Tiền Không Mua Được Gì? - Chương 02
2
ĐỘNG CƠ
TRẢ TIỀN CHO NGƯỜI TRIỆT SẢN
Mỗi năm, có hàng trăm nghìn em bé có mẹ nghiện ma túy được sinh ra. Một số bé bị nghiện ma túy bẩm sinh, và rất rất nhiều bé sẽ bị ngược đãi hoặc không được quan tâm. Barbara Harris, người sáng lập một tổ chức từ thiện ở bang North Carolina có tên là Project Prevention đã đưa ra một giải pháp mang tính thị trường. Bà đề nghị trả cho những người phụ nữ nghiện ma túy 300 dollar tiền mặt nếu họ chấp nhận triệt sản hoặc áp dụng biện pháp tránh thai lâu dài. Hơn 3.000 phụ nữ đã tham gia chương trình của bà kể từ khi nó ra đời năm 1997[64].
Những người phản đối cho rằng chương trình này “tội lỗi về mặt đạo đức”, một dạng “hối lộ để triệt sản”. Theo họ, dùng động cơ tài chính để xúi giục người nghiện ma túy từ bỏ khả năng sinh sản thực chất là ép buộc họ, đặc biệt khi đối tượng của chương trình là những phụ nữ dễ bị tổn thương, sống ở khu vực nghèo khổ. Thay vì giúp đỡ họ vượt qua chứng nghiện ngập thì chương trình lại dùng tiền để bao cấp họ. Như câu khẩu hiệu được in trên một tờ rơi của chương trình: “Đừng để việc mang thai ảnh hưởng đến thói quen nghiện ngập”[65].
Harris cũng thừa nhận rằng khách hàng của bà dùng tiền nhận được để mua ma túy. Nhưng bà tin rằng đây là cái giá rẻ phải bỏ ra để ngăn chặn tình trạng các em bé sinh ra đã nghiện ma túy. Một số phụ nữ tham gia chương trình đã từng mang thai cả chục lần trước đó, rất nhiều người đã có nhiều con và đều phải gửi đến trung tâm chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi. Harris đặt câu hỏi: “Tại sao lại cho rằng quyền sinh sản của phụ nữ quan trọng hơn quyền được hưởng một cuộc sống bình thường của trẻ em?” Quan điểm của bà xuất phát từ chính kinh nghiệm bản thân. Vợ chồng bà đã nhận bốn con nuôi ở Los Angeles, đều là các bé có mẹ nghiện hút. “Tôi sẽ làm mọi điều tôi phải làm để các em bé không phải chịu khổ. Tôi không tin rằng có ai lại có quyền truyền sự nghiện ngập của mình sang người khác” [66].
Năm 2010, Harris đem chương trình tới Anh, nơi ý tưởng trả tiền để người nghiện triệt sản của bà gặp phải sự phản đối dữ dội của báo chí và Hiệp hội Y khoa Anh. Một bài báo trên tờ Telegraph gọi đây là một “đề xuất đáng ghê sợ”. Không nản chí, Harris tiếp tục mở rộng hoạt động sang Kenya, nơi bà trả cho mỗi phụ nữ dương tính với HIV 40 dollar để họ đặt vòng – một công cụ tránh thai lâu dài. Ở Kenya và Nam Phi, nơi Harris dự kiến sẽ đến, các quan chức y tế và các nhà hoạt động vì nhân quyền đều lên tiếng chê bai và phản đối bà [67].
Từ quan điểm lập luận thị trường, khó có thể hiểu tại sao chương trình của Harris lại bị chỉ trích. Mặc dù một vài nhà phê bình cho rằng nó khiến họ nhớ đến thuyết ưu sinh của Đức Quốc xã, nhưng chương trình trả-tiền-cho-người-triệt-sản là một dạng thỏa thuận tự nguyện giữa các cá nhân. Nhà nước không tham gia chương trình, và không ai bị triệt sản trái với mong muốn. Một số người thì giải thích là những người nghiện ma túy rất muốn có tiền, và họ không thể đưa ra lựa chọn thực sự tự nguyện khi được cho tiền dễ dàng như vậy. Harris đáp lại rằng nếu người nghiện thiếu năng lực xét đoán đến mức ấy thì làm sao chúng ta có thể hy vọng họ sẽ có những quyết định đúng đắn liên quan đến việc sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái? [68]
Nếu nhìn theo quan điểm mua bán trên thị trường thì thỏa thuận giữa Project Prevention và người nghiện đã tạo lợi ích cho cả hai bên và làm gia tăng phúc lợi xã hội. Người nghiện được nhận 300 dollar, đổi lại họ từ bỏ khả năng sinh con. Với 300 dollar bỏ ra, Harris và tổ chức của bà nhận được sự đảm bảo rằng người nghiện sẽ không sinh ra một em bé nào bị nghiện ma túy bẩm sinh nữa. Theo logic thị trường, thỏa thuận trao đổi này hiệu quả về mặt kinh tế. Nó đã phân bổ hàng hóa – ở đây là biện pháp tránh thai cho người nghiện – đến người sẵn lòng trả giá cao nhất cho hàng hóa đó, và cũng là người đánh giá hàng hóa đó cao nhất (tức là Harris).
Vậy tại sao xã hội lại ồn ào lên thế? Vì hai lý do, và chúng sẽ soi sáng cho ta thấy được hạn chế về mặt đạo đức của lập luận thị trường. Một vài người cho rằng thỏa thuận trả-tiền-cho-người-triệt-sản là một dạng ép buộc, người khác lại gọi đây là hành vi hối lộ. Hai lập luận phản đối này thực chất rất khác nhau. Mỗi lập luận nêu ra một lý do cho việc ngăn không cho thị trường vươn tầm ảnh hưởng tới những nơi không phải chỗ của nó.
Theo lập luận phản đối sự ép buộc, khi một phụ nữ nghiện ma túy đồng ý triệt sản để có tiền thì đây không phải một quyết định tự nguyện hoàn toàn. Mặc dù không ai kề súng vào đầu ép buộc cô ta, nhưng dường như tiền là một thứ quá quyến rũ, khó có thể cưỡng lại. Với người nghiện ma túy – trong hầu hết các trường hợp, họ cũng là người nghèo – hành động chọn triệt sản để có 300 dollar không thực sự là tự nguyện. Thực tế, có thể cô ta bắt buộc phải làm như vậy vì tình trạng cuộc sống hiện tại. Tất nhiên, chúng ta không nhất trí được với nhau về việc trong điều kiện nào, nguyên nhân nào khiến cô ta bị ép buộc phải quyết định. Nên để đánh giá đúng ý nghĩa đạo đức của một giao dịch trên thị trường, trước tiên chúng ta phải trả lời câu hỏi: Trong điều kiện nào thì giao dịch trên thị trường hàm ý con người được tự do đưa ra quyết định, và điều kiện nào dẫn đến họ phải quyết định trong tình trạng bị ép buộc?
Lập luận phản đối hành vi hối lộ lại khác. Vấn đề không phải giao dịch diễn ra trong điều kiện nào mà là bản chất của loại hàng hóa được đem ra giao dịch. Hãy xem một tình huống hối lộ điển hình. Nếu có một nhân vật xấu hối lộ một thẩm phán hoặc một quan chức chính phủ để thu lợi bất chính hoặc để được ưu ái thì giao dịch xấu này có thể hoàn toàn là tự nguyện. Cả hai bên đều không bị ép buộc, và cả hai đều có lợi. Lý do khiến nó bị phản đối không phải vì hai người bị ép buộc thực hiện giao dịch mà vì nó là một hành vi tham nhũng. Tham nhũng còn có nghĩa là mua bán những thứ không nên đem ra trao đổi (ví dụ một phán quyết thiên vị ở tòa án hay ảnh hưởng chính trị trên chính trường).
Chúng ta thường nghĩ tham nhũng là hành vi đưa tiền trái phép cho quan chức nhà nước. Nhưng như đã nói ở chương 1, tham nhũng có ý nghĩa rộng hơn. Chúng ta tham nhũng một hàng hoá, một hoạt động, một hành vi xã hội có nghĩa là chúng ta đối xử với chúng theo những chuẩn mực thấp, không phù hợp với chúng. Lấy một ví dụ thật cực đoan: người nào sinh con ra để bán kiếm tiền thì tức là người đó đã tham nhũng tư cách làm cha mẹ vì đã coi trẻ em là công cụ sử dụng thay vì đối tượng để yêu thương. Tham nhũng chính trị cũng có thể được nhìn nhận tương tự. Khi một vị thẩm phán nhận tiền hối lộ để đưa ra phán quyết sai, ông ta đã coi quyền tư pháp của mình là công cụ để kiếm lợi cá nhân thay vì là công cụ để duy trì niềm tin của xã hội. Ông ta đã làm xói mòn, làm mất ý nghĩa của nghề tư pháp khi đối xử với nó theo những chuẩn mực không xứng đáng.
Tham nhũng nghĩa rộng chính là nguyên nhân khiến nhiều người cho rằng chương trình trả-tiền-cho-người-triệt-sản là một dạng hối lộ. Những người gọi đây là hành vi hối lộ cho rằng bất kể thỏa thuận diễn ra là tự nguyện hay không, nó vẫn là tham nhũng. Lý do là cả hai bên – người mua (tức Harris) và người bán (người nghiện ma túy) – đã đánh giá hàng hóa (khả năng sinh con của người nghiện) theo cách sai lầm. Harris coi những phụ nữ nghiện ma túy và dương tính với HIV như thể những cỗ máy sinh sản bị lỗi và có thể bỏ tiền ra tắt chúng đi. Những người chấp nhận thỏa thuận với Harris đã tự làm xói mòn hình ảnh của chính mình. Đây là khía cạnh đạo đức của lập luận cho rằng Harris đang hối lộ. Giống như vị thẩm phán hay quan chức nhà nước tham nhũng, những người đi triệt sản để có tiền đã bán một thứ không nên đem ra mua bán. Họ coi năng lực sinh sản của mình là công cụ kiếm tiền chứ không phải một món quà, một trách nhiệm phải thực hiện theo chuẩn mực trách nhiệm và quan tâm thông thường.
Ngược lại, cũng có thể lập luận rằng so sánh như vậy là sai. Vị thẩm phán nhận tiền hối lộ để đưa ra phán quyết sai đã bán cái không thuộc quyền sở hữu của ông ta. Phán quyết tại tòa không phải tài sản của ông. Nhưng người phụ nữ đồng ý triệt sản để có tiền đã bán cái mà cô ta sở hữu – tức năng lực sinh sản của cô. Nếu không có sự xuất hiện của tiền ở đây thì cô ta không hề sai khi quyết định triệt sản (hoặc không sinh con); còn vị thẩm phán thì sai khi đưa ra một phán quyết bất công, bất kể ông ta có được hối lộ hay không. Nhiều người sẽ cho rằng nếu một phụ nữ có quyền từ bỏ khả năng sinh con của mình vì lý do cá nhân thì cô ta cũng hoàn toàn có quyền làm điều đó để có tiền.
Nếu chấp nhận lập luận này thì thỏa thuận trả-tiền-cho-người-triệt-sản hoàn toàn không bị coi là hối lộ nữa.
Như vậy, để quyết định liệu khả năng sinh đẻ của phụ nữ có thể được đem ra mua bán không, chúng ta phải xem nó là loại hàng hóa gì: Có nên coi cơ thể mỗi người là tài sản chúng ta được sở hữu và có thể sử dụng theo bất cứ cách nào chúng ta muốn không, hay việc sử dụng cơ thể của chính mình sẽ làm suy giảm giá trị bản thân? Đây là câu hỏi lớn và gây nhiều tranh cãi, thường xuất hiện trong các cuộc tranh luận về các vấn đề mại dâm, mang thai hộ, mua bán trứng và tinh trùng. Trước khi kết luận liệu các quan hệ mua bán trên thị trường có phù hợp với chúng không, chúng ta phải xem đời sống tình dục và sinh sản hiện đang bị chi phối bởi những chuẩn mực nào.
TIẾP CẬN KHÁI NIỆM SINH MẠNG THEO QUAN ĐIỂM KINH TẾ
Phần lớn các nhà kinh tế học không muốn đưa vấn đề đạo đức vào phân tích, ít nhất khi họ nghiên cứu với tư cách chuyên môn. Họ nói nhiệm vụ của họ là giải thích chứ không phải phán xét hành vi của con người. Họ khẳng định rằng cái họ làm không phải cho chúng ta biết khi làm việc này thì nên theo những chuẩn mực nào hay chúng ta nên đánh giá hàng hóa kia theo cách ra sao. Hệ thống giá cả phân bổ hàng hóa theo sở thích của mọi người; nó không đánh giá sở thích của ai đáng giá hơn, đáng ngưỡng mộ hơn hay phù hợp hơn với hoàn cảnh. Nhưng dù đã lên tiếng phản đối, các nhà kinh tế học vẫn ngày càng vướng vào nhiều câu hỏi đạo đức hơn.
Có hai nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất phản ánh thế giới đang thay đổi, nguyên nhân thứ hai cho thấy cách hiểu của các nhà kinh tế học cũng đang thay đổi.
Trong vài thập niên trở lại đây, tư duy thị trường và định hướng thị trường đã vươn tới nhiều lĩnh vực trong cuộc sống vốn bị chi phối bởi các chuẩn mực phi thị trường. Chúng ta đang đặt giá thị trường cho ngày càng nhiều hàng hóa vốn không thuộc về thị trường. Mức giá 300 dollar của Harris chính là một ví dụ cho thấy xu hướng này.
