn muốn làm bạn của anh ta.
Anh ta hỏi Yop có phải anh ta đã làm điều gì sai trái không. Yop thậm chí còn không thèm ngẩng lên khỏi chiếc ghế. “Cậu không email cho tôi về những thay đổi đối với dự án,” cuối cùng anh ta cũng trả lời. Theo như lời Jim, câu này được nói cứ như thể Yop là sếp của Jim vậy, và rằng những hệ lụy nghiêm trọng sẽ nảy sinh từ sơ suất của Jim. Đồng thời, giọng Yop nghe có vẻ tự ái. Jim phải tự nhủ rằng anh ta chẳng làm gì sai cả và không có lý do gì để cảm thấy áy náy. “Chẳng lẽ tôi có trách nhiệm email cho anh à?” anh ta hỏi. “Tôi đã yêu cầu ai đó làm mà,” Yop nói. “Cậu không nhớ tôi đã yêu cầu sao?” “Ý anh là hôm qua ở chỗ quầy cà phê à?” “Không một ai email cho tôi cả,” Yop nói, lúc này anh ta đang xử lý đến một bộ ốc vít liên kết với phần đế của chiếc ghế. “Như thế cũng không sao,” anh ta nói thêm. “Không phải tôi không biết, Jim ạ, là tôi đã bị đuổi việc. Mọi người đều nghĩ là tôi không biết điều đó - không phải tôi không biết. Không phải tôi không biết rằng tôi là một ông già và rằng đây là một trò chơi của thanh niên.” Jim nói rằng anh ta không nghĩ bốn mươi tám tuổi là già đến thế, và rằng có lẽ chẳng mấy chốc nữa Yop sẽ có một công việc mới. Sau đó anh ta cố giải thích với Yop rằng sự thay đổi đối với dự án rất là mông lung - anh ta thực sự đang phải vật vã để tìm ra dù chỉ là một ý tưởng riêng lẻ - đến nỗi anh ta không thể nào cảm thấy tự tin khi gửi email cho bất kỳ ai về chuyện này. “Này, Jim,” Yop nói, nhìn Jim lần đầu tiên kể từ lúc anh ta xuất hiện trên ngưỡng cửa, và cái Jim nhìn thấy là vẻ mặt đỏ phừng, mồ hôi nhễ nhại và ngán ngẩm của một người đang cố che giấu cơn tức giận khiến cho giọng anh ta run lên. “Cậu không cần phải giải thích với tôi, được chứ? Cậu mà gửi email cho tôi thì lại thành ngu ngốc rồi. Bất kỳ ai trong các cậu. Cậu không nghĩ là tôi biết thế sao? Này,” anh ta nói thêm, hai bàn tay run rẩy khi anh ta dang rộng hai cánh tay, “tôi không ngu đâu. Tôi biết là tôi đã bị tống cổ. Tôi biết không ai muốn bị bắt quả tang trao đổi email với tôi chứ. Tôi chỉ không nghĩ mình lại bị đối xử theo cái cách như ở quầy cà phê hôm qua.”
Khi nghe đến đó, Benny gặng hỏi để biết, “Hôm qua lúc ở quầy cà phê chúng ta đã đối xử với anh ta như thế nào ấy nhỉ?” Jim nói rằng anh ta không thể nhớ được. Khi anh ta kể câu chuyện với Marcia, Benny hỏi cô ta, “Cô có nhớ đã đối xử với anh ta theo cách khác thường nào lúc ở quầy cà phê hôm qua không?” Marcia đứng ở ngưỡng cửa phòng Benny bên cạnh bộ xương, tay chống hông, cổ tay quay vào trong. “Tôi nghĩ tôi đã gọi anh ta là hâm,” cô ta nói.
Jim, đứng ở ngưỡng cửa ngăn làm việc trên tầng năm mươi chín, muốn Yop kể xem chúng tôi đã làm anh ta phật lòng như thế nào ở quầy cà phê hôm qua. Yop không trả lời thẳng anh ta. “Tôi không còn được trả tiền cho việc ở đây nữa, Jim,” anh ta nói, quỳ gối trong chiếc quần là lượt thẳng li của mình và thao tác với chiếc cờ lê. “Cậu có hiểu điều đó có nghĩa là gì không? Tôi đang lởn vởn ở đây theo ý mình. Tôi ở đây vì tôi muốn ở đây. Cậu nghĩ tôi muốn ở đây sao? Không đời nào tôi muốn ở đây, Jim. Nhưng tôi đã lượn lờ thêm mấy tiếng đồng hồ hôm qua, chờ đợi bức email không bao giờ đến. Không phải từ cậu, không phải từ Marcia, không phải từ Amber - không ai hết. Ít nhất khi tôi bị tống khứ, Lynn Mason cũng còn cho tôi quà chia tay, cậu biết tôi đang nói gì chứ, Jim? Ít nhất thì công ty cũng còn nói, Chris Yop, chúng tôi có một món quà chia tay cho anh đây. Còn các cậu ở quầy cà phê ấy à? Các cậu thậm chí còn không gửi cho tôi lấy một bức email.”
Yop kết thúc việc tháo nốt con ốc cuối cùng, cho phép anh ta lôi phần đế bánh xe ra khỏi thanh nâng thủy lực. Anh ta đặt phần đế vào trong va li - giờ thì chiếc ghế trông chẳng giống thứ gì hơn là một cái cọc màu bạc gắn theo kiểu que kẹo mút vào một mặt ghế và lưng dựa. “Tôi đã nghe thấy các cậu nói,” Yop nói, bất thình lình, trong khi vẫn đang quỳ gối và trừng trừng nhìn Jim. Jim giật mình vì vẫn đang mải nhìn anh ta tháo phần đế của chiếc ghế, vậy mà nhoằng cái Yop đã đang chĩa một cái tuốc nơ vít vào mình và quắc mắt một cách giận dữ, mà anh ta thậm chí còn không nhìn thấy Yop nhặt cái tuốc nơ vít đó lên. “Tất cả mọi người các cậu,” anh ta nói thêm.
“Anh nghe thấy chúng tôi nói gì cơ?” Jim nói.
Yop không chịu giải thích. Anh ta chỉ thay chiếc tuốc nơ vít bằng một cái cờ lê và quay lại với chiếc ghế.
Marcia bước qua cửa vào trong phòng làm việc của Benny vì câu chuyện đã trở nên thú vị. Cô ta ngồi đối diện với anh ta bên này bàn. “Anh ta nói thế là có ý gì nhỉ,” cô ta hỏi, “ ‘tôi đã nghe thấy các cậu’? Nói thế đúng là kỳ quặc, phải không?” “Tôi cũng đã hỏi Jim đúng điều đó,” Benny nói. “Anh ta cũng hoàn toàn không hiểu ý Yop là gì. Anh ta có thể có ý gì mới được chứ? Chúng ta đã nói gì mà anh ta nghe được và lấy làm chạm nọc?” “ ‘Tôi đã nghe thấy các cậu’,” Marcia nói, ngồi ngả ra sau ghế để suy nghĩ thoải mái hơn. “ ‘Tất cả mọi người các cậu.’ Câu đó có thể có nghĩa là gì nhỉ?” “Chắc là gì đó về việc anh ta khóc lóc, suy sụp ngay trước mặt Lynn chăng?” “Chắc thế,” Marcia nói.
Yop mất tổng cộng khoảng nửa tiếng đồng hồ để tháo rời chiếc ghế ra thành từng bộ phận. Khoảng thời gian duy nhất anh ta lãng phí là lựa chọn một dụng cụ và sau đó xác định xem kích cỡ có chuẩn không. Sau đó chỉ còn là vấn đề tháo lỏng và xoay. “Và không có ai quấy rầy các cậu trong suốt thời gian đó sao?” Benny hỏi Jim. “Đó là tầng năm mươi chín mà,” Jim điềm nhiên giải thích. “Thậm chí còn chẳng có ai đi qua.” Vì cánh nhân viên và khu vệ sinh ở phía bên kia của tầng, Benny không nghi ngờ điều đó. Yop thao tác một cách bình tĩnh và thành thạo trong khi Jim tiếp tục quan sát, ấn tượng trước cách Yop sử dụng các dụng cụ và chức năng của chúng. “Cái đó gọi là gì ấy nhỉ,” Jim hỏi Benny, “chỗ mà cậu có mấy cái đầu mẩu liền, tất cả có kích thước khác nhau, rồi cậu gắn chúng vào với dụng cụ chính tùy thuộc vào kích thước mình cần ấy?” “Cậu đang hỏi tôi đấy à?” Benny nói. “Tôi không phải là chuyên gia về dụng cụ.” “Tôi nghĩ nó được gọi là một cái cờ lê Allen,” Jim nói. Khi Benny kể với Marcia rằng không ai biết chắc Yop đã dùng thứ gì để tháo chiếc ghế, Marcia trả lời, “Các anh không biết cờ lê Allen là gì á?” Khi Marcia kể với chúng tôi chuyện đó, chúng tôi biết ngay rằng chắc chắn Benny phải cảm thấy đau điếng thực sự vì sự thiếu hụt chất đàn ông của mình khi không biết rõ về các dụng cụ trước mặt Marcia, người có lẽ có thể tháo rời một chiếc xe máy cả khi bị bịt mặt sau ngần ấy năm cô ta trải qua ở mạn Bờ Nam với bốn người anh em trai. “Chúng được gọi là những hốc tròng,” cô ta nói, “và đó là một cái cờ lê tròng, không phải cờ lê Allen. Một cái cờ lê Allen dùng để mở một con ốc Allen, là thứ có lỗ bên trong vừa với cái cờ lê - ôi, thật khó mà giải thích. Anh chưa bao giờ lắp một cái bàn à? Hoặc một cái giá sách?” “Một lần, tôi làm rồi,” Benny nói. “Hồi đại học.”