Đồng thời, các nhà kinh tế học cũng đang xem xét lại chuyên môn của mình, làm cho nó trừu tượng hơn, thách thức hơn. Trước đây, giới kinh tế học chỉ nghiên cứu những vấn đề kinh tế rõ ràng như lạm phát và thất nghiệp, tiết kiệm và đầu tư, lãi suất và xuất nhập khẩu. Họ giải thích tại sao các quốc gia lại giàu có, hệ thống giá cả giải quyết cung cầu đối với hợp đồng tương lai mua bán thịt ba chỉ và các hàng hóa khác như thế nào.
Tuy nhiên, gần đây, nhiều nhà kinh tế học đã bước chân vào những dự án tham vọng hơn. Họ cho rằng cái họ đem lại không chỉ đơn thuần là những lập luận giải thích hành vi sản xuất và tiêu dùng hàng hóa vật chất mà còn là khoa học về hành vi của con người. Cốt lõi của môn khoa học là một tư tưởng đơn giản, nhưng có ảnh hưởng sâu rộng:
Trong mọi lĩnh vực đời sống, luôn có thể giải thích hành vi của con người với giả định rằng họ đưa ra quyết định dựa trên việc so sánh lợi ích và chi phí của những lựa chọn mà họ có, và họ sẽ chọn cái mà họ tin là đem lại cho họ lợi ích ròng – hay còn gọi là phúc lợi – lớn nhất.
Nếu tư tưởng này là đúng thì mọi thứ đều phải có giá tiền. Giá tiền có thể hiển thị rõ ràng, như với ô tô, lò nướng bánh hay thịt ba chỉ. Hoặc giá có thể ẩn, như với tình dục, hôn nhân, trẻ em, giáo dục, tội phạm, phân biệt chủng tộc, tham gia chính trị, bảo vệ môi trường, thậm chí sinh mạng con người. Quy luật cung cầu chi phối hầu hết những thứ chúng ta vừa liệt kê cho dù chúng ta có biết sự tồn tại của nó hay không.
Người đưa ra phát biểu nổi tiếng nhất phản ánh quan điểm này là Gary Becker, nhà kinh tế học thuộc Đại học Chicago. Ông đã viết như vậy trong cuốn sách Cách tiếp cận kinh tế đối với hành vi của con người (The Economic Approach to Human Behavior) (1976). Ông phản đối cách nhìn cũ cho rằng kinh tế học “nghiên cứu sự phân bổ hàng hóa vật chất”. Ông phân tích rằng quan điểm truyền thống là cố chấp vì nó “không chịu đưa một số hành vi của con người vào sự tính toán lạnh lùng của kinh tế học”. Becker tìm cách đưa chúng ta thoát khỏi sự cố chấp đó [69].
Theo Becker, con người hành động nhằm mục đích tối đa hóa phúc lợi của mình bất kể họ tham gia hoạt động gì. Giả định này “được sử dụng liên tục và rất tự nhiên, và nó chính là cốt lõi của cách tiếp cận kinh tế” đối với hành vi của con người. Có thể áp dụng cách tiếp cận kinh tế với mọi loại hàng hóa. Nó giải thích từ những quyết định mang tính sống còn đến chuyện bạn “chọn nhãn cà phê nào”. Nó xuất hiện từ trong quyết định chọn bạn đời đến mua thùng sơn. Becker viết tiếp: “Tôi đã đi đến chỗ mà cách tiếp cận kinh tế trở thành một công cụ toàn diện, áp dụng được cho mọi hành vi của con người, cho dù hành vi đó liên quan đến giá tiền công khai hay giá ẩn, quyết định bất chợt hay thường xuyên, quyết định lớn hay nhỏ, mục đích vật chất hay tình cảm, người giàu hay người nghèo, đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ em, người thông minh hay kẻ ngốc, bệnh nhân hay bác sỹ, doanh nhân hay chính trị gia, giảng viên hay người học” [70].
Becker không nói rằng bệnh nhân hay bác sỹ, doanh nhân hay chính trị gia, giảng viên hay người học thực tế đều hiểu được rằng quyết định của họ bị chi phối bởi lý do kinh tế, nhưng là vì chúng ta thường không biết nguyên nhân sâu xa của hành động của chính mình. “Cách tiếp cận kinh tế không giả định” rằng con người “luôn ý thức được mình đang nỗ lực tối đa hóa phúc lợi, hoặc có thể phát biểu hay mô tả theo cách thức nào khác” lý do họ hành động. Tuy nhiên, những ai có cái nhìn sắc sảo, thấy được tín hiệu giá ẩn trong mọi tình huống thì đều thấy được rằng mọi hành vi của chúng ta, dù không liên quan gì đến vật chất, cũng đều có thể được giải thích và dự báo dựa trên tính toán hợp lý lợi ích và chi phí [71].
Becker minh họa nhận định của mình với phần phân tích hôn nhân và ly hôn dưới góc độ kinh tế:
Theo cách tiếp cận kinh tế, một người quyết định kết hôn khi lợi ích thu được từ hôn nhân lớn hơn lợi ích thu được khi sống độc thân hoặc khi tìm người yêu khác. Tương tự, một người đã kết hôn sẽ quyết định ly hôn khi lợi ích kỳ vọng có được từ việc quay trở lại cuộc sống độc thân hoặc kết hôn với người khác lớn hơn mất mát người đó phải chịu khi ly hôn, bao gồm mất mát khi phải sống xa con cái, tổn thất khi chia tài sản chung, án phí... Vì có rất nhiều người đang tìm bạn đời nên có thể nói thị trường hôn nhân có tồn tại [72].
Một số người nghĩ quan điểm tính toán làm cho hôn nhân mất cả lãng mạn. Họ cho rằng tình yêu, nghĩa vụ và cam kết là những khái niệm không thể quy thành tiền. Họ nhấn mạnh rằng một cuộc hôn nhân tốt đẹp là vô giá, là cái mà tiền không thể mua được.
Đối với Becker, chính tư tưởng ủy mị đang cản trở chúng ta suy nghĩ một cách rõ ràng. Ông viết: “Với sự khôn ngoan đáng ngưỡng mộ đáng lẽ phải được sử dụng đúng chỗ”, những người không chấp nhận cách tiếp cận kinh tế lại giải thích rằng hành vi của con người là hỗn loạn và khó đoán định; do con người “ngu dốt và hành xử vô lý, thay đổi giá trị thường xuyên một cách khó hiểu, do phong tục tập quán và do sức ép từ chuẩn mực xã hội gây ra”. Becker không thể kiên nhẫn trước lập luận lộn xộn này. Ông tin rằng chỉ cần quan tâm đến hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng giá là đủ để có cơ sở vững chắc cho khoa học xã hội [73].
Liệu có thể nhìn nhận mọi hành vi của con người dưới góc độ thị trường? Các nhà kinh tế học, khoa học chính trị, học giả ngành luật và các chuyên gia khác vẫn chưa thống nhất. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là cách nhìn này đang trở nên phổ biến không chỉ trong học thuật mà cả trong đời sống hàng ngày. Trong vài thập niên trở lại đây, chúng ta đang chứng kiến các mối quan hệ xã hội đang thay đổi theo hướng trở thành mối quan hệ thị trường một cách đáng kể. Bằng chứng chính là con người đang sử dụng công cụ tiền tệ để giải quyết các vấn đề xã hội ngày càng thường xuyên hơn.
THƯỞNG TIỀN CHO HỌC SINH ĐƯỢC ĐIỂM CAO
Trả tiền để con người ta triệt sản chỉ là một ví dụ thô thiển. Sau đây là một ví dụ khác: các trường công trên hầu khắp nước Mỹ đang nỗ lực cải thiện kết quả học tập của học sinh bằng cách thưởng tiền cho những em được điểm tốt hoặc đạt điểm cao trong các kỳ thi chuẩn hóa. Ý tưởng của họ là dùng tiền làm động lực có thể cứu vãn được nguy cơ thất bại của trường học đang ngày càng hiển hiện rõ khi tiến hành cải cách giáo dục.
Hồi nhỏ tôi đi học ở một trường công rất tốt và có môi trường rất cạnh tranh ở Pacific Palisades, bang California. Đôi khi tôi nghe nói có những bạn cứ đạt điểm A là được bố mẹ thưởng tiền. Đa số chúng tôi thấy chuyện này khá giật gân. Nhưng chưa bao giờ có học sinh nào lại được nhà trường thưởng tiền khi đạt điểm cao. Tôi nhớ hồi đó đội bóng chày Los Angeles Dodgers có chương trình khuyến mại tặng vé miễn phí cho học sinh trung học đạt kết quả tốt. Tất nhiên chúng tôi không phản đối, và tôi và bạn bè chỉ đi xem rất ít trận đấu. Nhưng không ai nghĩ đây là công cụ khuyến khích học tập cả, nó là một việc mất thời gian thì đúng hơn.
Giờ đây mọi chuyện đã khác. Khuyến khích bằng tiền đang ngày càng được coi là bí quyết để cải thiện chất lượng học tập, nhất là với học sinh của những trường chất lượng kém ở thành phố.
Tạp chí Time gần đây đã đặt câu hỏi thẳng tuột lên trang bìa: “Trường học có nên hối lộ học sinh?” [74] Một vài người cho rằng câu trả lời phụ thuộc vào việc hối lộ có đạt được kết quả như mong muốn không.
Một vị giáo sư kinh tế thuộc Đại học Harvard là Roland Fryer, Jr. đang nỗ lực giải đáp câu hỏi này. Fryer, một người Mỹ gốc Phi đã trải qua tuổi thơ ở những khu vực nghèo đói của bang Florida và Texas tin rằng tiền có thể tạo động lực tốt cho học sinh ở các trường học vùng đô thị. Với sự hỗ trợ của một quỹ tài chính, ông đã thí điểm ý tưởng của mình trên một số trường công lớn nhất nước Mỹ. Từ năm 2007, dự án của ông đã thưởng tổng cộng 6,3 triệu dollar cho học sinh ở 261 trường học vùng đô thị có đa phần học sinh là người Mỹ gốc Phi và người Hispanic, con cái các gia đình có thu nhập thấp. Ở mỗi thành phố, ông lại sử dụng một cơ chế thưởng tiền khác nhau [75].
• Ở thành phố New York, các trường thưởng cho mỗi học sinh lớp bốn 25 dollar nếu các em đạt điểm cao trong kỳ thi chuẩn hóa. Học sinh lớp bảy được thưởng 50 dollar cho mỗi kỳ thi. Mỗi học sinh lớp bảy trung bình được thưởng 231,55 dollar tổng cộng [76].
• Ở Washington, D.C., các trường trung học cơ sở thưởng cho học sinh tiền mặt khi các em đi học đầy đủ, cư xử đúng đắn và nộp bài tập về nhà. Những em chăm chỉ có thể kiếm được 100 dollar trong hai tuần. Một học sinh bình thường nhận được khoảng 40 dollar vào mỗi kỳ thanh toán diễn ra hai tuần một lần, và sau một năm học thì tổng cộng em đó nhận được 532,85 dollar [77].
• Ở Chicago, các trường thưởng tiền mặt cho học sinh lớp chín nếu các em đạt điểm tốt: 50 dollar cho điểm A, 35 dollar cho điểm B và 20 dollar cho điểm C. Sau một năm học, những em giỏi nhất sẽ có một món tiền khá: 1.875 dollar [78].
• Ở Dallas, học sinh lớp hai được thưởng 2 dollar khi đọc được một cuốn sách. Để nhận được tiền thưởng thì các em phải làm một bài trắc nghiệm trên máy tính để chứng minh rằng mình đã đọc sách thật [79].
Việc thưởng tiền đã đem lại những kết quả trái ngược. Ở thành phố New York, nó không hề làm kết quả học tập của học sinh tốt hơn. Ở Chicago, nó khiến học sinh đi học đầy đủ hơn, nhưng kết quả kỳ thi chuẩn không thay đổi. Ở Washington, nhờ được thưởng tiền mà một số học sinh (các em người Hispanic, các em trai và các em gặp vấn đề về hạnh kiểm) đã có kết quả môn đọc hiểu cao hơn. Cơ chế thưởng tiền hiệu quả nhất là ở Dallas, các em học sinh lớp hai được thưởng 2 dollar khi đọc thêm một cuốn sách đã đạt kết quả tốt trong kỳ thi môn đọc hiểu cuối năm [80].
Dự án của Fryer là một trong rất nhiều nỗ lực thưởng tiền cho học sinh để các em học tốt hơn gần đây. Một chương trình khác tương tự, cũng thưởng tiền cho các em đạt kết quả cao trong kỳ thi AP. Các khóa học AP cho phép học sinh trung học được theo học các khóa toán học, lịch sử, khoa học, tiếng Anh và nhiều môn khác ở cấp độ đại học. Năm 1996, bang Texas đưa ra Chương trình khuyến khích AP, theo đó mỗi học sinh được thưởng từ 100 đến 500 dollar (tùy trường) khi thi đỗ một môn trong kỳ thi AP (từ 3 điểm trở lên). Giáo viên của các em cũng được thưởng 100 đến 500 dollar cho mỗi học sinh của họ thi đỗ, ngoài ra họ còn được thưởng thêm. Chương trình khuyến khích AP hiện đang hoạt động ở 60 trường trung học trong bang Texas, mục tiêu là giúp học sinh thuộc nhóm thiểu số và thuộc các gia đình thu nhập thấp sẵn sàng hơn cho khóa học đại học. Khoảng 10 bang khác cũng đang áp dụng chính sách khuyến khích bằng tiền cho học sinh và giáo viên đạt kết quả tốt trong kỳ thi AP[81].