Không giống Jim hoặc Benny, Yop rất thành thạo. “Anh học cách làm việc bằng tay ở đâu vậy?” Jim hỏi anh ta. Yop không trả lời. Điều duy nhất mà anh ta làm là bắt đầu huýt sáo một chút. Vốn là một tay huýt sáo dở tệ anh ta nhanh chóng từ bỏ. “Thực lòng mà nói,” anh ta vừa nói với Jim vừa nhích những bước nhỏ bằng đầu gối của mình để chỉnh lại tư thế so với chiếc ghế. “Tôi lấy làm mừng là không ai gửi email cho tôi. Chắc chắn là tôi không đời nào lại muốn làm việc ở một nhóm nơi mà các thành viên khác trong nhóm không hề có chút tôn trọng nào dành cho tôi, Jim. Chỉ là với riêng cá nhân tôi thôi. Nhưng còn cậu, cậu làm những gì cậu cần làm. Cậu giữ cái này cho tôi được không?” Yop lục lọi trong hộp đồ nghề và cầm lên thứ mà Jim cảm như là một dụng cụ chọn bừa và giơ nó ra trước mặt anh ta.
Benny muốn biết là anh ta có cầm nó không, “Ừ, tôi đã cầm nó,” Jim nói. Benny hét lên. “Mà đó là tầng năm mươi chín, trời ạ! Nếu có người đi qua nhìn thấy cậu đang cầm một cái dụng cụ trong khi Yop đang tháo rời chiếc ghế đó ra, cậu nghĩ họ sẽ hiểu là cậu chỉ đang cầm hộ anh ta một cái dụng cụ thôi sao?” “Tôi không để ý!” Jim thốt lên. “Tôi không biết tại sao anh ta lại nói những gì anh ta đang nói. Anh ta nói anh ta không muốn làm việc ở một nhóm nơi mà không ai có chút tôn trọng nào đối với anh ta, rồi lại bảo tôi cần làm những gì tôi cần làm. Anh ta nói thế là ý gì, Benny? Có phải là những người khác trong nhóm không có tí tôn trọng nào đối với tôi? Liệu đó có phải là điều anh ta đã cố nói với tôi không? Ý tôi là, tôi biết Marcia không thích tôi...”
Marcia nhảy chồm về phía trước trên chiếc ghế trước mặt Benny. “Anh ta nói vậy à?” cô ta hỏi với vẻ hốt hoảng bực bội. “Anh ta nói rằng anh ta biết tôi không thích anh ta?”
“... nhưng còn tất cả những người khác thì sao?” Jim hỏi.
Cuối cùng thì Yop cũng xong việc. Anh ta đứng lên phủi bụi trên quần. Anh ta choàng lại chiếc áo vest lên người. Sau đó anh ta cúi xuống đặt những thứ còn lại vào trong va li - từng chiếc bù loong và ốc vít, những cái để tay, cần bẩy, thanh nâng, và phần mặt ghế bọc vải. Nhưng anh ta đã đánh giá thấp kích thước của tấm dựa lưng, nên bất kể anh ta có xoay thế nào hoặc ấn mạnh đến đâu đi nữa, lúc nào nó cũng thừa ra mất vài ba phân, khiến anh ta không thể kéo khóa chiếc va li lại được. “Chết tiệt,” anh ta nói, ngẩng lên nhìn Jim. Thế là Jim mang ra cho anh ta, sau khi bọc nó lại bằng thứ giấy gói đồ chúng tôi để trong phòng kho.
“Jim, thế là thế quái nào!” Benny thốt lên. “Tại sao cậu lại đi giúp thằng cha đó thoát ra chứ?”
“Tôi cảm thấy áy náy vì cách anh ta nghĩ chúng ta đã đối xử tệ bạc với anh ta như thế nào ở quầy cà phê,” Jim nói.
“Ôi, lạy Chúa tôi,” Marcia nói với Benny. “Tôi ước giá kể anh vừa đừng có kể cho tôi điều đó.”
Benny muốn biết tại sao Marcia lại lấy làm khó chịu khi nghe về ý tốt không đúng chỗ của Jim đối với Chris Yop. “Bởi vì tôi mới tệ bạc làm sao với thằng cha đó.” “Với Yop à?” “Không,” cô ta trả lời. “Ừm, đúng, với Yop, nhung đặc biệt là với Jim. Và thằng cha đó - anh ta chỉ muốn được yêu quý!” “Cô không tệ bạc đến thế với cậu ta đâu,” Benny cố gắng vỗ về cô ta. “Cũng chẳng tệ bạc hơn bao nhiêu nếu so với bất kỳ ai khác.” “Không, tôi đúng là như thế đấy,” Marcia nói. “Tôi thật là kinh khủng.” Nhìn cô ta đau khổ thấy rõ. Một bàn tay đưa lên bên vầng trán nhíu lại của cô ta, như thể cô ta đang cố che giấu ánh mắt của mình và biến mất khỏi nỗi xấu hổ. Nhưng, trời ạ, Benny nghĩ bụng, quả là kiểu tóc mới làm cô ta trông thật xinh đẹp.
“Vậy hãy nói thật với tôi đi, Benny, liệu họ có chút tôn trọng nào đối với tôi hay không?” Jim đã hỏi anh ta.
“Và anh đã trả lời anh ta như thế nào?” Marcia muốn biết.
“Tôi nói lòng vòng,” Benny nói. “Tôi không hoàn toàn nói dối cậu ta, nhưng tôi cũng không hoàn toàn nói sự thật với cậu ta.” Marcia nói với Benny rằng cô ta muốn anh ta tiếp tục kể nốt phần còn lại của câu chuyện.
Yop bước ra khỏi tòa nhà kéo chiếc va li đen của anh ta dọc theo mặt sàn cẩm thạch. Mặc vest đeo cà vạt, trông anh ta giống như bất kỳ doanh nhân nào khác đang trên đường ra sân bay. Không một ai ở bàn dưới sảnh nhầm anh ta với tay Chris Yop mặc áo sơ mi Hawaii ở phòng sáng tạo. Kiểu ăn diện chải chuốt đầy toan tính của anh ta làm lộ ra sự lọc lõi đầy tội phạm thành thực mà nói lẽ ra cũng hơi đáng phải dè chừng, nhưng đây đang là một thời kỳ vẫn còn ngây thơ, và vì vậy chúng tôi cũng không quá bận tâm về nó sau khi biết chuyện. Một lát sau đó, Jim đi ra với tấm dựa lưng được bọc trong giấy màu nâu - chỉ là một người đang mang gói bưu phẩm quá cỡ ra bưu điện. Thực ra, anh ta đã dán cả một tờ nhãn địa chỉ lên trên để trông như thật.
“Jim,” Benny vừa nói vừa buồn bã lắc đầu.
Họ gặp nhau ở trước một cửa hàng tiện lợi ở góc phố và Jim bước theo Yop đi ra hồ. Khi nỗi thôi thúc xâm chiếm lấy Yop, chuyện vốn xảy ra thường xuyên, anh ta bất thình lình quay lại trên vỉa hè và nói với Jim điều anh ta nghĩ trong đầu. “Sẽ không còn xúc phạm họ thêm nữa,” anh ta nói, khi anh ta quay ngoắt lại lần thứ nhất, chặn ngay trước đường đi của Jim. “Hãy đảm bảo khi quay lại đó cậu sẽ nói với họ rằng, Jim ạ, rằng Chris Yop không còn ở trong tòa nhà nữa để mà xúc phạm họ bằng sự có mặt của anh ta. Và tôi sẽ không bao giờ quay lại. Họ sẽ sung sướng biết bao, tôi tin chắc thế. Karen Woo. Và cái con Marcia khốn kiếp đó.”
“Tại sao lại chửi riêng tôi?” Marcia hỏi. “Tôi đã làm gì đâu chứ?”
“Chắc chắn anh ta mất trí rồi,” Benny nói. “Tôi sẽ chẳng hơi đâu mà tự ái.”
Giá kể có cơ hội, kiểu gì Jim cũng sẽ đáp lại rằng anh ta không nghĩ có bất kỳ ai lại thấy bị xúc phạm vì việc Chris vẫn còn ở trong tòa nhà, chỉ là chút băn khoăn tại sao, nhất là khi Lynn Mason đã cho anh ta nghỉ việc từ hai ngày trước đó. Nhưng rõ ràng là Yop không hề tìm kiếm câu trả lời. Anh ta quay ngoắt lại và bước tiếp, để mặc Jim đuổi theo. Phải giữ tấm dựa lưng của chiếc ghế trước mặt khiến Jim không nhìn thấy mặt đất và suýt nữa ngã lộn cổ vì một chỗ mấp mô trên vỉa hè. Lần tiếp theo Yop quay người cũng đột ngột không kém, và Jim hơi giật mình lùi lại. “Ơn Chúa, Jim, ơn Chúa vì tình yêu của một người phụ nữ tận tình.” Jim những tưởng Yop đang cố chọc vào mắt anh ta bằng ngón tay đang chĩa ra của mình. “Đó là thứ duy nhất đáng giá một xu. Không có Terry,” anh ta kết luận, “cả cái thế giới này chỉ là thứ vứt đi.”
Anh ta quay người đi tiếp. Những bánh xe dưới chiếc va li của anh ta đập đều đều lên những mép gờ nối của vỉa hè. Anh ta quay người lần thứ ba, nhưng chỉ để nói, “Những kẻ được gọi là bạn của cậu ấy mà. Đúng là trò hề.” Jim chờ đợi thêm, nhưng Yop, vừa cười không một chút đùa cợt vừa chậm rãi lắc đầu, không nói gì. Anh ta dừng lại đủ lâu để Jim trả lời - gần như thể là anh ta muốn như thế - nhưng Jim luống cuống không biết nói gì. Khi Yop quay người lại anh ta buột ra một tiếng cười hằn học, khoái trá. Khi cách hồ hai khối nhà, họ bị mắc lại tại một đèn đỏ và phải đứng cạnh nhau trong khi dòng giao thông đi qua. “Thậm chí còn không thèm đếm xỉa,” Yop nói, quay lại phía anh ta. “Cậu nghe thấy chứ? Bảo đảm là cậu nói với họ nhé. Thậm chí còn không thèm đếm xỉa.” “Đếm xỉa?” Jim nói. “Anh nói vậy nghĩa là gì cơ, thậm chí còn không thèm đếm xỉa?” “Nói vậy không có nghĩa là họ thèm bận tâm dù ngày mai tôi có chết rũ ra đấy,” anh ta nói thêm.
“Ôi lạy Chúa tôi, vậy mà tôi đã xé tờ sơ yếu lý lịch của anh ta rồi ném vào mặt anh ta nữa chứ,” Marcia nói. “Như thế đâu có nghĩa là tôi muốn thằng cha đó chết.”
“Tôi không biết,” Benny nói, “có thể là lẽ ra chúng ta nên gửi email cho anh ta.”
Vào thời điểm đó trong ngày, con đường đi dạo dọc hồ Michigan khá vắng vẻ. Vả lại hầu hết mọi người cũng chẳng đi hết một mạch cả chặng đường xuống đến điểm cuối phía Nam, nơi mà đất liền quành gập ra mặt nước và con đường đi dạo kết thúc ở một bãi cát nhỏ. Mặc dù khí lạnh còn rơi rớt, trời vẫn ngập tràn ánh nắng, và xa xa phía bên phải họ một vài dân bơi rắn mặt đang mang lại cho cái hồ những dấu hiệu đầu tiên của cuộc sống mùa hè. Ngoài ra, chỉ có Jim cùng với Yop và thỉnh thoảng là một người chạy bộ già cả nào đó. Yop đặt chiếc va li xuống nghỉ ngay phía sau bờ kè, kéo khóa và lấy hai trong số những bánh xe của chiếc ghế từ bên trong ra, trèo qua bờ kè, và tiến ra mặt nước. Đúng lúc anh ta vặn người lại, một cơn gió tháng Năm dữ dội nổi lên. Yop quăng chiếc bánh xe đầu tiên xuống hồ Michigan trong lúc cà vạt của anh ta bay phần phật theo hướng ngược lại. Khi anh ta quay về chỗ đặt va li, chiếc cà vạt vẫn nằm vắt trên một bên vai. “Các cậu nghĩ tôi muốn khóc à?” anh ta hỏi Jim. “Đâu phải tôi khóc cho mình,” anh ta nói. “Mà là tôi khóc cho Terry. Tôi khóc cho Terry và tôi.” Đến lúc này thì Jim biết là không đáp lại làm gì. Anh ta nhìn Yop liệng nốt phần còn lại của chỗ bánh xe và phần tay dựa xuống nước. Hai cái tay dựa nổi lềnh bềnh, cả phần mặt ghế lót và lưng dựa cũng thế - Yop lẳng tấm tựa lưng đi theo phóng cách ném đĩa Frisbee, nguyên xi cả lớp giấy bọc màu nâu - nhưng phần trụ màu bạc thì chìm nhanh chóng. Anh ta đứng trên mép nước dốc ngược cái va li mà giũ. Tất cả mọi con ốc và bu loong rơi tõm xuống hồ. Sau đó anh ta kéo khóa chiếc va li lại và quay lại nơi Jim vẫn đứng nhìn anh ta, ngay phía bên kia bờ kè. Anh ta nhấc cái va li lên, trèo qua bờ kè lần lượt từng chân một và đặt những bánh xe của va li xuống trở lại mặt đất rồi bắt đầu bước đi, nhưng sau đó lại dừng bước và quay người lại để nói với Jim. “Tôi muốn cảm ơn vì sự giúp đỡ của cậu, Jim,” anh ta nói, “nhưng tôi vẫn luôn coi cậu là một thằng ngốc.”
Câu nói cuối cùng của Yop với Jim Jackers làm Marcia như phát rồ. Cô ta nép sâu vào trong ghế, rúm người lại thành một quả bóng của nỗi xấu hổ và hối hận, rồi thốt lên, “Làm ơn hãy nói là anh ta không nói thế!” Cô ta thề sẽ không bao giờ cay nghiệt với Jim nữa. Cô ta thề sẽ không bao giờ cay nghiệt với bất kỳ ai nữa. “Làm sao anh ta có thể nói thế với Jim được chứ?” cô ta hỏi. “Thì mới hôm trước cô cũng nói với cậu ta thế còn gì,” Benny nói. “Nhưng làm sao anh ta có thể nói thế mà lại cố ý chứ?” cô ta hỏi. Marcia là một người hiếm hoi trong chúng tôi đi dùng hành động tàn nhẫn của người khác để nhắc nhở về sự tàn nhẫn của chính mình, và lại còn cảm thấy ân hận vì cả hai. Cô ta đặt ra lời thề giống như những gì cô ta đang đặt ra với Benny - không bao giờ cay nghiệt nữa - cứ hai ba tuần một lần, cho đến khi điều gì đó mà Jim nói hoặc làm lại khiến cô ta nổi cơn tam bành, đến mức bảo anh ta câm mồm đi và biến khỏi phòng của cô ta. Điều dễ chịu ở Marcia là ở chỗ cô ta nói thẳng những điều đó vào mặt anh ta, nhưng khác với Yop, chúng không phải là những lời nguyền rủa đời đời. Chẳng qua chúng chỉ là sự thể hiện nhất thời cơn cáu tiết của cô ta - những điều mà chúng tôi muốn nói, nhưng chúng tôi không có can đảm - và chúng luôn để lại hậu quả là những cơn ăn năn hối lỗi đến phát điên.
“Jim chẳng có vẻ gì là tự ái vì câu đó đến thế đâu, tin hay không thì tùy,” Benny an ủi cô ta. “Cậu ta chỉ muốn biết là tôi có nghĩ cậu ta là một tên ngốc hay không.”
“Và anh đã nói không, đúng không?” Marcia nói. “Benny, hãy nói với tôi là anh không nói gì tương tự như thế đấy chứ.”
“Tất nhiên tôi bảo cậu ta rằng cậu ta là một thằng ngốc,” Benny nói. “Tôi phải nói, Marcia. Nếu như tôi bảo cậu ta rằng cậu ta không phải là một thằng ngốc, thì cậu ta cũng biết tôi nghĩ cậu ta là người như vậy.”
“Cái chỗ này đúng thật là khốn nạn,” cô ta nói.
Chúng tôi cũng lấy làm phẫn nộ cho Jim. Anh chàng đáng thương đó đã liều mình giúp Yop ra tay trả thù mụ quản lý văn phòng cùng hệ thống số series của mụ ta, và rồi anh ta bị bỏ lại với một câu xúc phạm. Chúng tôi tụ tập lại bên cạnh Jim. Chúng tôi bảo anh ta đừng đếm xỉa đến câu đó. Sau đó chúng tôi cố gắng hiểu Yop có thể có điều gì chống lại chúng tôi. Tại sao anh ta lại hưởng tất cả sự tức tối của mình vào chúng tôi, chúng tôi hỏi Jim, khi mà, một khi đã tháo rời chiếc ghế của Tom Mota và lẳng xuống hồ, đối tượng cho nỗi phẫn uất của anh ta rõ ràng là nhắm vào một người cụ thể, không phải mụ quản lý văn phòng thì còn ai nữa? Jim không biết, trừ việc nói rằng Yop tự ái vì chúng tôi đã không gửi email cho anh ta hướng dẫn về những thay đổi đối với dự án. Nhưng anh ta còn định làm gì sau khi nhận được những hướng dẫn đó chứ? Cứu vãn công việc của anh ta chắc? Chúng tôi thấy mình bị mang tiếng ác.
“Ít nhất thì tôi cũng hiểu Tom Mota,” Marcia nói với Benny. “Tom chỉ ngập tràn trong nỗi uất ức vì cuộc đời của anh ta ra nông nỗi đó. Nhưng còn Chris Yop? Chris Yop thì đơn giản là tôi không hiểu.”
Cuối cùng thì chúng tôi phải hiểu rằng tất nhiên Yop sẽ căm ghét chúng tôi. Chúng tôi vẫn có việc làm, còn anh ta thì không. Anh ta vẫn đang làm việc trên những ý tưởng quảng cáo gây quỹ đã lạc hậu trong khi chúng tôi biết dự án đã thay đổi. Chúng tôi đã tụ tập cùng nhau ở quầy cà phê, trong khi anh ta bị gạt ra rìa.