Một số chương trình khuyến khích không hướng vào học sinh mà vào giáo viên. Mặc dù công đoàn giáo viên tỏ ra dè dặt trước đề xuất thưởng-tiền-theo-kết-quả-học-tập, nhưng ý tưởng thưởng cho giáo viên nếu học sinh đạt kết quả cao giờ đã trở nên phổ biến đối với các cử tri, chính trị gia và một vài nhà cải cách giáo dục. Từ năm 2005, các trường công ở các thành phố Denver, New York, Washington, D.C.; hạt Guilford, bang North Carolina và thành phố Houston đã áp dụng cơ chế thưởng tiền cho giáo viên. Năm 2006, Quốc hội đã thành lập Quỹ Khuyến khích giáo viên để cung cấp nguồn tài chính cho chương trình thưởng-tiền-theo-kết-quả-học-tập cho giáo viên ở những trường nhiều học sinh kém. Chính phủ Obama còn cấp nhiều tiền hơn cho chương trình. Gần đây, một dự án khuyến khích do tư nhân tài trợ ở Nashville đã đề xuất thưởng cho giáo viên dạy toán ở các trường trung học cơ sở khoản tiền lên tới 15.000 dollar nếu cải thiện được kết quả kỳ thi của học sinh [82].
Ở Nashville, mặc dù tiền thưởng có giá trị khá lớn nhưng nó không thay đổi kết quả học tập môn toán của học sinh. Nhưng các chương trình khuyến khích AP ở Texas và nhiều nơi khác đã có tác động tích cực. Ngày càng nhiều học sinh, trong đó có những em thuộc nhóm cộng đồng thiểu số hoặc gia đình có thu nhập thấp đã có động lực theo học các khóa học AP. Rất nhiều em đã vượt qua được kỳ thi chuẩn hóa và được công nhận đã hoàn thành khóa học một số môn ở trình độ đại học. Một tin rất tốt. Nhưng nó không phản ánh quan điểm của kinh tế học về công cụ khuyến khích tài chính rằng học sinh càng nhận được nhiều tiền thì học càng chăm chỉ hơn và đạt kết quả càng tốt hơn. Câu chuyện thực tế phức tạp hơn nhiều.
Những chương trình khuyến khích AP đã thành công là những chương trình không chỉ thưởng tiền cho học sinh và giáo viên mà còn làm thay đổi văn hóa trường học cũng như thái độ của học sinh đối với kết quả học tập. Chương trình đã mở khóa đào tạo đặc biệt cho giáo viên, cung cấp trang thiết bị phòng thí nghiệm, tổ chức các buổi hướng dẫn học sinh ngoài giờ học và vào thứ bảy. Một trường kém ở Worcester, bang Massachusetts đã mở các lớp AP cho mọi học sinh chứ không chỉ cho những em xuất sắc được chọn từ trước. Họ mời gọi học sinh vào lớp AP với những tấm áp phích in hình các ngôi sao nhạc rap, “chúng hấp dẫn đến nỗi các cậu trai chuyên mặc quần bò thụng, thần tượng các ca sỹ rap như Lil Wayne cũng chọn những lớp khó nhất”. Số tiền thưởng 100 dollar mỗi em nhận được khi vượt qua kỳ thi AP cuối năm chính là động lực, và dường như nó hiệu quả vì ý nghĩa của tiền thưởng chứ không phải vì bản thân khoản tiền: “Được nhận tiền thưởng có cái gì đó rất thú vị”, một em học sinh đã thi đỗ nói với báo New York Times. “Một cảm giác cực kỳ đặc biệt”. Các lớp hướng dẫn học tập sau giờ học được tổ chức hai lần một tuần và 18 giờ học vào các ngày thứ bảy cũng có tác dụng tích cực [83].
Một nhà kinh tế học đã nghiên cứu kỹ chương trình khuyến khích AP ở các trường dành cho học sinh từ gia đình có thu nhập thấp ở bang Texas. Ông nhận thấy có một điểm thú vị: chương trình đã thành công trong việc làm kết quả học tập của các em tăng lên đáng kể, nhưng không phải bằng “hiệu ứng giá” thông thường (bạn càng thưởng nhiều thì học sinh càng đạt điểm cao). Mặc dù một số trường thưởng 100 dollar cho những em vượt qua được kỳ thi AP, một số trường khác lại thưởng đến 500 dollar, nhưng kết quả thi cử của học sinh hai nhóm này không khác biệt. Giáo viên và học sinh “không đơn giản là tối đa hóa doanh thu” – như tác giả nghiên cứu C. Kirabo Jackson đã viết [84].
Vậy cái gì đã xảy ra? Tiền có ý nghĩa tinh thần – nó khiến cho kết quả học tập tốt trở thành “sành điệu”. Đó là lý do tại sao số tiền bao nhiêu không quan trọng. Mặc dù ở hầu hết các trường, khuyến khích bằng tiền chỉ áp dụng với các khóa học AP môn tiếng Anh, toán và khoa học, nhưng chương trình này đã làm gia tăng số học sinh theo học các môn học AP khác như lịch sử, khoa học xã hội. Chương trình khuyến khích AP thành công không chỉ nhờ “hối lộ” học sinh để các em học tốt mà còn vì nó thay đổi thái độ của các em đối với thành tích học tập cũng như thay đổi văn hóa trong trường học [85].
HỐI LỘ ĐỂ GIỮ GÌN SỨC KHOẺ
Y tế là một lĩnh vực nữa mà công cụ khuyến khích bằng tiền đang thịnh hành. Ngày càng phổ biến hiện tượng các bác sỹ, công ty bảo hiểm, chủ doanh nghiệp trả tiền cho mọi người để họ giữ gìn sức khỏe – thông qua việc uống thuốc, bỏ thuốc lá, giảm cân. Bạn có thể nghĩ ai chẳng có động cơ giữ gìn sức khỏe để không bị bệnh tật, bị đe dọa tính mạng. Nhưng điều ngạc nhiên là thực tế không phải lúc nào cũng như vậy. Một phần ba đến một nửa số bệnh nhân không uống thuốc đúng như được kê đơn. Khi tình trạng sức khỏe của họ kém đi, hậu quả chung là mỗi năm họ phải tốn thêm hàng tỷ dollar để chữa bệnh. Vì thế, các bác sỹ, các công ty bảo hiểm đã đưa ra chính sách khuyến khích người bệnh uống thuốc bằng cách trả tiền [86].
Ở Philadelphia, những người được kê warfarin – một loại thuốc chống chứng máu đóng cục – có thể nhận được khoản tiền từ 10 đến 100 dollar khi uống thuốc. (Một hộp đựng thuốc được điều khiển bằng máy tính sẽ ghi lại việc bệnh nhân uống thuốc mỗi ngày và hôm đó họ có được thưởng tiền không). Những người tham gia chương trình khuyến khích uống thuốc bằng tiền nhận được trung bình 90 dollar một tháng khi tuân thủ đúng đơn thuốc. Ở Anh, một số bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực hoặc tâm thần phân liệt được nhận 15 bảng (khoảng 22 dollar) nếu họ đi tiêm thuốc thần kinh hằng tháng. Các em gái tuổi thanh thiếu niên được nhận thẻ mua hàng trị giá 45 bảng (khoảng 68 dollar) nếu đi tiêm vacxin phòng bệnh ung thư cổ tử cung do virus có thể lây nhiễm qua đường tình dục gây ra [87].
Hành vi hút thuốc khiến các công ty phải bỏ ra chi phí rất lớn để chi trả bảo hiểm y tế cho nhân viên. Vì vậy, năm 2009, tập đoàn General Electric bắt đầu trả tiền cho một vài nhân viên để họ bỏ thuốc. Nếu một người bỏ thuốc được một năm thì sẽ nhận được 750 dollar. Kết quả đạt được hứa hẹn đến mức GE đã mở rộng chương trình cho toàn bộ nhân viên ở Mỹ. Chuỗi cửa hàng tạp hóa Safeway cho phép nhân viên đóng phí bảo hiểm y tế thấp hơn nếu họ không hút thuốc, duy trì cân nặng, huyết áp và cholesterol trong mức kiểm soát. Ngày càng có nhiều công ty sử dụng kết hợp hai công cụ cây gậy và củ cà rốt để khuyến khích nhân viên cải thiện sức khỏe. Giờ đây 80% các công ty lớn ở Mỹ thực hiện khuyến khích bằng tiền để nhân viên tham gia tập thể dục. Và gần một nửa các công ty áp dụng chính sách phạt người lao động nếu họ có thói quen có hại cho sức khỏe, thường dưới dạng yêu cầu họ phải nộp phí bảo hiểm y tế cao hơn [88].
Giảm cân là mục tiêu hấp dẫn nhất nhưng cũng khó đạt được nhất trong các thử nghiệm khuyến khích giữ sức khỏe bằng tiền. Kênh NBC đã đẩy mốt trả tiền để mọi người giảm cân lên kịch tính trong chương trình truyền hình thực tế Kẻ thất bại lớn nhất (The Biggest Loser).
Chương trình này thưởng 250.000 dollar cho thí sinh nào đạt được thành tích giảm cân tốt nhất trong suốt cuộc thi.[89]
Các bác sỹ, nhà nghiên cứu và chủ doanh nghiệp đã từng thử áp dụng những biện pháp ôn hòa hơn. Theo một nghiên cứu ở Mỹ, mức thưởng vài trăm dollar đã giúp những người béo phì tham gia nghiên cứu giảm được hơn 6kg trong bốn tháng. (Không may là họ không giảm cân được lâu dài). Ở Anh, nơi Cục Y tế Quốc gia (NHS) phải chi 5% ngân sách của họ vào việc điều trị các bệnh liên quan đến béo phì, NHS đã thử nghiệm thưởng cho người béo phì số tiền lên tới 425 bảng (khoảng 612 dollar) để họ giảm cân và duy trì cân nặng trong hai năm. Chương trình này có tên là “Nhận pound (đồng bảng) để giảm pound (cân nặng)”[90].
Có hai câu hỏi đặt ra về việc trả tiền để con người sống lành mạnh hơn: Khuyến khích bằng tiền như vậy có hiệu quả không? Nó có đáng bị chê trách không?
Xét trên quan điểm kinh tế, trả tiền để con người sống lành mạnh hơn đơn giản chỉ là bài toán so sánh lợi ích và chi phí. Câu hỏi thực sự duy nhất là liệu công cụ này có hiệu quả không. Nếu tiền giúp khuyến khích mọi người uống thuốc, bỏ thuốc lá, tập thể dục, qua đó giảm chi phí y tế tốn kém sau này thì sao lại phản đối nó?
Nhưng có rất nhiều người phản đối. Việc sử dụng tiền để khuyến khích các thói quen có lợi cho sức khỏe đã gây ra cuộc tranh cãi quyết liệt về đạo đức. Một số người phản đối vì tính công bằng, một số người khác liên tưởng đến hối lộ. Lập luận phản đối liên quan đến tính công bằng xuất hiện ở cả hai đảng đối lập. Phe bảo thủ cho rằng những người béo phì phải tự giảm cân, trả tiền để họ làm việc đó (nhất là tiền thuế của người dân) là bất công vì như thế là tưởng thưởng cho sự lười biếng. Họ coi số tiền khuyến khích là “tiền thưởng cho sự chiều chuộng bản thân chứ không phải một cách điều trị”. Tư tưởng nằm sau thái độ phản đối này là “tất cả chúng ta đều tự kiểm soát được cân nặng”, nên thật bất công nếu thưởng tiền cho những người không tự làm được, đặc biệt tiền thưởng lại từ ngân sách của NHS như đôi khi diễn ra ở Anh. “Trả tiền để một người từ bỏ thói quen xấu chính là đặc điểm chính của tư tưởng nhà nước bảo mẫu, làm cho con người không còn có trách nhiệm với sức khỏe của bản thân mình” [91].
Phe tự do lại lo lắng điều ngược lại: thưởng tiền cho người khỏe (và phạt người yếu) có thể gây bất lợi cho những người mà việc phải sử dụng thuốc nằm ngoài mong muốn của họ. Cho phép các doanh nghiệp, các công ty bảo hiểm phân biệt đối xử giữa người khỏe và người yếu thông qua phí bảo hiểm là sự bất công đối với những người có sức khỏe kém hơn, do đó phải chịu rủi ro lớn hơn mà không phải lỗi của họ. Giảm giá để mọi người đi tập thể dục là một chuyện, nhưng đưa ra phí bảo hiểm khác nhau dựa trên tình trạng sức khỏe, là điều mà mỗi người không thể kiểm soát được, lại là chuyện khác hẳn [92].
Lập luận phản đối vì đây là hành vi hối lộ thì trừu tượng hơn. Báo chí thường gọi việc khuyến khích giữ gìn sức khỏe bằng tiền là hành vi hối lộ. Nhưng có thật như thế không? Cơ chế trả tiền để triệt sản thì là hối lộ rõ ràng. Những người phụ nữ được trả tiền để từ bỏ khả năng sinh sản, không phải vì lợi ích của họ mà vì mục đích khác: ngăn cản họ sinh ra những em bé nghiện ma túy. Họ được trả tiền để triệt sản, và ít nhất, với nhiều người, họ làm việc này trái với mong muốn của mình.
Nhưng không thể kết luận tương tự với chương trình khuyến khích mọi người bỏ thuốc và giảm cân bằng tiền. Dù kết quả cuối cùng là gì (giảm chi phí y tế cho các công ty hoặc cơ quan y tế quốc gia) thì số tiền thưởng cũng khuyến khích người nhận có hành vi cải thiện sức khỏe. Thế thì sao lại gọi đây là hối lộ? [93] Hay có thể hỏi hơi khác: tại sao có thể gọi đây là hành vi hối lộ mặc dù kết cục của nó là người được hối lộ có lợi vì cải thiện được sức khỏe?
Tôi nghĩ nó là hối lộ, vì động cơ bằng tiền ở đây trội hơn các động cơ khác tốt đẹp hơn. Lý do như sau: Người có sức khỏe tốt không chỉ có mức cholesterol trong máu hay chỉ số khối cơ thể chuẩn, mà còn là người có thái độ đúng đắn đối với sức khỏe thể chất và biết tự quan tâm, chăm sóc bản thân. Nếu mọi người được thưởng tiền để uống thuốc, thái độ của họ sẽ không tốt hơn mà thậm chí còn kém đi.
Đó là vì bản chất hối lộ rất tinh vi. Nó đi đường vòng để thuyết phục chúng ta, đánh tráo lý do bên ngoài bằng lý do tưởng chừng như xuất phát từ bên trong. Bạn chưa quan tâm đúng mức đến bản thân nên chưa bỏ thuốc lá hay giảm cân? Thế thì tôi sẽ đưa bạn 750 dollar để bạn thực hiện nhé”.
Tiền hối lộ để bảo vệ sức khỏe đã dụ dỗ chúng ta làm một việc mà dù thế nào chúng ta cũng nên làm. Nó xúi bẩy ta làm một điều đúng đắn với một lý do sai lầm. Đôi khi, sự dụ dỗ, xúi bẩy cũng có lợi. Chúng ta không dễ tự bỏ thuốc hay giảm cân. Nhưng nói cho cùng, chúng ta phải vượt qua được sự lôi kéo. Nếu không, hối lộ sẽ trở thành một công cụ tạo thói quen.
Nếu hối lộ có tác dụng thật thì sự lo ngại về việc chúng ta đang làm hỏng thái độ đúng đắn đối với sức khỏe có vẻ như cao thượng không cần thiết. Nếu tiền bạc có thể cứu chúng ta thoát khỏi tình trạng béo phì thì tại sao phải cãi nhau về chuyện chúng ta bị tiền lôi kéo? Câu trả lời là: sự quan tâm đúng mức về sức khỏe chính là một phần của thái độ tự tôn trọng bản thân. Hoặc một câu trả lời khác thực tế hơn: nếu một người không có thái độ đúng đắn đối với sức khỏe thì anh ta sẽ tăng cân trở lại khi không được khuyến khích bằng tiền nữa.
Có vẻ điều này đã xảy ra trong các chương trình thưởng tiền để giảm cân được nghiên cứu cho đến nay. Chương trình thưởng tiền để bỏ thuốc có chút hy vọng le lói.
Nhưng ngay cả nghiên cứu lạc quan nhất cũng kết luận rằng hơn 90% người hút thuốc từng bỏ thuốc khi được thưởng tiền đã hút thuốc trở lại sau khi chương trình kết thúc được sáu tháng. Nhìn chung, chương trình thưởng tiền có vẻ hiệu quả hơn trong việc buộc người tham gia phải xuất hiện vào một dịp đặc biệt nào đó – ví dụ gặp bác sỹ hoặc đi tiêm thuốc – hơn là làm thay đổi thói quen, hành vi lâu dài của họ [94].
Thưởng tiền để con người sống lành mạnh hơn có thể gây ra tác dụng ngược vì không tạo ra được những giá trị giúp duy trì sức khỏe. Nếu kết luận này đúng thì câu hỏi của các nhà kinh tế (“Khuyến khích bằng tiền có hiệu quả không?”) và câu hỏi của các nhà nghiên cứu đạo đức (“Có nên phản đối công cụ này không?”) có quan hệ chặt chẽ với nhau hơn chúng ta nghĩ ban đầu. Công cụ khuyến khích bằng tiền “hiệu quả” hay không tùy thuộc vào mục tiêu là gì. Và mục tiêu, xét một cách đúng đắn, là phải bao gồm việc tạo ra những giá trị, thói quen – những thứ mà chính công cụ khuyến khích bằng tiền đang làm xói mòn.
NHỮNG CÔNG CỤ KHUYẾN KHÍCH SAI LẦM
Một người bạn của tôi từng thưởng cho con cái anh ta 1 dollar mỗi khi chúng viết một lá thư cảm ơn (Đọc thư thì tôi có thể nói rằng bọn trẻ đã miễn cưỡng viết những lời cảm ơn ấy). Việc làm của bạn tôi có thể có tác dụng hoặc không trong dài hạn. Có thể sau khi viết rất nhiều thư cảm ơn, bọn trẻ cũng hiểu ra được ý nghĩa thực sự của những lá thư, và sẽ tiếp tục viết để thể hiện sự biết ơn mỗi khi nhận được quà cho dù không còn được thưởng tiền nữa. Và cũng có thể bọn trẻ học phải một bài học sai lầm, coi việc viết thư là chuyện vớ vẩn, là gánh nặng phải làm nếu muốn có tiền. Trong tình huống sau, bọn trẻ không hình thành được thói quen tốt, và chúng sẽ chấm dứt ngay việc viết thư khi không còn tiền thưởng. Tệ hơn, hành vi hối lộ của ông bố đã làm xói mòn bài học đạo đức, khiến bọn trẻ khó mà hiểu được ý nghĩa của lòng biết ơn. Cho dù hành động thưởng tiền làm bọn trẻ chăm viết thư cảm ơn hơn trong ngắn hạn, nhưng ông bố vẫn sẽ thất bại vì đã khắc sâu vào tâm trí con cách đánh giá hành động cảm ơn theo cách sai lầm.
Với chính sách thưởng tiền khi học sinh đạt điểm tốt cũng phát sinh câu hỏi tương tự: Tại sao không thưởng tiền cho học sinh khi các em đạt điểm tốt hoặc đọc được một cuốn sách? Mục tiêu của việc thưởng tiền là khuyến khích các em học và đọc. Tiền là công cụ giúp đạt được mục tiêu cuối cùng đó. Kinh tế học nói rằng con người sẽ phản ứng khi được khuyến khích. Một số em có thể sẽ đọc sách vì ham học hỏi, nhưng một số em khác thì không. Thế thì tại sao không sử dụng tiền để khuyến khích các em nhiều hơn?
Theo lập luận của kinh tế học, có thể hai công cụ khuyến khích sẽ hiệu quả hơn một. Nhưng cũng có thể hóa ra là khuyến khích bằng tiền sẽ làm xói mòn động cơ thực sự, khiến các em học sinh đọc ít đi chứ không phải nhiều hơn. Hoặc trong ngắn hạn, các em sẽ đọc nhiều hơn, nhưng với động cơ sai lầm.
Với tình huống này thì thị trường chỉ là một công cụ, nhưng nó không phải vô hại. Cái ban đầu chỉ là cơ chế thị trường về sau đã trở thành chuẩn mực thị trường. Rõ ràng người ta lo ngại rằng tiền thưởng sẽ gieo vào đầu các em ý nghĩ rằng đọc sách là một cách kiếm tiền, do đó làm xói mòn, hoặc lấn át, hoặc làm suy yếu chính tình yêu của các em với sách.
Việc dùng tiền để làm động cơ khuyến khích giảm cân, đọc sách hoặc triệt sản đều phản ánh logic của giải pháp kinh tế trong đời sống, không những thế còn mở rộng ý nghĩa của nó. Vào giữa thập niên 1970, khi Gary Becker viết rằng có thể giải thích được mọi hành vi của con người nếu giả định con người luôn tính toán lợi ích và chi phí đối với bản thân, ông có nhắc đến “giá bóng” – mức giá tưởng tượng, được cho là tồn tại ẩn sau những lựa chọn mà chúng ta có và lựa chọn cuối cùng của chúng ta. Ví dụ, khi một người quyết định duy trì hôn nhân thay vì ly hôn, anh ta không đưa ra mức giá nào cả. Nhưng thực ra anh ta có xem xét giá ẩn sau việc ly hôn – bao gồm cái giá về tiền bạc và cái giá về tình cảm, và quyết định rằng lợi ích của ly hôn không đáng để anh ta phải trả cái giá này. Nhưng cơ chế khuyến khích rất phổ biến ngày nay còn đi xa hơn. Nó đưa ra mức giá thật, công khai cho những hành động không liên quan mấy đến mục tiêu vật chất, khiến cho cái Becker gọi là “giá bóng” bước ra khỏi bóng tối và hiển hiện rất thực tế. Và nó chứng minh nhận định của Becker rằng mọi mối quan hệ giữa con người với nhau, nói cho cùng, đều là quan hệ thị trường.
Chính Becker cũng đưa ra một đề xuất ấn tượng đi kèm: giải pháp thị trường cho cuộc tranh luận chưa có hồi kết về chính sách nhập cư. Theo ông, nước Mỹ nên bỏ hết cơ chế phức tạp gồm hạn mức người nhập cư, hệ thống điểm số, các quy định về gia đình và chính sách xếp hàng, thay vào đó, đơn giản là bán quyền nhập cư. Với lượng người có nhu cầu nhập cư đang có, Becker đề xuất giá nhập cư là 50.000 dollar một người hoặc có thể cao hơn [95].
Becker giải thích như sau: Những người sẵn lòng trả nhiều tiền để được nhập cư sẽ tự động có những phẩm chất mà nước Mỹ mong muốn. Họ sẽ là những người trẻ, có kỹ năng, có tham vọng, chăm chỉ làm việc và sẽ không dùng đến trợ cấp thất nghiệp hay các phúc lợi khác của nhà nước. Khi Becker đề xuất bán quyền nhập cư lần đầu tiên vào năm 1987, rất nhiều người cho rằng ông cường điệu. Nhưng với những người có tư duy kinh tế mạnh mẽ, đây là cách sử dụng lập luận thị trường một cách hợp lý, thậm chí rõ ràng để trả lời một câu hỏi hóc búa: Làm thế nào tính được chúng ta nên chấp nhận bao nhiêu người nhập cư?
Một nhà kinh tế khác là Julian L. Simon cũng đưa ra đề xuất tương tự gần như đồng thời với Becker. Ông gợi ý nên đặt ra hạn mức số người được nhập cư mỗi năm và đấu giá quyền nhập cư trong hạn mức đó cho những người trả giá cao nhất. Simon cho rằng bán quyền nhập cư là công bằng “vì nó phân biệt đối xử theo tiêu chí của xã hội định hướng thị trường: tức là dựa vào khả năng và mức sẵn lòng chi trả”. Trước những lời phản đối rằng theo kế hoạch của ông thì chỉ người giàu mới được nhập cư, Simon đưa ra giải pháp là cho phép người thắng đấu giá quyền nhập cư được vay chính phủ một phần phí nhập cư rồi hoàn trả lại sau thông qua thuế thu nhập. Nếu họ không trả được thì luôn có thể trục xuất họ [96].
Một số người thấy ý tưởng bán quyền nhập cư là một sự xúc phạm. Nhưng ở thời đại mà niềm tin vào thị trường đang lên cao, đề xuất của Becker và Simon đã nhanh chóng được luật hóa. Năm 1990, Quốc hội ra quy định những người đầu tư 500.000 dollar vào nước Mỹ có thể nhập cư vào Mỹ cùng gia đình trong hai năm, sau hai năm họ có thể được nhận thẻ xanh (công dân vĩnh viễn) nếu dự án đầu tư của họ tạo ra ít nhất 10 việc làm. Chương trình tiền-đổi-thẻ-xanh thực chất chính là cơ chế chen hàng, tạo ra lối đi ưu tiên để có thẻ công dân. Năm 2011, hai thượng nghị sỹ đã đề xuất đạo luật có cơ chế khuyến khích bằng tiền tương tự để phát triển thị trường nhà cao cấp vẫn đang còn èo uột sau cơn khủng hoảng tài chính. Bất kỳ người nước ngoài nào mua một ngôi nhà trị giá 500.000 dollar đều được cấp thị thực cho phép người mua cùng vợ/chồng và con cái được sống ở Mỹ trong thời gian họ sở hữu nhà. Tạp chí Wall Street Journal tóm gọn chương trình này trong một câu: mua nhà, được thị thực [97].
Thậm chí Becker còn đề xuất đánh phí cư trú đối với người tị nạn vì sợ bị khủng bố, ngược đãi. Ông cho rằng thị trường tự do sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn khi quyết định nên chấp nhận cho ai tị nạn: những người có động lực trả tiền. “Người tị nạn chính trị và những người bị khủng bố, bị ngược đãi ở quê hương rõ ràng là có lý do để sẵn lòng trả một số tiền đáng kể để được chấp nhận cư trú ở một quốc gia tự do. Vì vậy, hệ thống phí sẽ giúp chúng ta đương nhiên không phải nghe những lời trình bày dài dòng về việc người tị nạn sẽ thực sự gặp nguy hiểm thế nào nếu họ bị buộc phải trở về quê hương” [98].
Đối với bạn, đòi người tị nạn phải bỏ ra số tiền 50.000 dollar có vẻ nhẫn tâm – một ví dụ nữa cho thấy nhà kinh tế không thể phân biệt được đâu là mức sẵn lòng trả, đâu là khả năng chi trả. Vì vậy, hãy xem một gợi ý khác cũng giải quyết bài toán người tị nạn theo hướng thị trường. Nó không bắt người nhập cư phải lộn sạch túi ra vẫn không đủ tiền. Peter Schuck, một giáo sư ngành luật đề xuất như sau:
Hãy để một tổ chức quốc tế quyết định hạn mức người tị nạn mà mỗi nước phải tiếp nhận mỗi năm, dựa vào mức độ thịnh vượng của từng nước. Sau đó hãy để các nước mua bán nghĩa vụ tiếp nhận người tị nạn với nhau. Ví dụ, nếu Nhật Bản có nghĩa vụ phải nhận 20.000 người tị nạn mỗi năm, nhưng lại không muốn nhận, thì họ có thể trả tiền cho Nga hoặc Uganda để các nước này nhận hộ. Theo logic thị trường thông thường, cả hai nước sẽ đều có lợi. Nga hoặc Uganda có thêm thu nhập, còn Nhật vẫn đáp ứng được nghĩa vụ tiếp nhận người tị nạn bằng cách nhờ nước khác làm hộ, và sẽ có nhiều người tị nạn được cứu giúp hơn so với khi họ phải tự tìm nơi ẩn náu [99].