“Nhưng Chris Yop đâu phải là lý do tôi vào đây, đúng không nhỉ?” Marcia nói.
“Tôi không nghĩ vậy,” Benny nói.
“Là gì ấy nhỉ?” cô ta tự hỏi. “Tại sao mình lại ghé vào?”
“Tôi không biết,” anh ta trả lời, hớn hở, hy vọng.
“Ôi lạy Chúa tôi,” cô ta chợt thốt lên. “Anh có tin được là mới có ba giờ mười lăm không?”
Có những ngày cảm giác dài hơn những ngày khác. Có những ngày cảm giác như là cả hai ngày liền. Tiếc là những ngày đó không bao giờ là những ngày cuối tuần. Những ngày thứ Bảy và Chủ nhật của chúng tôi qua đi trong khoảng thời gian chỉ bằng một nửa so với ngày làm việc bình thường. Nói cách khác, có những tuần cảm giác như thể chúng tôi làm việc mười ngày liền một mạch và chỉ có một ngày nghỉ. Chẳng phải chúng tôi kêu ca gì. Thời gian đang được thêm vào trong cuộc đời của chúng tôi. Nhưng chính xác thì cũng chẳng dễ dàng gì để sung sướng khi nhận ra rằng đúng là thời gian đang chuyển động không đủ nhanh. Chúng tôi có một số đồng hồ bao quanh mình, và mỗi một chiếc trong số đó vào lúc này hay lúc khác lại thể hiện một khiếu hài hước sinh động. Chúng tôi nhận ra mình muốn giục thời gian trôi nhanh hơn, điều mà về lâu dài là không tốt cho sức khỏe của chúng tôi. Mọi người đều bị mắc kẹt trong mâu thuẫn đó nhưng không ai từng dám thừa nhận nó. Họ chỉ nói, “Anh có tin được là mới có ba giờ mười lăm không?”
“Anh có tin được là mới có ba giờ mười lăm không?” Amber hỏi Larry Novotny. Dám cá là Larry có thể tin rằng bây giờ là ba giờ mười lăm. Larry có thể tin rằng bây giờ là mười một giờ năm mươi chín phút và đồng hồ sắp đổ chuông nửa đêm mà thống đốc thì vẫn chưa thấy gọi. Thời gian đang hết một cách trầm trọng đối với Larry. Liệu cô nàng có thực hiện ca nạo thai không? Đó không phải là điều mà anh ta cứ mười lăm phút lại hỏi một lần, năm phút một lần tất nhiên lại càng không, mặc dù giờ đây thời gian trôi đi thành từng quãng năm phút một, ở cuối mỗi quãng anh ta lại cân nhắc hỏi cô ta lần nữa xem cô ta có định làm không hay thế nào. Anh ta thường quyết định sẽ không hỏi cô ta nữa, sau khi đã hỏi mới trước đó có mười hai quãng năm phút, quãng thời gian mà, trước khi tất cả chuyện này bắt đầu, cũng chỉ là một tiếng đồng hồ, nhưng giờ đây cảm giác như thể mười hai hoặc thậm chí là mười bốn tiếng. Amber đã nói rõ ràng rằng cô ta không muốn bị hỏi mỗi tiếng một lần liệu cô ta có đi nạo thai không.
“Họ vẫn ở dưới kia à?” cô ta hỏi Larry. “Anh nghĩ họ đang làm gì dưới đó nhỉ?”
Larry đứng lên thò đầu về cuối hành lang phía văn phòng của Lynn Mason nơi cánh cửa vẫn đóng. Họ đã nhìn thấy Genevieve và Joe bước vào mười phút trước, hoặc gần hai tiếng trước, theo như chiếc đồng hồ mới của Larry, và trong khoảng thời gian mười phút đó, Larry đã khổ sở vật vã với chính mình, hai lần, liệu có hay không đưa lại vấn đề này ra với Amber. Khi quay về anh ta đập chiếc mũ lưỡi trai lên quần jean ba lần và rồi lại chụp nó lên đầu, gật đầu xác nhận. Họ vẫn đang ở dưới đó.
“Anh nghĩ họ đang nói về chuyện gì nhỉ?” cô ta hỏi.
Larry nghĩ có lẽ họ đang nói về việc liệu Amber có nên bỏ cái thai đi không. Có lẽ họ đang bàn cãi về nỗi bất hạnh mà Larry đang đối mặt, và anh ta chẳng sung sướng gì khi đi nói với vợ mình rằng anh ta không chỉ lăng nhăng mà người phụ nữ đó lại còn dính bầu và có ý định giữ cái thai. Chẳng có cách nào để xoay chuyển chuyện này theo hướng tốt đẹp, chẳng làm thế nào để có thể nói một cách hồ hởi, “Charlie sắp có một cậu em trai cùng cha khác mẹ!”
“Họ đã ở trong đó được bao lâu rồi nhỉ?” Amber hỏi. “Mười phút chưa? Cảm giác như là hai mươi phút ấy.”
“Cảm giác như là hai tiếng đồng hồ vậy,” Larry nói.
Thật đáng thất vọng và hơi khó chịu khi Amber bận tâm đến một vụ khủng hoảng đang diễn ra ở một văn phòng nào khác trong khi cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn lại đang diễn ra ngay tại đây. “Em đã, ừm…” anh ta bắt đầu, “nghĩ thêm chút nào về, ừm...”
Cô ta đang mải vặn cái cần nhỏ màu trắng trên một món đồ chơi dây cót. Đó là một món đồ chơi trẻ em từ một suất Happy Meal, hình một chiếc bánh mì rắc hạt vừng kẹp thịt băm pho mát với đủ các thứ trang trí vẽ bên trên. Nó còn có cả một đôi bàn chân to đùng màu trắng. Cuối cùng thì món đồ chơi cũng không thể được vặn thêm chút nào nữa và cô ta cúi người xuống trên ghế rồi đặt chiếc bánh kẹp xuống thảm. Đôi chút khiếm khuyết nhỏ nào đó ở đôi bàn chân làm nó đi từ từ thành vòng tròn, lặp đi lặp lại hết lần này sang lần khác cho đến khi cuối cùng nó dừng hẳn và căn phòng yên tĩnh trở lại.
Cuối cùng khi cô ta nhìn vào mắt anh ta, anh ta nhận thấy mắt cô ta đã đỏ lên. Ôi, không, anh ta nghĩ. Không phải lại thế chứ. Anh ta trật chiếc mũ ra khỏi đầu lần nữa và vuốt ngược tóc của mình. Sau đó anh ta lại đội mũ vào.
“Em cứ đi đi lại lại,” cô ta nói.
Jim Jackers tích cực làm việc với vụ quảng cáo không công và đã miệt mài vật lộn với chúng suốt mấy tiếng đồng hồ liền, kể từ lúc quay về sau khi giúp Chris Yop ném chiếc ghế của anh ta xuống hồ Michigan. Lúc ngẩng đầu lên khỏi cái trang trống trơn để nhìn chiếc đồng hồ đang nhấp nháy, anh ta phát hiện ra mới chỉ có ba giờ mười lăm. Anh ta tự nhủ hôm nay có lẽ là ngày dài nhất trong đời mình. Anh ta không chỉ bị gọi thẳng vào mặt là một thằng ngốc, mà còn không thể làm gì để phản đối quan điểm đó, bởi vì anh ta thậm chí còn không thể nào nghĩ ra nổi lấy một điều buồn cười để nói về bệnh ung thư vú.
“Mấy giờ rồi, Joe?” Lynn Mason hỏi.
Joe liếc nhìn đồng hồ của anh ta. “Ba giờ mười lăm,” anh ta trả lời.
Chị với tay lên chỉnh lại kim của một chiếc đồng hồ quả lắc. Nó đang đứng dựa vào bức tường phía xa, phía bên trái chiếc sofa bọc da trắng, và nó là bằng chứng cho việc căn phòng này từng bừa bộn như thế nào trước khi chị và mụ quản lý văn phòng dọn sạch mọi thứ, vì không ai trong chúng tôi còn có tí ký ức nào về một chiếc đồng hồ quả lắc. Nó đã hòa lẫn vào khung cảnh cùng với tất cả mọi thứ khác, hoặc có lẽ đã bị che khuất bởi những thùng đầy ngất hồ sơ cũ của cánh luật sư. Hoặc có lẽ chỉ vì chúng tôi không phải là những người sâu sắc cho lắm. Nhưng giờ đây khi mà những chồng tạp chí cũ, hồ sơ chết và những thứ đại loại đã bị dọn đi, có thể nhận ra một nỗ lực làm cho phòng làm việc của chị trông giống như một văn phòng tử tế. Bàn làm việc được kê thật xa cánh cửa, để khi ngồi tại đó, chị có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ trước mặt mình - bản thân cái cửa, cái bàn mặt kính ở bên trái, những giá sách và chiếc ghế bành cổ dựa vào tường bên phải, rồi chiếc sofa và cái đồng hồ quả lắc đang nhìn lại chị từ bức tường cuối phòng.