Thị trường người tị nạn – nghe có vẻ đáng sợ, cho dù nó giúp nhiều người tị nạn tìm được nơi trú ẩn hơn. Nhưng chính xác thì đâu là nguyên nhân khiến nó bị phản đối? Hẳn nguyên nhân phải có liên quan đến một điều rằng thị trường người tị nạn sẽ làm thay đổi cách nhìn của chúng ta về người tị nạn: họ là ai, phải đối xử với họ như thế nào. Thị trường người tị nạn sẽ khuyến khích những người tham gia – bao gồm người bán, người mua, và cả những người mà nơi ở của họ đang bị đem ra mặc cả – coi người tị nạn là gánh nặng cần dỡ bỏ, hoặc là phương tiện tạo thu nhập, chứ không phải như những con người đang rơi vào hiểm nguy.
Ai đó có thể biết thị trường người tị nạn sẽ gây hiệu ứng xấu như thế nào, nhưng vẫn cho rằng cơ chế này có nhiều ưu điểm hơn là nhược điểm. Nhưng ví dụ này cho thấy một điều: thị trường không chỉ đơn thuần là các quy tắc. Nó cũng có những chuẩn mực nhất định. Nó phỏng đoán — và khẳng định – một số cách thức để đánh giá hàng hóa.
Các nhà kinh tế học thường giả định thị trường không động vào, cũng như không hề làm hư hỏng hàng hóa được mua bán. Không đúng. Thị trường có để lại dấu ấn lên các chuẩn mực xã hội. Các động cơ thị trường thường làm xói mòn hoặc lấn át các động cơ phi thị trường.
Một nghiên cứu về các trung tâm chăm sóc trẻ em ở Israel đã chứng minh điều này. Các trung tâm đều gặp phải vấn đề giống nhau: đôi khi phụ huynh đến đón con muộn. Một giáo viên phải ở lại đợi cùng các em. Để giải quyết tình trạng ấy, các trung tâm quy định phụ huynh phải nộp phạt nếu đón con muộn. Bạn đoán chuyện gì sẽ xảy ra? Càng nhiều người đón con muộn hơn [100].
Bạn nghĩ mọi người sẽ phản ứng khi được tạo động lực, nhưng kết quả thực tế làm bạn bối rối Bạn nghĩ phạt tiền sẽ làm giảm tình trạng đón con muộn, chứ không phải làm tăng lên. Tại sao lại như vậy? Vì cơ chế trả tiền đã làm thay đổi chuẩn mực cư xử. Trước đó, các phụ huynh đến muộn thường cảm thấy có lỗi khi gây phiền toái cho giáo viên. Nhưng giờ họ coi việc đón con muộn là quyền lợi mà họ sẵn lòng trả tiền để được hưởng. Họ coi tiền phạt là tiền phí. Không phải họ đang gây phiền toái cho giáo viên mà đơn giản là họ đã trả tiền để giáo viên làm thêm giờ.
TIỀN PHẠT VÀ TIỀN PHÍ
Tiền phạt và tiền phí khác nhau ở chỗ nào? Rất đáng tìm hiểu sự khác biệt này. Phạt thể hiện sự phản đối về mặt đạo đức, còn phí đơn giản là cái giá phải trả, không hàm ý phán xét gì về đạo đức. Khi chúng ta bắt người vứt rác bừa bãi phải nộp phạt, chúng ta muốn nói rằng vứt rác bừa bãi là hành vi sai trái. Vứt một vỏ lon bia xuống thắng cảnh Grand Canyon không chỉ làm tăng chi phí vệ sinh mà còn là hành vi xấu mà xã hội không khuyến khích. Giả sử tiền phạt là 100 dollar, và một vị khách giàu có sẵn sàng nộp phạt để đỡ phải mang lon bia rỗng đi bộ một quãng đường dài ra khỏi khu du lịch. Anh ta đã coi tiền phạt là tiền phí và vứt luôn rác xuống hẻm núi. Mặc dù anh ta có trả tiền, nhưng chúng ta vẫn cho rằng anh ta đã có hành vi xấu. Khi xem thắng cảnh Grand Canyon như một thùng rác đắt tiền, anh ta đã không đánh giá giá trị của nó một cách đúng đắn.
Hoặc ví dụ khác là chỗ đỗ xe dành cho người tàn tật. Giả sử một nhà thầu khỏe mạnh bình thường, rất bận rộn, muốn đỗ xe gần tòa nhà làm việc. Để được đỗ xe ở chỗ dành cho người tàn tật, ông ta sẵn lòng trả một số tiền phạt lớn. Ông ta coi tiền này là chi phí kinh doanh. Mặc dù ông có nộp phạt, nhưng chúng ta có nghĩ ông ta đang làm sai không? Ông ta coi tiền phạt đơn giản là mức phí đỗ xe đắt đỏ. Nhưng ông ta đã quên mất ý nghĩa đạo đức.
Khi coi tiền phạt là tiền phí, ông ta đã không tôn trọng nhu cầu của người tàn tật cũng như mong muốn của cộng đồng là hỗ trợ người tàn tật khi dành cho họ chỗ đỗ xe riêng.
Phiếu phạt chạy quá tốc độ trị giá 217.000 dollar
Những người coi tiền phạt là tiền phí đã chế giễu những chuẩn mực mà mọi người coi trọng thông qua việc đưa ra mức phạt. Thường thì xã hội sẽ phản ứng lại. Những tài xế giàu có coi phiếu phạt chạy quá tốc độ là cái giá phải trả cho việc muốn chạy nhanh bao nhiêu cũng được. Ở Phần Lan, các quy định pháp luật được xây dựng dựa trên cách nghĩ (và cách lái xe) này. Họ đưa ra mức tiền phạt phụ thuộc vào thu nhập của người vi phạm. Năm 2003, Jussi Salonoja – 27 tuổi, người thừa kế một gia đình chuyên sản xuất xúc xích – đã bị phạt 170.000 euro (khoảng 217.000 dollar vào thời điểm đó) vì đã lái xe với tốc độ 80 km/h trên đoạn đường giới hạn tốc độ 40 km/h. Salonoja là một trong những người giàu nhất Phần Lan với thu nhập hàng năm là 7 triệu euro. Kỷ lục tiền phạt cao nhất trước đó thuộc về Anssi Vanjoki, thành viên ban giám đốc công ty điện thoại di động Nokia. Năm 2002, ông bị phạt 116.000 euro vì chạy quá tốc độ trên chiếc xe máy Harley- Davidson của ông ở Helsinki. Về sau, thẩm phán đã giảm mức phạt xuống khi Vanjoki chứng minh được rằng thu nhập của ông ta bị giảm đi do lợi nhuận của Nokia giảm [101].
Tấm phiếu phạt chạy quá tốc độ ở Phần Lan thực sự là tiền phạt chứ không phải tiền phí, không chỉ bởi tiền phạt được tính dựa vào thu nhập mà vì đằng sau khoản tiền phạt là sự sỉ nhục vì vi phạm đạo đức – xã hội phán quyết rằng vượt quá tốc độ cho phép là hành vi sai trái. Thuế thu nhập lũy tiến cũng được tính theo thu nhập, và thuế không phải tiền phạt. Mục đích của thuế là để tạo nguồn thu cho ngân sách chứ không phải để phạt những hành vi tạo thu nhập. Tấm phiếu phạt trị giá 217.000 dollar cho thấy xã hội Phần Lan không chỉ muốn dùng tiền phạt để bù đắp cho hành vi nguy hiểm mà họ còn muốn trừng phạt đích đáng kẻ gây ra tội lỗi – và cả tài khoản ngân hàng của hắn.
Cho dù một số tài xế có thái độ quá phóng túng đối với tốc độ tối đa được phép thì ranh giới giữa tiền phạt và tiền phí cũng không dễ mất đi. Ở hầu hết các nước, bị cảnh sát yêu cầu tấp vào lề đường và đưa phiếu phạt vẫn là một chuyện đáng xấu hổ. Không ai nghĩ cảnh sát giao thông chỉ đơn giản là thu phí qua đường hay đưa phiếu phạt để tài xế được phép chạy nhanh. Gần đây, tình cờ tôi đọc được một đề xuất khá kỳ quặc nhưng cho thấy rõ sự khác biệt thông qua việc chỉ ra phí (chứ không phải phạt) đi quá tốc độ nghĩa là như thế nào.
Năm 2010, Eugene “Gino” DiSimone, ứng cử viên độc lập chạy đua vào vị trí thống đốc bang Nevada đã đưa ra một đề xuất khác thường nhằm tăng thu nhập cho ngân sách bang: Cho phép người dân nộp 25 dollar mỗi ngày để được lái xe quá tốc độ cho phép là 145 km/h trên một số đường nhất định ở Nevada. Nếu bạn muốn chỉ đôi khi chạy quá tốc độ, bạn phải mua một bộ thu phát tín hiệu và dùng máy điện thoại di động truy cập vào tài khoản ngân hàng mỗi khi muốn đến một nơi thật nhanh. Thẻ tín dụng của bạn sẽ bị trừ 25 dollar, và bạn được quyền lái xe với bất cứ tốc độ nào bạn muốn trong vòng 24 giờ mà không bị cảnh sát bắt. Nếu cảnh sát giao thông dùng radar phát hiện ra bạn đang chạy quá tốc độ trên đường cao tốc thì bộ thu phát sóng sẽ phát tín hiệu cho biết bạn đã trả tiền, và bạn sẽ không bị phạt. DiSimone ước tính đề xuất của ông sẽ mang lại ít nhất 1,3 tỷ dollar mỗi năm cho ngân sách bang mà không cần tăng thuế. Mặc dù số tiền thu được cho ngân sách bang thật hấp dẫn, nhưng Cục Cảnh sát tuần tra đường cao tốc Nevada vẫn cho rằng đề xuất này sẽ đe dọa sự an toàn của mọi người, và DiSimone đã thất bại trong cuộc bầu cử [102].
Gian lận vé tàu điện ngầm và thuê video
Trong thực tế, sự khác biệt giữa tiền phạt và tiền phí có thể không rõ ràng, thậm chí gây tranh cãi. Hãy xem ví dụ sau: Nếu bạn đi tàu điện ngầm Métro ở Paris mà không mua vé với giá 2 dollar, bạn có thể bị phạt 60 dollar. Số tiền này là để phạt bạn đã gian lận khi không chịu trả tiền vé. Nhưng gần đây, một nhóm người chuyên trốn vé đã tìm ra một biện pháp khôn ngoan để biến tiền phạt thành tiền phí theo cách khá ôn hòa. Họ lập ra quỹ bảo hiểm dùng để nộp phạt khi có thành viên bị bắt vì trốn vé. Mỗi tháng mỗi thành viên nộp vào quỹ khoảng 8,5 dollar, ít hơn nhiều so với số tiền 74 dollar họ phải bỏ ra khi mua vé tháng hợp lệ (họ gọi nó là mutuelle des fraudeurs – quỹ tương hỗ của những kẻ gian lận).
Thành viên của mutuelle nói họ gian lận không phải vì tiền mà vì họ theo tư tưởng giao thông công cộng phải là miễn phí. “Đây là một cách để chúng tôi cùng thể hiện sự phản đối” – người đứng đầu nhóm gian lận trả lời phỏng vấn báo Los Angeles Times. “Ở Pháp có những thứ mặc định là miễn phí – giáo dục, y tế. Tại sao giao thông công cộng lại không?” Mặc dù gian lận là không thuyết phục, nhưng cơ chế mới lạ của nhóm đã biến tiền phạt gian lận thành phí bảo hiểm hằng tháng, thành mức giá mà họ sẵn lòng trả để phản đối lại hệ thống thu tiền [103].
Để biết một khoản tiền phải nộp là phạt hay phí, chúng ta cần xác định được tổ chức xã hội ta đang tìm hiểu thu tiền với mục đích gì và những chuẩn mực cần được áp dụng. Câu trả lời phụ thuộc vào việc chúng ta đang nói về chuyện đến đón con muộn, hay nhảy qua cửa quay vào ga tàu điện ngầm ở Paris, hay... thuê đĩa DVD quá hạn ở cửa hàng băng đĩa gần nhà.
Ban đầu, các cửa hàng băng đĩa coi phí trả băng đĩa muộn là tiền phạt. Nếu tôi thuê DVD và trả muộn, nhân viên đứng quầy sẽ tỏ ra khó chịu. Cứ như thể tôi đã sai về đạo đức khi giữ đĩa phim lại thêm ba ngày. Tôi nghĩ thái độ của anh ta như vậy là không đúng.
Nói cho cùng, cửa hàng kinh doanh băng đĩa không phải thư viện công cộng. Các thư viện yêu cầu người mượn nộp phạt nếu trả sách muộn, tiền phạt chứ không phải phí. Đó là vì mục đích của họ là tổ chức, sắp xếp việc chia sẻ sách miễn phí cho cộng đồng. Vì vậy, nếu tôi quay lại thư viện với cuốn sách mình mượn đã quá hạn chưa trả thì đúng là tôi sẽ cảm thấy có lỗi.
Nhưng cửa hàng băng đĩa là cơ sở kinh doanh. Mục đích của họ là kiếm tiền thông qua việc cho thuê băng đĩa. Vì vậy, nếu tôi giữ một đĩa phim lâu hơn bình thường và trả tiền cho thời gian quá hạn thì tôi phải được coi là khách hàng tốt chứ không phải xấu. Tôi nghĩ như vậy. Dần dần, chuẩn mực này đã thay đổi. Giờ đây, các cửa hàng băng đĩa có vẻ đã coi khoản tiền phải trả khi thuê quá hạn là tiền phí chứ không phải tiền phạt.