Mười phút trước đó, tiếng gõ cửa của Genevieve và Joe đã làm gián đoạn việc dọn dẹp của chị. Hầu hết công việc đã được làm từ ngày hôm trước, nhưng buổi chiều hôm đó chị đã bị gọi đi họp với các thành viên quản trị khác để thảo luận chiến lược cho hai thương vụ mới sắp tới. Giờ chị đang hoàn thành nốt những nét điểm xuyết cuối cùng cho một phòng làm việc cơ bản là mới tinh. Chị trả lời tiếng gõ cửa bằng cách gọi với ra và Joe thò đầu vào. “Tôi đến đây với Genevieve,” anh ta nói. “Chị có rảnh một phút không?” Chị ra hiệu cho họ vào trong bằng cách phẩy nhanh một chiếc giẻ bẩn. Khi Genevieve bước vào phía sau Joe, cô nói. “Chào chị, Lynn.” “Vào đi,” Lynn nói, “xin mời ngồi.” Thật lạ lùng khi nhìn thấy Lynn Mason với một lọ xi và một chiếc giẻ, đang mặc váy cúi gập người cọ bóng sàn gỗ bên cạnh bàn làm việc của mình. Họ làm theo lời chị và ngồi xuống hai chiếc ghế song sinh được kê ngay phía trước bàn làm việc của chị. Ngay lập tức họ phải quay sang bên trái khi chị tiếp tục lau xi cho giá sách và sau đó là phần khảm gỗ trên chiếc ghế bành cổ của mình. Vừa làm việc, chị vừa nói với Joe rằng chị đã yêu cầu Mike Boroshansky cắt cử riêng một trong những người của ông ta trực toàn thời gian tại năm tầng của công ty.
“Một nhân viên an ninh?” Joe nói. “Sao lại thế?”
“Bởi vì đơn giản là chúng ta không thể mạo hiểm được,” chị trả lời.
Genevieve thầm nghĩ chị phủi bụi cũng theo cái cách mà chị làm mọi việc khác, với vẻ hết sức say sưa và uy quyền. Đây là lần đầu tiên cô cảm thấy e sợ bởi việc một người khác phủi bụi. Cô ngồi yên lặng.
“Nhưng Lynn này,” anh ta nói, “chỉ có một hoặc hai người thực sự tin rằng anh ta có thể là mối đe dọa. Hầu hết đó chỉ là chuyện ngồi lê đôi mách thôi mà.”
“Không chỉ riêng tôi đâu, Joe. Mà còn những thành viên quản trị khác nữa,” chị nói.
Chị dịch chuyển từ chiếc ghế bành qua chiếc sofa bọc da phía sau họ và bắt đầu lau khắp cả chiếc ghế đó nữa. Joe xoay người trên ghế để giữ chị trong tầm mắt của mình và nói chuyện với chị qua lưng ghế tựa. Genevieve chọn cách tiếp tục nhìn thẳng về phía trước.
“Những bức email gần đây cho Benny và Jim,” Lynn đang nói, “cách anh ta rời khỏi nơi này, cách cư xử của anh ta với vợ mình - người đàn ông đó đập tan tất cả đồ đạc của mình bằng một cây gậy bóng chày. Nghe này, tôi không nói tôi nghĩ dứt khoát là anh ta đang trên đường quay lại đây,” chị nói, và nhìn Joe trong một khoảng nghỉ ngắn trong lúc lau bụi, “nhưng một khi anh ta đã bị ức chế bởi điều gì đó, anh ta không hành động đúng đắn nữa, không giống như một người bình thường, và tôi không nghĩ chúng ta có thể mạo hiểm.”
Chị hướng sự chú ý của mình quay lại chiếc sofa. “Nhưng làm thế nào một nhân viên thuộc lực lượng bảo vệ có thể chặn được anh ta nếu anh ta quay lại?” Joe hỏi. Genevieve ngạc nhiên trước sự thay đổi bất ngờ của anh ta, và nhận ra một phát hiện mới mẻ về sự cởi mở trong đối thoại diễn ra giữa hai người khi những người còn lại trong nhóm đã ra khỏi phòng.
Nhưng đó không phải là tin chấn động thực sự. Tin chấn động đích thực là giờ đây Lynn Mason cũng ấp ủ ý nghĩ về việc Tom Mota đang lên kế hoạch quay lại. Cho đến lúc ấy thì quan điểm này mới chỉ có một phát ngôn viên nghiêm túc - Amber Ludwig, người lo lắng về tất cả mọi chuyện. Bảo vệ đã dán ảnh của anh ta tại quầy dưới sảnh, nhưng bọn họ chỉ là một lũ hề dở hơi dưới đó. Mối lo lắng của Lynn Mason đã hợp pháp hóa ý tưởng này. Đó là một động thái mới mẻ và đáng ngại.
“Chúng tôi đang xin lệnh cấm anh ta bén mảng đến khu vực này,” chị nói, “nhưng trong thời gian trước mắt, Mike sẽ cho chúng ta một người, và chúng ta sẽ cắt anh ta đứng bên ngoài phòng làm việc của cậu.”
“Tại sao lại là phòng tôi?” Joe hỏi.
“Vì phòng cậu trông thẳng ra thang máy, và nếu như anh ta quay lại, thì đây là tầng tôi nghĩ anh ta sẽ ghé thăm đầu tiên, và nói thật với cậu nhé, Joe, tôi nghĩ mối hận thù lớn nhất mà anh ta có có thể là nhằm vào cậu. Có lẽ là ngoại trừ tôi ra.”
“Tôi không đồng ý,” Joe nói. “Đúng là hồi đầu anh ta không thèm đếm xỉa gì đến tôi, nhưng đến khi anh ta ra đi, bất kể là vì lý do gì, tôi nghĩ là tôi đã dành được sự tôn trọng của anh ta. Và nói thật với chị, Lynn, chúng ta đang thổi phồng toàn bộ sự việc này quá mức cần thiết.”
“Hừm,” chị nói, vẫn quay lưng lại phía anh ta. “Dù gì thì vẫn sẽ có một người bên ngoài phòng làm việc của cậu.”
Cuối cùng khi đã xong xuôi việc lau dọn, chị mở cánh cửa của chiếc đồng hồ quả lắc. Sau khi Joe thông báo giờ cho chị, chị chỉnh lại kim đồng hồ theo đó và lên dây cót đồng hồ bằng một chiếc chìa khóa. Chị cho quả lắc bằng đồng chuyển động trở lại rồi đóng cửa vào và nhìn nó lắc qua lắc lại. Trong khoảng im lặng đó Genevieve liếc nhìn lại xem chị đang làm gì, nhận ra chị đang đứng trước chiếc đồng hồ, và một lần nữa nhận ra chị mới nhỏ bé làm sao trong đời thực. Có lẽ Joe hoàn toàn có thể nhấc bổng chị lên khỏi mặt đất. Anh ta không phải là người lực lưỡng gì nhưng anh ta cũng không phải kẻ lòng khòng, và có lẽ anh ta có thể nắm lấy hai cánh tay của chị nhấc bổng lên, có thể là thẳng một mạch cho đến hết tầm tay của anh ta, và đúng đến ý nghĩ Joe nhấc bổng Lynn Mason lên không trung như vậy, như một đứa trẻ, mà không hề khó nhọc gì cho lắm, thậm chí còn xoay tròn chị trên cao, Genevieve phải nuốt lại tiếng cười đang trào lên trong cổ họng cô, vì đúng lúc đó Lynn đang quay trở lại bàn làm việc của mình và kéo ghế ra để ngồi xuống. Ngay lập tức chị lại trở nên lừng lững và đáng sợ hơn bao giờ hết.
“Nào,” chị nói, “hai người muốn nói về chuyện gì đây?”
“Giờ thì tôi nhớ là chuyện gì rồi!” Marcia thốt lên.
Cuối cùng thì cô ta cũng nhớ ra. Cô ta đã nghe nói là Benny sẽ bán cây cột tô tem và cô ta muốn ngăn anh ta lại. “Ai nói với cô là tôi sắp làm thế?” anh ta hỏi. Chỉ là việc thường xuyên phải đến thăm nom - việc tăng giá thuê và sự lưỡng lự của anh ta trong việc trả phần phụ trội. “Nhưng làm gì có ai nói là tôi sắp bán nó chứ?” anh ta hỏi. “Đừng làm thế,” Marcia van vỉ. “Làm ơn, Benny. Anh muốn họ thắng à?” “ ‘Họ’ là ai cơ?” anh ta hỏi với vẻ cảnh giác. “Từng người một trong cái lũ khốn kiếp ấy,” cô ta trả lời. Cô ta nhất thời quên mất lời thề của mình là không bao giờ ác nghiệt nữa. “Nếu anh bán nó, Benny, anh sẽ dâng tặng một chiến thắng cho tất cả lũ khốn kiếp ngu xuẩn trong công ty. Anh không muốn làm như thế đâu, Benny, anh không muốn. Và tôi không muốn thấy nó xảy ra.” “Điều tôi muốn làm,” anh ta thành thật nói, “là tôi muốn dừng việc trả ba trăm đô la một tháng, một số tiền mà tôi không có, cho cái chỗ cho thuê chứa đồ đó - đó là điều tôi thực sự muốn.” “Tôi sẽ trả phần chênh lệch,” cô ta nói. “Cô sẽ làm gì cơ?” “Khoản chênh lệch giữa những gì mà anh đang trả ngay lúc này với mức tăng mới,” cô ta nói. “Là bao nhiêu nào? Tôi sẽ trả. Hằng tháng tôi sẽ viết cho anh một tờ séc.” “Tại sao cô lại làm thế?” anh ta hỏi.