Chính sách một con của Trung Quốc
Thường mối lo ngại về đạo đức là lớn hơn. Hãy xem một ví dụ gây tranh cãi về ranh giới đôi khi khá mơ hồ giữa tiền phạt và tiền phí: Ở Trung Quốc, khoản tiền phạt vi phạm chính sách một con đang được ngày càng nhiều người giàu coi là cái giá phải trả để được sinh thêm con. Chính sách một con – với quy định mỗi gia đình sống ở đô thị chỉ được sinh một con – đã có hiệu lực hơn ba thập kỷ nay, với mục đích giảm tốc độ tăng dân số của Trung Quốc. (Các gia đình nông thôn được phép có hai con nếu con đầu lòng của họ là con gái). Mức phạt khác nhau giữa các vùng, ở các thành phố lớn, nó lên đến 200.000 nhân dân tệ (khoảng 31.000 dollar) – một con số kinh khủng đối với công nhân bình thường, nhưng không đáng là gì với các doanh nhân, ngôi sao thể thao, những người nổi tiếng giàu có. Một cơ quan thông tấn Trung Quốc từng đưa tin: Ở Quảng Châu, có một cặp vợ chồng với người vợ đang mang bầu bước vào phòng kế hoạch hóa gia đình địa phương, ném tiền lên bàn và bảo: “Đây là 200.000 tệ. Chúng tôi muốn nuôi đứa con này. Đừng có đến làm phiền chúng tôi đấy” [104].
Các cán bộ làm kế hoạch hóa gia đình đang tìm cách lấy lại ý nghĩa phạt của khoản tiền người vi phạm phải nộp, bằng các cách như tăng tiền phạt đối với người giàu, công khai tên người nổi tiếng vi phạm, cấm họ xuất hiện trên truyền hình, không cho các chủ doanh nghiệp có hơn một con nhận các hợp đồng của chính phủ. Trạch Chấn Vũ, giáo sư xã hội học Đại học Nhân dân giải thích: “Đối với người giàu thì số tiền phạt ấy chỉ bằng cái móng tay. Chính phủ phải có biện pháp mạnh hơn với họ, đánh đúng chỗ làm họ bị tổn thương – danh tiếng, uy tín, vị trí trong xã hội”[105].
Cơ quan chức năng coi số tiền phải nộp là tiền phạt và họ muốn ý nghĩa của nó là phản ánh hành vi đáng xấu hổ. Họ không muốn nó biến thành tiền phí. Lý do không phải vì họ sợ người giàu có quá nhiều con; rất ít người giàu vi phạm chính sách này. Điều họ lo ngại là chuẩn mực xã hội ẩn sau chính sách. Nếu tiền phạt thực chất chỉ là tiền phí thì chính phủ hóa ra đang làm một công việc kỳ cục là bán quyền sinh thêm con cho những người có khả năng và sẵn lòng chi trả.
Giấy phép sinh con có thể chuyển nhượng
Kỳ quặc không kém là một số nhà kinh tế học phương Tây lại kêu gọi giải quyết vấn đề kiểm soát dân số bằng một giải pháp thị trường khá tương tự như hệ thống phí mà giới lãnh đạo Trung Quốc đang tìm cách loại bỏ. Họ đề xuất với các nước cần hạn chế tăng dân số là nên phát hành giấy phép sinh con có thể chuyển nhượng. Năm 1964, nhà kinh tế học Kenneth Boulding đưa ra hệ thống giấy phép sinh con có thể mua bán được trên thị trường như một giải pháp cho vấn đề tăng dân số. Mỗi phụ nữ sẽ được nhận một giấy phép (hoặc hai, tùy chính sách của nhà nước) theo đó cô được sinh một em bé. Cô có quyền sử dụng nó hoặc bán nó với giá hiện hành trên thị trường. Boulding hình dung có một thị trường trong đó những người muốn có con sẽ mua giấy phép từ “những người nghèo, các nữ tu sĩ, những phụ nữ không lập gia đình v.v.” (ông nói thẳng ra một cách thô lỗ như vậy) [106].
Hệ thống giấy phép không mang tính ép buộc như chính sách giới hạn số con, ví dụ mỗi gia đình chỉ có một con. Nó cũng hiệu quả hơn xét về mặt kinh tế vì nó phân bổ hàng hóa (trong trường hợp này hàng hóa chính là trẻ em) cho những người sẵn lòng trả tiền nhất. Gần đây, có hai nhà kinh tế học người Bỉ đã khơi lại đề xuất của Boulding. Hai ông chỉ ra rằng vì người giàu sẽ mua giấy phép sinh đẻ của người nghèo nên cơ chế giấy phép còn có một ưu điểm nữa là làm giảm sự bất công vì nó tạo thêm thu nhập cho người nghèo [107].
Một số người phản đối mọi hình thức hạn chế sinh đẻ, còn những người khác tin rằng có thể dùng luật pháp hạn chế quyền sinh sản để tránh dân số tăng quá nhiều. Nếu tạm bỏ qua sự bất đồng và hình dung một xã hội có áp dụng chính sách kiểm soát dân số thì bạn thấy dễ nhất trí với cơ chế nào hơn: Chính sách hạn chế số con, theo đó mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một con, ai vi phạm sẽ bị phạt; hay hệ thống dựa vào thị trường, tức là nhà nước trao cho mỗi cặp vợ chồng một giấy phép sinh đẻ có thể chuyển nhượng, ai sở hữu nó thì được phép sinh một con?
Xét từ quan điểm kinh tế, rõ ràng chính sách thứ hai tốt hơn. Nếu mọi người có quyền tự do lựa chọn dùng giấy phép sinh con hoặc bán nó cho người khác thì sẽ có nhiều người được hưởng lợi hơn và không ảnh hưởng đến lợi ích của ai cả. Những người mua hoặc bán giấy phép sinh con sẽ có lợi (vì việc mua bán khiến hai bên cùng có lợi). Còn những người không tham gia thị trường cũng không thiệt hại gì so với khi nhà nước áp dụng chính sách hạn chế số con – họ vẫn được sinh một con như thế.
Nhưng hệ thống giấy phép giúp mọi người có thể mua bán quyền có con cũng không ổn. Một phần là tính chất thiếu công bằng của họ trong xã hội còn bất công. Chúng ta do dự, không muốn biến con cái thành một loại hàng hóa xa xỉ, người giàu mới đủ tiền mua nhưng người nghèo thì không. Nếu có con là yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển của con người thì thật bất công khi biến nó thành một loại hàng hóa chỉ thuộc về ai có khả năng chi trả.
Ngoài lập luận phản đối vì bất công, chúng ta còn thấy băn khoăn về vấn đề hối lộ. Về cơ bản, giao dịch thị trường này khiến người ta lo ngại về mặt đạo đức: cặp vợ chồng nào muốn có thêm con phải thuyết phục, lôi kéo các cặp vợ chồng có khả năng sinh con khác bán quyền sinh con cho họ. Về mặt đạo đức, nó không khác nhiều so với việc mua đứa con duy nhất đã ra đời của một cặp vợ chồng khác.
Các nhà kinh tế học có thể cho rằng thị trường con cái hoặc thị trường quyền sinh con có ưu điểm là hiệu quả, nó phân bổ con cái cho những người đánh giá việc có con cao nhất, được đo bằng năng lực chi trả. Nhưng quyền sinh con nếu được buôn bán sẽ sinh ra thái độ vụ lợi đối với trẻ em, làm xói mòn vai trò làm cha mẹ. Cha mẹ dành tình yêu cho con cái cơ bản là vì con cái là thứ không thể đem ra mua bán được. Không ai có thể có ý nghĩ đem bán con. Vì vậy, hành vi mua một đứa con hay quyền sinh con của một cặp vợ chồng chưa có con sẽ phủ bóng đen lên vai trò làm cha mẹ. Liệu trải nghiệm yêu thương con cái của bạn có bị xói mòn đi ít nhiều không nếu bạn có nó từ việc hối lộ cho người khác để họ không sinh con. Liệu ít nhất bạn có mong muốn giấu giếm sự thật ấy với con bạn? Nếu câu trả lời là có thì có lý do để kết luận rằng cho dù hệ thống giấy phép sinh con có ưu điểm gì đi nữa, nó vẫn xói mòn vai trò làm cha mẹ. Chính sách giới hạn số con dù khó ưa nhưng lại không mắc phải nhược điểm đó. Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng
Sự khác biệt giữa tiền phạt và tiền phí cũng là vấn đề cần quan tâm trong cuộc tranh cãi về cách thức giảm thải khí nhà kính và carbon. Liệu chính phủ nên đưa ra hạn mức phát thải và phạt các công ty thải vượt quá hạn mức? Hay chính phủ nên xây dựng hệ thống giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng?
Thực tế là theo giải pháp thứ hai, tạo ra khí thải không giống vứt rác bừa bãi mà chỉ đơn giản là chi phí kinh doanh. Lập luận như vậy có đúng không? Hay cần có hình ảnh vi phạm đạo đức gắn với những công ty phát thải quá mức ra bầu khí quyển? Để trả lời hai câu hỏi này, chúng ta không chỉ cần tính toán lợi ích và chi phí mà còn phải xác định cần khuyến khích mọi người có thái độ như thế nào đối với môi trường.
Tại hội nghị Kyoto về sự nóng lên của Trái Đất (1997), Mỹ khẳng định rằng mọi tiêu chuẩn phát thải bắt buộc trên toàn cầu đều phải kèm theo cơ chế trao đổi, cho phép các nước mua bán quyền phát thải với nhau. Ví dụ, Mỹ có thể đáp ứng được nghĩa vụ của mình trong Nghị định thư Kyoto bằng cách giảm phát thải khí nhà kính hoặc trả tiền cho nước khác để họ giảm phát thải. Thay vì đánh thuế những chiếc xe Hummer ngốn xăng như nước lã trong nước, Mỹ có thể trả tiền để phục hồi rừng nhiệt đới ở Amazon, hoặc hiện đại hóa một nhà máy cũ sử dụng nhiên liệu than ở một nước đang phát triển.
Tôi đã từng viết một bài xã luận trên tờ New York Times phản đối cơ chế mua bán quyền phát thải. Tôi cho rằng cho phép các nước mua quyền phát thải sẽ giống như cho phép mọi người trả tiền để vứt rác bừa bãi. Chúng ta nên tìm cách nhấn mạnh – chứ không phải làm giảm bớt – hình ảnh vi phạm đạo đức khi phá hoại môi trường. Tôi cũng lo ngại rằng nếu các nước giàu có thể mua quyền từ bỏ trách nhiệm giảm thải, chúng ta sẽ làm xói mòn ý thức cần thiết phải cùng nhau hy sinh để tương lai cả thế giới cùng hợp tác giải quyết vấn đề môi trường [108].
Tòa báo ngập trong những lá thư gay gắt, chủ yếu từ giới kinh tế học, trong đó có cả những đồng nghiệp của tôi ở Đại học Harvard. Họ cho rằng tôi không hiểu được ưu điểm của thị trường, tính hiệu quả của hoạt động trao đổi mua bán, và những nguyên tắc cơ bản về tính hợp lý về mặt kinh tế [109]. Giữa cơn bão phê bình, tôi nhận được một bức thư điện tử bày tỏ sự đồng cảm từ giáo sư giảng môn kinh tế học cho tôi ở trường đại học. Ông viết rằng ông hiểu ý tôi. Nhưng ông có một đề nghị nhỏ là tôi đừng nói cho mọi người biết ai đã dạy tôi môn kinh tế học.
Nên tôi xem xét lại một chút quan điểm của mình về mua bán quyền phát thải, nhưng không phải vì lý do học thuật mà các nhà kinh tế nhắc đến. Không như việc vứt rác qua cửa xe ô tô trên đường cao tốc, bản thân phát thải khí carbon dioxide không phải là hành vi đáng bị phản đối. Tất cả chúng ta đều phát thải carbon dioxide khi chúng ta thở ra. Đưa CO2 vào bầu khí quyển về bản chất không có gì sai. Cái sai là có những người phát thải nhiều quá mức – một phần của lối sống tiêu tốn năng lượng. Lối sống ấy, và cả thái độ ủng hộ nó là những thứ chúng ta nên phản đối, thậm chí coi là tội lỗi[110].
Một giải pháp giảm ô nhiễm là áp dụng quy định do chính phủ đề ra: yêu cầu các nhà sản xuất ô tô phải đáp ứng tiêu chuẩn phát thải chặt chẽ hơn; cấm các công ty hóa chất, các nhà máy giấy xả thải độc hại ra môi trường nước; yêu cầu các nhà máy lắp đặt thiết bị lọc khí vào ống khói. Và công ty nào không tuân theo tiêu chuẩn đề ra sẽ bị phạt. Đây là cách mà chính phủ Mỹ đã làm trong thời kỳ thế hệ luật môi trường đầu tiên – vào đầu thập niên 1970 [111].
Các quy định của chính phủ, với hậu thuẫn là chính sách phạt tiền, là một giải pháp buộc các công ty phải chi trả cho việc gây ô nhiễm. Chúng cũng mang theo thông điệp đạo đức: “Thật đáng xấu hổ khi xả thủy ngân và amiang vào các hồ nước, các dòng sông, cũng như khi làm nhơ bẩn bầu khí quyển với thứ khí thải gây khó thở. Chất thải không chỉ đe dọa sức khỏe của chúng ta mà còn nguy hại với cả Trái Đất, không thể giải quyết được”.
Một số người phản đối các quy định của chính phủ vì họ không thích bất cứ thứ gì làm tăng chi phí sản xuất của ngành công nghiệp. Nhưng những người ủng hộ bảo vệ môi trường lại muốn tìm biện pháp khác hiệu quả hơn. Khi uy tín của thị trường lên cao vào thập niên 1980, đồng thời tư duy kinh tế ăn sâu hơn vào xã hội, một số nhà bảo vệ môi trường bắt đầu ủng hộ cứu Trái Đất bằng các giải pháp dựa vào thị trường. Họ giải thích rằng không nên áp đặt tiêu chuẩn phát thải lên mọi nhà máy nữa mà hãy áp giá lên hành vi gây ô nhiễm và để thị trường tự giải quyết phần còn lại [112].
Cách đơn giản nhất để áp giá lên hành vi gây ô nhiễm là đánh thuế ô nhiễm. Thuế ô nhiễm có thể được coi là tiền phí chứ không phải tiền phạt, nhưng nếu nó đủ cao thì sẽ buộc được người gây ô nhiễm phải chi trả cho thiệt hại họ gây ra. Chính vì lý do này nên rất khó áp dụng nó xét về mặt chính trị. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách đã áp dụng một giải pháp chống ô nhiễm thiên về hướng thị trường hơn: mua bán quyền phát thải.
Năm 1990, Tổng thống George H. W. Bush đã ký thông qua đạo luật về kế hoạch giảm mưa axit – hiện tượng do các nhà máy nhiệt điện than phát thải khí sulfur dioxide gây ra. Thay vì đặt ra hạn mức phát thải cho từng nhà máy, luật này quy định mỗi nhà máy được cấp một giấy phép xả thải một lượng nhất định ra môi trường và họ được quyền mua bán giấy phép với nhau. Một công ty có thể tự giảm thải hoặc mua thêm giấy phép phát thải từ công ty khác có lượng thải ít hơn hạn mức họ được phép thải [113].
Lượng thải sulfur đã giảm xuống, và cơ chế mua bán quyền phát thải được nhiều người cho là đã thành công [114]. Sau đó, vào cuối thập niên 1990, tâm điểm sự chú ý chuyển sang sự nóng lên của Trái Đất. Nghị định thư Kyoto về biến đổi khí hậu cho các quốc gia một lựa chọn: Các nước có thể giảm phát thải khí nhà kính trong nước, hoặc trả tiền cho nước khác để họ giảm phát thải tại nước họ. Lập luận cơ sở của giải pháp được đưa ra là nó giúp giảm chi phí tuân thủ hạn mức phát thải. Nếu chi phí phải bỏ ra để thay hết đèn dầu ở một ngôi làng tại Ấn Độ rẻ hơn chi phí giảm phát thải ở Mỹ thì tại sao không thay hết đèn dầu đi?
Mặc dù vậy, nước Mỹ vẫn không gia nhập thỏa thuận Kyoto, và các cuộc đàm phán về khí hậu toàn cầu về sau đều thất bại. Nhưng điều tôi quan tâm không nằm ở bản thân các thỏa thuận mà ở chỗ họ giải thích chi phí đạo đức của thị trường phát thải toàn cầu như thế nào.
Với thị trường giấy phép sinh con ở phần trước, rắc rối đạo đức là ở chỗ nó xúi giục một số cặp vợ chồng hối lộ các cặp vợ chồng khác để lấy đi cơ hội sinh con của họ. Hành vi hối lộ sẽ làm xói mòn chuẩn mực về tình yêu của người làm cha mẹ khi nó khuyến khích các bậc cha mẹ coi con cái là hàng hóa có thể trao đổi, mua bán được. Còn với thị trường giấy phép phát thải toàn cầu, rắc rối đạo đức lại khác. Ở đây, vấn đề không phải ở hành vi mang tính hối lộ mà là ở hành vi thuê người khác thực hiện nghĩa vụ cho mình. Hiện tượng này xuất hiện trên cấp độ toàn cầu nhiều hơn cấp độ trong nước.
Khi nói đến hợp tác toàn cầu, việc cho phép các nước giàu không phải giảm thiểu sử dụng năng lượng thông qua mua quyền phát thải từ các nước khác (hoặc chi tiền cho những chương trình cho phép các nước khác phát thải ít hơn) sẽ tác động tiêu cực đến hai chuẩn mực. Thứ nhất, nó tạo tư tưởng coi thiên nhiên là công cụ, và thứ hai, nó làm xói mòn tinh thần cùng hy sinh – một yếu tố cần thiết nếu muốn tạo ra đạo đức môi trường chung trên toàn cầu. Nếu các nước giàu có thể dùng tiền để thoát được nghĩa vụ giảm phát thải carbon dioxide thì hình ảnh vị khách du lịch giàu có ở Grand Canyon sẽ trở nên bình thường, phổ biến. Chỉ có vào thời buổi này, vị khách du lịch giàu có ấy mới có thể vứt vỏ lon bia mà không phải nộp phạt, miễn là anh ta thuê ai đó nhặt rác ở Himalaya hộ anh ta.
Hai ví dụ trên khác nhau, tất nhiên. Rác là thứ không dễ bù đắp bằng cái khác như khí nhà kính. Một vỏ lon bia bị vứt ở Grand Canyon không thể được bù đắp bằng một thắng cảnh nguyên sơ cách nó nửa vòng Trái Đất. Ngược lại, sự nóng lên của Trái Đất là dạng tổn hại do tích lũy lâu dài. Nếu nhìn từ trên trời xuống đất thì sẽ thấy nơi nào phát thải ra carbon lên bầu trời không quan trọng. Nhưng xét từ quan điểm đạo đức và chính trị thì có. Hậu quả của việc để cho các nước giàu bỏ tiền ra để không phải thay đổi thói quen xấu của chính họ là khuyến khích thái độ xấu, cho rằng thiên nhiên là nơi vứt rác của những người có tiền. Các nhà kinh tế học thường giả định rằng giải quyết sự nóng lên của Trái Đất đơn thuần chỉ là bài toán thiết kế ra được cơ chế khuyến khích phù hợp và kêu gọi các nước tham gia. Nhưng họ đã bỏ qua một điểm cốt lõi: chuẩn mực thực sự đóng vai trò quan trọng. Cùng hành động chống biến đổi khí hậu toàn cầu đòi hỏi chúng ta phải xác lập được đạo đức môi trường mới – thái độ mới đối với thế giới tự nhiên mà chúng ta đang cùng chia sẻ. Thị trường quyền phát thải toàn cầu dù hiệu quả đến đâu thì vẫn khiến chúng ta khó mà gieo được thói quen kiềm chế và cùng hy sinh, những thứ mà tinh thần có trách nhiệm với môi trường đòi hỏi.
Đền bù carbon
Tự nguyện đền bù carbon đang ngày càng phổ biến và dẫn đến câu hỏi tương tự. Giờ đây, các công ty dầu mỏ và các hãng hàng không đang đề nghị khách hàng trả tiền để trung hòa các tác động mà họ gây ra đối với sự nóng lên của Trái Đất. Trang web của công ty dầu khí Anh British Petroleum còn cho phép khách hàng tính toán được lượng CO2 sinh ra từ thói quen lái xe của mỗi người và đền bù bằng cách đóng góp tiền cho các dự án năng lượng xanh ở các nước đang phát triển. Theo trang web này, mỗi tài xế Anh bình thường có thể đền bù khoảng 20 bảng cho lượng thải họ tạo ra trong một năm. Hãng hàng không Anh British Airways cũng có phần tính toán tương tự. Với số tiền 16,73 dollar, bạn có thể trung hòa các tác động của khí nhà kính bạn góp phần thải ra khi bay từ New York đến London rồi quay về. British Airways sẽ đền bù cho thiệt hại mà chuyến bay của bạn gây ra lên bầu trời bằng cách gửi 16,73 dollar của bạn đến một trang trại phong điện ở Nội Mông [115].
Đền bù carbon phản ánh một động cơ tốt: đưa ra cái giá của những thiệt hại đối với Trái Đất do tiêu thụ năng lượng gây ra, và từng người một đều phải trả mức giá đó để phục hồi thiệt hại. Gây quỹ tài chính để hỗ trợ các dự án tái trồng rừng và năng lượng sạch ở các nước đang phát triển tất nhiên là việc đáng làm. Nhưng đền bù carbon cũng tạo ra một nguy cơ: những người trả tiền sẽ tự cho rằng mình đã thoát khỏi mọi trách nhiệm liên quan đến biến đổi khí hậu. Rủi ro là ở chỗ ít nhất là với một số người, đền bù carbon là cơ chế không gây đau đớn, giúp họ thoát được việc phải thay đổi cơ bản thói quen, thái độ, cách sống – việc cần thiết phải làm nếu muốn giải quyết bài toán khí hậu [116].
Ý kiến phê phán đền bù carbon đã so sánh hành vi đền bù với việc xá tội: người có tội trả tiền cho nhà thờ để bù đắp lại tội lỗi của anh ta. Trang web www.cheatneutral.com đã hài hước bắt chước cơ chế đền bù carbon bằng cách đề ra mô hình mua bán, đền bù cho tội ngoại tình. Nếu có một người London cảm thấy có lỗi vì đã phản bội bạn đời, anh ta có thể trả tiền cho một người khác ở Manchester để anh này sống chung thủy, qua đó “đền bù” cho tội lỗi của mình. Ý tưởng mô phỏng này không hoàn hảo lắm. Chúng ta không phản đối hành vi phản bội bạn đời chỉ vì – hay chủ yếu vì – nó làm gia tăng tổng sự bất hạnh trên thế giới. Mà nó là hành vi sai trái với một cá nhân cụ thể, không thể sửa đổi bằng một hành vi tốt đẹp khác ở nơi khác. Ngược lại, phát thải carbon chỉ sai khi chúng ta xét tổng lượng carbon phát thải ra [117].
Tất nhiên, ý kiến phê phán cũng có lý. Cá nhân hóa, biến trách nhiệm đối với khí nhà kính thành hàng hóa có thể tạo ra hiệu ứng ngược giống như khi phạt tiền đối với các phụ huynh đến đón con muộn, khiến hành vi xấu trở nên phổ biến hơn chứ không hề ít đi. Lý do như sau: Trong thời kỳ Trái Đất nóng lên hiện tại, lái một chiếc xe Hummer không còn được coi là biểu tượng của vị thế xã hội nữa mà là dấu hiệu của sự ham mê vật chất một cách hoang phí, một dạng tham lam. Ngược lại, lái một chiếc xe hybrid lại thể hiện mình là người có phẩm chất đặc biệt. Nhưng cơ chế đền bù carbon có thể làm xói mòn cách đánh giá, nhìn nhận này khi nó dường như trao cho mọi người giấy phép đạo đức để gây ô nhiễm. Nếu các tài xế xe Hummer có thể làm dịu bớt cảm giác tội lỗi của mình bằng cách viết một tấm séc gửi cho một tổ chức trồng cây nào đó ở Brazil thì họ sẽ không có mong muốn đổi chiếc Hummer ngốn xăng như nước lấy chiếc hybrid nữa. Hummer sẽ được coi là biểu tượng của sự đáng tôn trọng chứ không phải sự vô trách nhiệm. Và sức ép phải có hành động chung rộng lớn hơn trước thực trạng biến đổi khí hậu sẽ giảm đi.
Kịch bản tôi vừa mô tả chỉ mang tính suy đoán, dĩ nhiên. Không thể dự đoán chắc chắn ảnh hưởng của tiền phạt, tiền phí và các công cụ kinh tế khác lên chuẩn mực xã hội, và nó khác nhau trong từng tình huống. Ý tôi đơn giản chỉ là thị trường phản ánh và khuyến khích một số chuẩn mực nhất định, một số cách đánh giá hàng hóa nhất định. Vì vậy, khi quyết định liệu một sự vật, hiện tượng có phải hàng hóa hay không, chúng ta cần xem xét nhiều yếu tố hơn là tính hiệu quả hay tính công bằng trong phân phối. Chúng ta còn phải đặt câu hỏi: liệu các chuẩn mực thị trường có lấn át các chuẩn mực phi thị trường không, và nếu có thì thiệt hại chúng gây ra có đáng để quan tâm không.
Tôi không nói rằng việc chú trọng thái độ đạo đức đối với môi trường, với vai trò làm cha mẹ hay với giáo dục luôn luôn dẫn đến loại bỏ các lựa chọn khác. Đôi khi hối lộ cũng có tác dụng. Và đôi khi nó cũng là việc đúng nên làm. Nếu trả tiền để học sinh học kém đọc sách thực sự cải thiện rõ rệt kỹ năng đọc của các em thì chúng ta có thể thử, và hy vọng chúng ta sẽ dạy được các em thái độ thích học hỏi sau. Nhưng điều quan trọng là phải nhớ rằng chúng ta đang hối lộ, một hành vi thỏa hiệp về mặt đạo đức, có thể làm cho những chuẩn mực đạo đức thấp (đọc để có tiền) thay thế những chuẩn mực đạo đức cao hơn (đọc vì yêu thích).
Khi thị trường và tư duy theo định hướng thị trường vươn tới những khía cạnh của cuộc sống vốn bị chi phối bởi những chuẩn mực phi thị trường như y tế, giáo dục, sinh đẻ, chính sách tị nạn, bảo vệ môi trường thì tình thế khó xử xuất hiện ngày càng nhiều. Chúng ta nên làm gì khi tăng trưởng và hiệu quả kinh tế lại có nghĩa là đặt giá cả cho những hàng hóa mà chúng ta coi là vô giá? Đôi khi chúng ta thấy xã hội bị chia rẽ khi trả lời câu hỏi liệu có nên mua bán trên những thị trường còn đang bị nghi vấn về mặt đạo đức nếu muốn đạt được kết quả mong muốn.