Một phần, cô ta giải thích, là để giúp cứu chuộc lại tất cả những điều đáng ghét, đáng khinh bỉ mà cô ta đã làm kể từ cái ngày hạnh phúc đó khi cô ta được thuê vào làm. Đó là một nỗ lực để khôi phục lại sự cân bằng, để giành lại cho cô ta quyền ngẩng cao đầu và đứng thẳng người một cách kiêu hãnh. Benny không cần phải được nhắc mới biết là Marcia là một người tập tành nghiên cứu các tôn giáo châu Á. Thực ra anh ta đã miệt mài tìm đọc về chúng. Anh ta đã nghiên cứu về Tứ Cảnh[36], Bát Chính Đạo[37], rồi còn cả Thập Hạnh Ba-la-mật[38] của Đức Phật với hy vọng một trong số chúng sẽ được đề cập đến khi nói chuyện. Anh ta buột miệng ra những lời ám chỉ đến cây bồ đề trong rất nhiều câu chuyện mà anh ta kể. Marcia không hề phản ứng gì với bất kỳ điều gì trong đó như anh ta hy vọng, hoặc là bởi vì cô ta không chú ý, hoặc là vì những lời bóng gió đó chẳng có ý nghĩa gì đối với cô ta. Chúng tôi chẳng nói gì bởi vì Benny là người Do Thái, và chúng tôi mặc định rằng anh ta, với tư cách là một người Do Thái, biết nhiều về tôn giáo hơn những người còn lại trong chúng tôi. Nhưng kỳ tình thì anh ta đã sai lầm khi đi nghiên cứu đạo Phật, trong khi Marcia tự coi mình là một tín đồ đạo Hindu thì đúng hơn. Điều duy nhất mà anh ta làm đúng là một bản kinh Bhagavad Gita nằm trên bàn làm việc của mình, phía trên một số giấy tờ, với phần gáy sách nằm hướng một cách lộ liễu về phía cô ta.
“Để tôi nói xem tôi có hiểu đúng không nhé,” anh ta nói. “Cô muốn giúp hóa giải nghiệp chướng của mình,”
“Đúng,” cô ta nói.
“Thiện giả thiện lai,” anh ta nói, “và ác giả ác báo. Đó có phải là điều cô đang nói không?”
“Đúng rồi!” cô ta thốt lên. “Đó chính xác là những gì tôi đang nói. Làm thế nào mà anh lại biết được?”
“Tôi đang đọc về nó dạo gần đây,” anh ta nói.
Nhưng nó không đơn giản như việc cắt cho anh ta một tờ séc, cô ta giải thích cho tay tập tu. Nghiệp chướng sẽ không được hóa giải nếu một thiện chí được đưa ra chỉ để mong được nhận lại. Một động cơ chân thành và thuần khiết phải đi trước một hành động không vụ lợi. “Vậy động cơ của cô là gì?” anh ta hỏi. “Không phải nhìn bọn khốn đó giành chiến thắng,” cô ta trả lời thản nhiên. Benny nói anh ta đánh liều đoán thử, nhưng anh ta thấy lý do đó nghe có vẻ không được thuần khiết cho lắm. Marcia nhắc anh ta nhớ đến những người da đỏ Yopanwoo. Người da đỏ Yopanwoo chế giễu tất cả mọi bộ lạc da đỏ bản địa Mỹ từng phải gánh chịu sự bất công. Trò đùa cợt đó đã biến một vở bi kịch thành một vở hài kịch. Cô ta hứa với Benny rằng nó thuần khiết đúng như vốn thế. “Tôi xuất thân từ Bridgeport, cả đời mình tôi chưa bao giờ gặp một người da đỏ nào,” cô ta nói. “Nhưng tôi vẫn thấy bị xúc phạm. Và tôi nghĩ điều anh đang làm với nó - ý tôi là với cây cột tô tem của Brizz ấy. Thực lòng mà nói, tôi không hề biết anh đang làm gì với nó, nhưng tôi nghĩ bất kể có là gì đi nữa thì cũng… cũng thật...” “Kỳ quặc?” anh ta nói. “Không,” cô ta vừa nói vừa lắc đầu cùng với cả mái tóc đẹp-hết-sảy mới làm của mình. “Không, không phải là kỳ quặc. Cao quý.” “Cao quý?” anh ta nói. “Cô nghĩ như thế là cao quý à?” Anh ta thoáng tự hỏi không biết cô ta đã ở đâu với cái quan điểm về sự cao quý này khi bọn họ hú huýt vào anh ta từ sảnh lớn và vấy máu vào cái chỏm tóc còn nguyên da ấy trên bàn làm việc của anh ta - nhưng anh ta không phản đối gì mà vui vẻ đón nhận lời khen. Quan điểm tử tế của cô nàng thật quá bõ công trả ba trăm mười chín đô la mỗi tháng - mặc dù đó không phải lý do tại sao anh ta làm thế. “Vì thế để đấu tranh cho người da đỏ,” cô ta nói, “và để bảo đảm là lũ khốn ấy không giành chiến thắng, và để giúp anh làm bất kể điều gì anh nghĩ mình cần làm với cây cột tô tem của lão Brizz, anh hãy cho tôi biết khoản chênh lệch và tôi sẽ viết cho anh một tờ séc.” Cũng còn có một lý do thứ tư nữa, tất nhiên, đó là nó có thể giúp Marcia cải thiện nghiệp chướng của mình, nhưng cô ta bỏ cái đó ra khỏi bài kinh.
“Marcia,” anh ta nói, “không cần thiết phải thế đâu.”
“Tôi biết là không cần thiết,” cô ta nói. “Tôi muốn làm thế.”
“Tôi e là tôi đã tống khứ nó đi mất rồi,” anh ta nói.
Tay chuyên gia định giá đã đến tận U-Stor-It, và anh ta cho Benny biết không chỉ giá trị trên thị trường của cây cột tô tem mà còn cả một hai điều về nguồn gốc của nó. Anh ta tin rằng nó là tác phẩm của một bộ lạc có hậu duệ vẫn đang sống tại mạn Đông Nam Arizona. Những kỹ năng tạc gỗ vô tiền khoáng hậu của họ không ai sánh nổi, tạo ra một số tác phẩm nghệ thuật da đỏ bậc thầy và xuất sắc nhất trên thế giới - ấy là cho đến khi số lượng các thành viên bộ lạc giảm dần và việc sống sót trở nên khó khăn ảnh hưởng đến tay nghề của họ. Buổi sáng hôm đó, Benny đã nhận được một cuộc gọi từ tay chuyên gia định giá, người đã gửi những bức ảnh cây cột tô tem được chụp nhanh tại cơ sở chứa đồ cho những thành viên của bộ lạc tại Arizona. Anh ta thông báo cho Benny rằng vị thủ lĩnh của bộ lạc đã khẳng định với sự chắc chắn gần như tuyệt đối rằng cây cột là của họ. “Và có khoảng... mười người da đỏ như thế này còn lại trên thế giới,” Benny nói. “Tôi đang cường điệu lên, nhưng cũng chỉ xấp xỉ như thế thôi. Và họ không thể làm được những thứ này nữa - không phải như trước kia họ từng làm. Điều đó giải thích tại sao giá tiền lại cao thế. Nó là thứ không thể thay thế được.” “Làm thế nào,” Marcia nói, “mà Brizz lại có được nó nhỉ?” “Câu hỏi trị giá sáu mươi nghìn đô la đây,” Benny trả lời. “Hoặc tại sao lão ấy không bán nó đi khi lão cần tiền? Tôi không biết - và tôi không biết tại sao lão để lại nó cho tôi mà không phải là bất kỳ ai khác. Vì không biết là tại sao, tôi mới phải giữ rịt lấy nó. Nhưng bây giờ, tôi không nghĩ tôi có nhiều lựa chọn ngoài việc trả nó lại cho họ, một khi đã biết họ chỉ còn sót lại không được bao nhiêu người.” “Có thể đó là lý do tại sao ông ấy để lại nó cho anh, Benny - vì ông ấy biết anh sẽ tìm đúng người để trao lại nó.” “Có thể,” Benny nói. “Nhưng có một điều tôi nói với những người da đỏ đó, tôi sẽ không trả tiền cho việc vận chuyển và bảo quản. Đó là việc của các ông.” “Anh đã nói chuyện với họ?” “Qua điện thoại,” anh ta nói. “Nhân tiện, tôi đã định nói với cô. Tôi thích mái tóc mới của cô.”
Ngay lập tức cô ta quay ngoắt đi khỏi anh ta và bàn tay cô ta đưa lên chào đón mái tóc của mình với một cử chỉ thẹn thùng và ngượng ngập, như thể cô ta đang cố giấu nó khỏi anh ta. “Đừng có nói chuyện về tóc của tôi ngay lúc này,” cô ta nói.
“Tại sao lại không?”
“Bởi vì như thế thật là ngớ ngẩn. Chúng ta đang nói về chuyện khác cơ mà.”
“Cô không thích nó à?” anh ta hỏi.
Cô ta quay về phía bức tường đối diện, như thể trông đợi một chiếc gương ở đó, một thứ phản chiếu để tự ngắm mình trong đó. “Tôi không biết,” cô ta nói. “Chúng ta đừng nói về nó nữa.”
“Tôi nghĩ đây là kiểu tóc rất cập nhật,” anh ta nói.
Cô ta quay ngoắt lại nhìn anh ta. “Cập nhật?” cô ta nói. “Thế có nghĩa là thế quái nào?”
“Không, ý tôi chỉ là...”
“Nói câu đó nghe đúng là phát tởm,” cô ta nói.
“Không...”
“Tôi hoàn toàn không hiểu nói thế có nghĩa là thế quái gì,” cô ta nói, “nhưng nghe thật là phát tởm.”
“Không, tôi chỉ định nói là tôi thích nó.”
“Cập nhật,” cô ta nói. “Anh không được nói ‘cập nhật’. Benny ạ. Đó là từ rất sai.”
Không! Không! Anh ta đã cố gắng nói câu đó sao cho thật đúng! Anh ta đã cân nhắc những lựa chọn khác, những cách diễn đạt thay thế, nhưng anh ta cứ tưởng câu mình chọn dùng đã là hoàn hảo rồi. Anh ta đã tập nói thử hết lần này đến lần khác, cố làm ra vẻ tình cờ trong giọng nói của mình, rồi chờ đợi đến thời điểm chính xác - ấy thế mà vẫn hỏng bét! Có thể lẽ ra anh ta phải nhờ một tay copywriter thẩm định trước mới phải.
Ngay cả với những ý định tốt đẹp nhất, ta vẫn không thể nào tránh được việc làm phật ý nhau. Chúng tôi khổ sở vì vô số những cuộc đấu khẩu vụn vặt mà chúng tôi dây dưa vào ngày này sang ngày khác. Chúng tôi đâu có nghĩ, từ ngữ cứ thế buột ra khỏi miệng chúng tôi - sổ tung lồng, không nghĩ ngợi - và rồi ngay sau đó chúng tôi nhận ra mình vừa làm phật lòng ai đó bằng một câu nói hồn nhiên và vô tội. Có thể chúng tôi đã ám chỉ rằng ai đó béo, hoặc đầu óc đơn giản, hay xấu phát tởm. Phần lớn thời gian chúng tôi cảm thấy đúng là như vậy. Chúng tôi làm việc với một số người béo ú, đơn điệu, và cả người xấu phát tởm cũng bước lẫn giữa chúng tôi nữa. Nhưng thề có Chúa, chúng tôi muốn giữ im lặng về điều đó. Nếu như phần lớn chúng tôi chỉ bận tâm đến việc sống sót qua một ngày nữa mà không bị đuổi việc, thì cũng có một phần nhỏ hơn hy vọng buổi tối về nhà mà không đóng góp gì vào nỗi tổn thương cả đời của một ai đó. Ấy thế mà có những người, như Marcia, có khả năng biến ngay cả một câu khen ngợi thành một lời xúc phạm, bắt chúng tôi (đặc biệt là Benny) phải quỳ gối thành thử ra cách duy nhất để chiến thắng là giữ im lặng, im lặng tuyệt đối - trừ phi, tất nhiên, cơ hội tự nó xuất hiện để nhuộm đỏ một miếng da đầu và đặt trên bàn làm việc của Benny.
“Tôi xin lỗi nếu tôi làm cô phật ý,” Benny nói. “Tôi chỉ đang cố nói rằng trông nó rất đẹp.”
“Không, tôi xin lỗi,” cô ta nói. “Tôi không quen được khen cho lắm. Vừa rồi tôi có quá cay nghiệt với anh không?”
“Không, không, hoàn toàn không,” anh ta trấn an cô ta.
Đột nhiên Genevieve đang đứng ở cửa phòng anh ta. Benny im bặt. Marcia nhận ra sự chú ý của anh ta bị chuyển hướng nên quay lại và cũng nhìn thấy Genevieve.
“Marcia, tớ có thể nói chuyện với cậu được không?”
Nói thế xong, Genevieve biến mất. Marcia quay lại nhìn Benny. “Chắc chắn rồi,” cô ta vừa gọi với theo, vừa vội vàng đứng lên. Benny chưa bao giờ thấy mắt Marcia mở to đến thế.
“Benny,” cô ta thì thầm.
“Đi đi,” anh ta nói.
Khi Marcia đi khỏi, Benny gọi Jim để cho anh ta biết tin nhưng Jim không nhấc máy. Anh ta đứng lên và bước ra ngoài hành lang. Mọi thứ đều yên lặng. Anh ta bước trở vào trong và gọi thêm một cú điện thoại nữa cho Jim. vẫn không thấy trả lời. Anh ta lại quay ra ngoài hành lang. Mọi thứ đều tĩnh lặng và trống trải. Những cái cây giả to lớn đứng không lay động ở cả hai đầu hành lang, và trên những bức tường giữa các ngưỡng cửa vẫn treo tất cả những giải quảng cáo trong quá khứ của công ty, phủ bụi. Anh ta quay vào và gọi cho Jim lần thứ ba. Sau đó anh ta gửi email cho Jim và bảo anh ta nghe thư thoại của mình. Anh ta dành cả hai phút chờ thư trả lời tại bàn làm việc của mình trước khi quyết định đi lùng kiếm Jim. Anh ta quay trở ra hành lang, nhưng anh ta dừng lại khi nhìn thấy Karen Woo đang đi tới. Anh ta không hề có ham muốn được là người cho Karen biết rằng Genevieve vừa ra khỏi phòng làm việc của Lynn. Cô ta sẽ chỉ tung hê cái tin đó ra khắp nơi. Vì thế anh ta hờ hững giơ tay lên nắm lấy gờ trên cùng của ngưỡng cửa, như thể anh ta chỉ đang thơ thẩn, vươn vai thả lỏng. Karen lại gần hơn, và anh ta nghĩ có thể họ chỉ chào hỏi nhau không hơn. Với lại, cô ta không hề có vẻ định dừng lại tán chuyện, đúng là nhẹ cả người. Cô ta chỉ nói, “Hóa ra rốt cuộc Lynn chẳng hề bị ung thư gì hết,” và rồi cô ta đi qua và biến mất phía cuối hành lang.
Marcia đứng dựa lưng vào cánh cửa đóng kín trong phòng làm việc của Genevieve trong khi Genevieve đi đi lại lại phía sau bàn, thỉnh thoảng lại dừng lại để túm lấy lưng ghế của mình, như thể để bóp nghẹt nó.
Mọi chuyện rất đơn giản. Lynn ngồi xuống sau bàn làm việc của mình và câu hỏi về việc bắt đầu từ chỗ nào, làm thế nào để đề cập đến chủ đề này, trốn tiệt hoàn toàn khỏi Genevieve. May sao Joe bắt đầu cất tiếng. Cô không thể nhớ nổi chính xác thì Joe đã nói gì, nhưng anh ta rất thẳng thắn. Genevieve thấy hồi hộp. Cô phải tự nhắc nhở mình lý do tại sao cô lại ở đây. Con người này người có khả năng thống trị hoàn toàn mọi khía cạnh của cuộc sống - người toát ra sự thống trị - thực sự lại đang rất ốm yếu bên trong, và yếu ớt, và đang cần sự can thiệp, cho dù sự can thiệp đó xuất phát từ một người cấp dưới nhát sợ đang ngồi như phỗng bên cạnh Joe. Nếu cô không giữ ý nghĩ đó trong đầu, hẳn cô đã phải xin phép ra ngoài vì quá hồi hộp. Joe nói, đại ý, rằng một tin đồn đã phát sinh, anh ta không biết là từ đâu, rằng chị đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Bình thường thì anh ta chẳng thèm đếm xỉa mấy đến những tin đồn, nhưng anh ta hy vọng chị sẽ hiểu tại sao lại anh ta phải bận tâm đến tin đồn khẳng định rằng chị không khỏe. Có sự quả quyết ở một số cá nhân cụ thể rằng một ca phẫu thuật quan trọng đã được lên lịch cho ngày hôm qua, nhưng chị đã bỏ qua nó. Có lẽ là cố tình. Nỗi ác cảm của chị với bệnh viện - điều đã trở thành thực tế nhiều người biết - có thể giải thích tại sao. Anh ta nói đến đó - và rồi anh ta nhớ ra Genevieve và quay sang cô. “Hai chúng tôi ở đây,” anh ta nói, quay người lại nhìn Lynn, “để cho chị biết rằng những tin đồn đó đang ở ngoài kia, chúng đang lan truyền khắp nơi, tôi không biết là chính xác đến mức độ nào, nhưng nếu có điều gì đó chúng tôi có thể làm cho chị, nếu chúng tôi có thể giúp chị theo cách nào đó...”
“Joe, cuối cùng thì họ cũng dụ được cậu tin vào nó à?” chị hỏi anh ta.
Nó? Cụ thể thì chị đang ám chỉ đến điều gì, Genevieve băn khoăn. Trong khi Joe đang nói, nụ cười tinh quái mà Lynn thỉnh thoảng vẫn mang để diễn tả sự hoài nghi hoặc ngỡ ngàng hiện lên trên mặt chị. Chắc chắn cả Joe cũng đã nhận ra điều đó. Tuy nhiên anh ta vẫn không nhụt chí. Genevieve không biết anh ta tìm đâu ra ý chí để tiếp tục trong khi Lynn đang nhìn anh ta kiểu đó. Anh ta dừng lại trong giây lát khi chị ngắt lời để hỏi liệu có phải anh ta cũng bị dụ khị không, nhưng rồi một điều thực sự phi thường xảy ra. Anh ta không chịu buông.
“Không, tôi không nghĩ tôi đã bị dụ khị vào bất kỳ điều gì,” anh ta trả lời. “Tôi không ở đây để đại diện cho họ. Tôi ở đây vì bản thân mình - và Genevieve - vì tôi tin là có thể có điều gì đó không ổn với chị.”
“Chẳng có gì là không ổn với tôi cả,” chị vừa thản nhiên nói vừa kéo vào tay mình một cái rọc phong bì bằng bạc có hình dáng của một con dao găm nhỏ.
“Rằng có thể chị bị bệnh,” anh ta tiếp tục - Genevieve không biết thế nào hoặc tại sao, cô muốn anh ta dừng lại - “nhưng vì nỗi sợ hãi của mình, chị đang không chịu để bản thân mình được chăm sóc một cách thích hợp.”
“Chẳng có gì không ổn với tôi cả,” chị nhắc lại.
Joe im lặng. Genevieve đã sẵn sàng để đi ra. Được rồi, Joe, chị ấy không sao cả - chúng ta đi thôi. “Một người với nỗi sợ hãi thực sự,” anh ta tiếp tục, chậm rãi, không hề lo lắng mà rất kiên nhẫn, như thể đang cố dỗ dành điều gì đó từ chị, “một người bị tê liệt vì sợ hãi, sẽ nói rằng họ không bị bệnh, nếu điều đó có nghĩa là họ có thể tiếp tục cuộc sống của mình mà không phải đối mặt với nỗi sợ đó.”
Lynn bật ra một tiếng cười khan miễn cưỡng, không chút gì là hài hước. “Tôi xin lỗi, Joe,” chị nói. “Cậu tiếp cận được hồ sơ y tế của tôi à?”
“Không.”
“Không,” chị nói, “không, tôi không nghĩ vậy.”
“Không, đây hoàn toàn là phỏng đoán thôi, Lynn,” anh ta tiếp tục, và đến lúc đó, Genevieve cảm thấy nhu cầu bức thiết về việc bằng cách nào đó phải giữ khoảng cách với Joe. Không ốm mà, Joe! Làm ơn đừng nói nữa! “Sự phỏng đoán có lẽ không có cơ sở cho lắm,” anh ta tiếp tục. “Nhưng nếu chị bị ốm, và sợ hãi, và tự tách mình khỏi sự chăm sóc về y tế...”
“Đó là một cái nốt ruồi,” chị nói.
Toàn bộ vẻ sửng sốt tuột khỏi mặt chị. Lúc này chị mang một vẻ mặt bất động, lạnh băng, vẻ mặt công việc, để nói, một cách thẳng toẹt, rằng đây không phải là việc của cậu. “Đó là một cái bướu mà họ sợ là ung thư, và tôi đã cho thay đổi buổi hẹn, nếu như cậu nhất định phải biết, vì sự gấp rút của các thương vụ mới. Genevieve,” chị vừa nói vừa liếc xuống nhìn con dao rọc thư mà chị vẫn gại gại trong lúc Joe nói, “cô có thể thứ lỗi cho Joe và tôi được không?” Khi chị ngẩng lên nhìn Genevieve, Genevieve nói tất nhiên rồi và rời khỏi căn phòng yên lặng rồi đóng cửa lại sau lưng mình.
“Một cái nốt ruồi?” Marcia nói. “Suốt từ đầu đến giờ chỉ là một cái nốt ruồi sao?”
Sau khi Marcia đi khỏi chúng tôi nghe Genevieve nói chuyện trên điện thoại với chồng mình, hét lên với anh ta, mặc dù anh ta chẳng hề làm gì cả, khổ thân thằng cha. Nhưng việc ai đó ở đâu đó đã làm điều gì đó sai lầm khủng khiếp, thì cô chắc như đinh đóng cột. Cô biết mình đang tức giận. Cô biết mình phải làm điều gì đó đối với ai đó. Cô chỉ không biết chính xác là việc gì.
“Đó là ai?” cô gặng hỏi chúng tôi. “Ai là người đầu tiên nói là ung thư?” Chúng tôi cố gắng nói với cô, Genevieve, không ai biết là ai cả. Có lẽ sẽ chẳng ai biết được đó là ai nữa. “Hừm, vậy thì ai đã lan truyền nó?” cô gầm thét. “Ai chịu trách nhiệm phát tán nó?” Cô ở cùng với chúng tôi hôm qua khi chúng ta cố tìm ra người đó còn gì, chúng tôi nhắc cô, và cô cũng biết giống như chúng tôi rằng hầu như không thể nào biết được ai đã lan truyền cái tin đó. “Thế thì ai nghĩ ra cái ý tưởng cử Joe vào trong đó?” cô hỏi. “Có phải đây chỉ là một trò chơi xỏ tinh vi để chơi Joe không?” Hừm, nói thế đúng thật là điên rồ, và chúng tôi bảo với cô như vậy - một cách tế nhị, và với không nhiều từ cho lắm, bởi vì đến lúc này cô đã lên cơn điên lắm rồi. “Tại sao tôi lại dây vào chứ?” cô hỏi. “Làm thế nào mà tôi lại để cho mình dính dáng vào vụ này?” Giờ thì cô đang tự nói với chính mình, và chúng tôi không có câu trả lời nào cho cô. Cô giơ hai tay lên và rời khỏi phòng làm việc của chúng tôi.
Chúng tôi nghĩ Joe Pope xử lý toàn bộ vấn đề một cách bình thản. Đến một lúc, Jim Jackers gọi với ra khi Joe đi qua ô của anh ta. Họ không hề nói một lời nào về Lynn Mason. Jim chỉ muốn biết liệu có đúng là những quảng cáo cho bệnh nhân ung thư vú bây giờ được viết bằng tiếng Tây Ban Nha không. “Có phải như thế có nghĩa là chúng ta sắp sửa hướng thông điệp của mình tới một thị trường La tinh không?” anh ta hỏi.
“Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về điều đó,” Joe trả lời. “Tôi sẽ rất lấy làm ngạc nhiên nếu như đó là sự thật. Ai đưa cho anh thông tin đó?”
“Tôi nghĩ họ đang giở trò chơi xỏ tôi,” Jim nói.
“Tôi sẽ xem đó là một trò đùa,” Joe nói. Suýt nữa thì nó trở thành trò đùa buồn cười nhất từ trước tới giờ.
Cuối buổi chiều, Genevieve gửi cho chúng tôi một bức email theo nhóm - danh sách người nhận dài cả gang tay - lên án những “chiến thuật” của chúng tôi, những “tình cảm giả dối” của chúng tôi. Chúng tôi thật “đáng khinh” và “ngu ngốc”. Chúng tôi đã bị “dắt mũi” để “gài Joe”. Đúng là lố bịch - vì chúng tôi đời nào lại cho phép ai dắt mũi mình chứ? Cô ta tưởng tượng ra một âm mưu mới thật tinh vi và ghê gớm làm sao. Cô không bao giờ dùng cái từ đó, nhưng đâu có khó gì mà không luận ra được. Làm sao đó có thể là một âm mưu được? Chẳng lẽ ai đó - ví dụ như Karen Woo - lại nham hiểm, xảo quyệt, có khả năng thao túng hoàn cảnh đến mức có thể thực hiện trót lọt một cách tinh vi một âm mưu quỷ quyệt tột bậc nhường ấy, bằng cách phát tán một tin đồn lạ lùng nhưng đồng thời cũng vô cùng đáng tin, và rồi xào xáo cuộc nói chuyện mà cô ta đã có trên điện thoại với người y tá ở bệnh viện Northwestern để đóng dấu xác thực cho những lời dối trá của mình và đưa gã giơ đầu chịu báng kia vào tròng? Chẳng phải nói như thế là hơi quá đáng sao, cho dù không ai trong chúng tôi thực sự nghe thấy người y tá đã nói gì - hoặc không ai có thể khẳng định rằng thậm chí liệu có tồn tại một người y tá ở đầu kia không nữa? Mà cô ta có thể hy vọng gây ra được tổn hại thực sự nào cơ chứ? Đây đâu phải là, đúng như chỉ có Hank mới diễn tả được, “vụ người Moor[39] mồ hôi nhễ nhại giết nàng Desdemona”. Không thể nào, chúng tôi nghĩ, không thể nào lại là Karen Woo. Nếu như cô ta thực sự muốn chơi Joe một vố, chúng tôi dành cho cô ta đủ lời tán thưởng để hút sạch máu gã khốn kiếp đó. Với lại, Genevieve phải đối mặt với sự thật chứ. Một âm mưu là điều không thể chứng minh được. Cùng lắm thì bất cứ ai cũng chỉ nói được rằng kiểu nó là như thế đấy, ở đây hoặc ở bất kỳ đâu. Sai lầm phạm xong. Trách nhiệm giải trình biến mất tiêu.
“Tôi XONG nhé,” cô kết luận trong bức email của mình, và bắt tay vào liệt kê tất cả những việc mà cô sẽ không còn làm cùng chúng tôi trong tương lai nữa. Ăn trưa và những chầu bù khú sau giờ làm, chủ yếu là thế. Trước kia chúng tôi cũng đã nghe câu này rồi. Chúng tôi tự hỏi lần này nó sẽ kéo dài được bao lâu.