TRẢ TIỀN ĐỂ SĂN TÊ GIÁC
Giả sử mục tiêu của chúng ta là bảo vệ các loài động vật bị đe dọa tuyệt chủng, ví dụ tê giác đen. Từ năm 1970 đến 1992, số cá thể tê giác đen ở châu Phi đã giảm từ 65.000 con xuống còn chưa đến 20.000 con. Mặc dù săn bắn các loài động vật bị đe dọa là trái phép, nhưng phần lớn các quốc gia châu Phi đều không thể bảo vệ tê giác trước những kẻ săn trộm để lấy sừng và bán ở châu Á và Trung Đông lấy một số tiền khổng lồ [118].
Vào thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, một vài nhóm bảo tồn đời sống hoang dã và các quan chức trong lĩnh vực đa dạng sinh học Nam Phi bắt đầu xem xét sử dụng công cụ khuyến khích thị trường để bảo vệ các loài vật đang bị đe dọa. Nếu người chủ trang trại tư nhân được phép bán cho thợ săn quyền bắn và giết một lượng tê giác đen nhất định thì chủ trại sẽ có động lực để gây giống, chăm sóc các loài vật và ngăn chặn giới săn trộm.
Năm 2004, chính phủ Nam Phi đã được Công ước quốc tế về Buôn bán các loài động thực vật nguy cấp đồng ý cho phép họ cấp giấy phép săn bắn năm con tê giác đen. Tê giác đen rõ ràng là loài đang bị đe dọa và rất khó bị giết hại; và cơ hội được săn một con được giới thợ săn giải trí định giá rất cao. Tấm giấy phép săn con tê giác hợp pháp đầu tiên trong hàng chục năm qua có giá khá đáng kể: 150.000 dollar, thuộc về một người Mỹ làm việc trong lĩnh vực tài chính. Trong số các khách hàng tiếp theo có một tỷ phú dầu mỏ người Nga, người đã trả tiền để được săn ba con.
Giải pháp thị trường có vẻ hiệu quả. Ở Kenya, nơi vẫn cấm săn bắn tê giác, số cá thể tê giác đen đã giảm từ 20.000 con xuống còn khoảng 600 con khi con người khai hoang đất đai, chuyển đổi thành đất nông nghiệp và chăn nuôi. Tuy nhiên, ở Nam Phi, nơi chủ đất có động cơ kinh tế để dành phần lớn đất trang trại của họ cho sinh vật hoang dã, số lượng cá thể tê giác đen bắt đầu tăng trở lại.
Với những người thấy săn bắn giải trí là bình thường thì việc bán quyền giết một con tê giác đen là giải pháp dựa vào thị trường hợp lý nhằm cứu một loài động vật nguy cấp. Nếu giới thợ săn sẵn lòng trả 150.000 dollar để được săn một con tê giác thì các chủ trang trại sẽ có động cơ để phát triển, bảo vệ đàn tê giác nhằm tăng cung cho thị trường. Đây chính là du lịch sinh thái với chút ngoắt ngoéo bên trong: “Mời bạn đến mua vé để được săn bắn loài tê giác đen đang bị đe dọa. Bạn sẽ có trải nghiệm khó quên, đồng thời góp phần bảo tồn loài động vật này”.
Từ quan điểm tư duy kinh tế, giải pháp dựa vào thị trường có vẻ rõ ràng đã thắng thế. Nó đem lại lợi ích cho nhiều người mà không làm ảnh hưởng đến ai. Chủ trang trại kiếm được tiền, thợ săn có cơ hội săn bắn một sinh vật nhìn đáng sợ, và một loài vật nguy cấp thoát khỏi bờ vực tuyệt chủng. Còn có gì phải than phiền nữa?
Câu trả lời phụ thuộc vào ý nghĩa đạo đức của trò săn bắn giải trí. Nếu bạn tin rằng hành vi giết hại động vật hoang dã để giải trí là đáng phản đối về mặt đạo đức thì thị trường săn bắn tê giác chính là một thỏa thuận xấu xa, môt dạng tống tiền đạo đức. Bạn có thể hài lòng vì nó có ảnh hưởng tích cực lên quá trình bảo tồn tê giác, nhưng cũng lấy làm tiếc vì kết quả đạt được là nhờ thỏa mãn cái mà bạn coi là thú vui tệ hại của giới thợ săn giàu có. Nó giống như cứu một cánh rừng gỗ đỏ lâu đời bằng cách cho phép dân đốn gỗ bán cho các nhà tài trợ giàu có quyền khắc tên viết tắt của họ lên cây.
Vậy thì chúng ta nên làm gì? Bạn có thể bác bỏ giải pháp thị trường với lý do là hành vi săn bắn giải trí là tồi tệ xét về mặt đạo đức, và nhược điểm này quan trọng hơn lợi ích thu được cho lĩnh vực bảo tồn. Hoặc bạn có thể quyết định chấp nhận bị tống tiền đạo đức và vẫn bán quyền săn bắn một vài con tê giác, với hy vọng sẽ cứu loài vật này khỏi bị tuyệt chủng. Câu trả lời nào đúng phụ thuộc một phần vào việc liệu thị trường có đem lại lợi ích mà nó hứa hẹn hay không. Nhưng phần khác, câu trả lời còn phụ thuộc vào việc liệu các thợ săn có sai không khi coi động vật hoang dã là đối tượng giải trí, và nếu có thì họ sai đến mức độ nào.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy lập luận thị trường là chưa hoàn chỉnh nếu thiếu lập luận đạo đức. Chúng ta chưa thể quyết định có nên mua bán quyền săn bắn tê giác nếu chưa trả lời được câu hỏi đạo đức liên quan đến cách đánh giá giá trị tê giác. Tất nhiên, đây là câu hỏi gây tranh cãi, mọi người luôn bất đồng về câu trả lời. Nhưng với thị trường thì cũng không thể tránh được câu hỏi gây tranh cãi: đâu là cách đánh giá giá trị hàng hóa đúng đắn?
Bản năng giúp các thợ săn thú dữ tóm ngay lấy luận điểm này. Họ hiểu rằng môn thể thao họ chơi (và trả tiền) có phù hợp với đạo đức không phụ thuộc vào một quan điểm cụ thể về cách nhìn nhận thế giới hoang dã. Một số thợ săn tôn kính con mồi của họ, họ cho rằng giết một sinh vật vĩ đại, mạnh mẽ chính là một cách thể hiện sự kính trọng. Một thương nhân người Nga từng trả tiền để được săn tê giác đen vào năm 2007 đã nói: “Tôi bắn tê giác đen vì đây là một trong những cách ca tụng đẹp nhất mà tôi có thể dành cho nó” [119].
Người phản đối sẽ nói rằng giết một sinh vật là cách kỳ quặc để thể hiện sự tôn kính. Cách đánh giá giá trị động vật hoang dã của giới thợ săn giải trí có phù hợp không là câu hỏi đạo đức chủ đạo trong cuộc tranh luận này. Việc có nên tạo ra thị trường săn bắn các động vật đang bị đe dọa hay không phụ thuộc vào kết quả đạt được là số lượng cá thể có tăng lên không cũng như thị trường ấy có thể hiện, có khuyến khích đánh giá giá trị động vật một cách đúng đắn không.
Thị trường tê giác đen thật phức tạp về mặt đạo đức, vì nó hướng tới việc bảo vệ một loài động vật nguy cấp thông qua khuyến khích một thái độ gây tranh cãi đối với động vật hoang dã. Sau đây là một câu chuyện khác cũng về săn bắn, nó dẫn đến bài toán còn khó giải hơn liên quan đến ý nghĩa của lập luận thị trường.
TRẢ TIỀN ĐỂ ĐƯỢC BẮN MỘT CON HẢI CẨU
Trong nhiều thế kỷ, vùng Bắc Cực thuộc Canada có rất nhiều hải cẩu Đại Tây Dương, như miền Tây nước Mỹ nhiều bò rừng vậy. Vì thịt, da, mỡ và ngà của hải cẩu rất được ưa chuộng nên loài động vật biển đông đúc, không có khả năng tự vệ này trở thành con mồi dễ dàng của cánh thợ săn, và đến cuối thế kỷ 19 thì số lượng cá thể của chúng chỉ còn một phần mười. Năm 1928, Canada ban hành lệnh cấm săn bắn hải cẩu, nhưng có ngoại lệ dành cho người Eskimo, một tộc người bản địa sống bằng nghề săn bắn – đời sống của họ xoay quanh việc săn bắn hải cẩu đã 4.500 năm [120].
Vào thập niên 1990, các tù trưởng Eskimo đến gặp chính phủ Canada với một đề xuất. Tại sao không cho phép người Eskimo bán cho các thợ săn thú lớn quyền bắn một vài con hải cẩu trong số cá thể họ được phép săn? Số lượng hải cẩu bị giết hại vẫn giữ nguyên. Người Eskimo sẽ thu phí săn bắn, làm nghề hướng dẫn cho giới thợ săn, hướng dẫn các thợ săn cách giết hải cẩu và giữ lại da và thịt con thú như họ thường làm bấy lâu nay. Cơ chế như vậy sẽ làm tăng lợi ích kinh tế cho một cộng đồng nghèo mà không hề ảnh hưởng đến số lượng hải cẩu bị săn bắn. Chính phủ Canada đồng ý.
Ngày nay, các thợ săn giải trí giàu có từ khắp nơi trên thế giới đều tìm cách đến Bắc Cực để có cơ hội bắn được một con hải cẩu. Họ phải trả từ 6.000 đến 6.500 dollar cho đặc quyền ấy. Họ không đến để có cuộc săn đuổi li kì hay theo dõi đầy thách thức một con mồi khó. Hải cẩu là những sinh vật không đe dọa được ai, di chuyển chậm chạp và không phù hợp với các thợ săn dùng súng. Trong một bài viết rất hấp dẫn đăng trên tạp chí New York Times, C. J. Chivers đã so sánh việc săn hải cẩu dưới sự hướng dẫn của người Eskimo với “một chuyến đi thuyền dài để bắn vào một cái ghế đệm rất to” [121].
Nhóm hướng dẫn viên chèo thuyền đến cách con hải cẩu khoảng 14 mét và bảo tay thợ săn nổ súng. Chivers mô tả cảnh tượng diễn ra khi tay thợ săn Texas bắn con hải cẩu như sau: “Viên đạn” của tay thợ săn “trúng vào cổ con vật, làm nó giật mạnh người và đổ sang một bên.
Máu chảy ra từ lỗ đạn. Con vật nằm yên không cựa quậy. [Tay thợ săn] đặt khẩu súng xuống và lấy máy quay phim ra”. Nhóm người Eskimo bắt đầu thực hiện công việc nặng nhọc là đặt con hải cẩu đã chết lên một tảng băng và xẻ thịt. Thật khó mà hiểu được cuộc săn này hấp dẫn ở chỗ nào. Nó chẳng có khó khăn thách thức gì, giống một chuyến du lịch giết chóc hơn là một chuyến đi săn giải trí. Thậm chí người thợ săn cũng không được treo xác con mồi lên bức tường trưng bày thành tích ở nhà. Ở Mỹ, hải cẩu là loài động vật được bảo vệ nên việc đem bất cứ bộ phận cơ thể nào của hải cẩu vào Mỹ cũng là bất hợp pháp.
Vậy tại sao phải bắn hải cẩu? Rõ ràng chỉ là để đạt được mục đích giết một con vật trong danh sách loài vật mà các câu lạc bộ săn bắn đưa ra – ví dụ “bộ ngũ” châu Phi (báo, sư tử, voi, tê giác và trâu rừng châu Phi) hoặc “bảng thành tích” Bắc Cực (tuần lộc, bò xạ, gấu trắng và hải cẩu).
Đây không thể là mục tiêu đáng ngưỡng mộ, rất nhiều người còn thấy nó đáng sợ. Nhưng hãy nhớ rằng thị trường không phán xét mong muốn của con người. Trong thực tế, xét trên quan điểm của lập luận thị trường, có rất nhiều điều để nói về việc cho phép người Eskimo bán quyền săn bắn một số hải cẩu nhất định. Người Eskimo có thêm nguồn thu nhập, “giới thợ săn thành tích” có cơ hội hoàn thành bản danh sách các loài vật mà họ muốn tiêu diệt, và số hải cẩu được phép săn bắn vẫn không thay đổi. Từ khía cạnh này, bán quyền giết một con hải cẩu cũng giống như bán quyền sinh con hay quyền gây ô nhiễm mà thôi. Một khi bạn đã đưa ra con số hạn mức thì logic thị trường sẽ khẳng định rằng mua bán giấy phép sẽ làm tăng phúc lợi chung. Nó làm gia tăng lợi ích cho một số người mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích của những người khác.
Và thị trường giết hại hải cẩu có cái gì đó khiến ta khó mà ủng hộ được về mặt đạo đức. Để dễ tranh luận, hãy giả định rằng cho phép người Eskimo tiếp tục săn bắn hải cẩu như hàng trăm năm qua là rất hợp lý, thì cho phép họ bán quyền giết hải cẩu vẫn là hành động đáng phản đối xét về mặt đạo đức. Có hai lý do. Thứ nhất là thị trường kì dị này đáp ứng nhu cầu của một sở thích sai lầm, không đáng để đưa vào bất cứ mọi phép tính nào về phúc lợi xã hội. Cho dù bạn có nghĩ gì về thú vui săn thú lớn thì vẫn có một điều không ổn. Giết hại một con vật vô hại ở cự ly gần, không có thách thức, không phải săn đuổi gì, chỉ đơn giản là hoàn thành danh sách thành tích là một sở thích không đáng được đáp ứng, kể cả khi nó đem lại thêm thu nhập cho người Eskimo. Thứ hai, việc người Eskimo bán cho người ngoài quyền giết một vài con hải cẩu trong hạn mức họ được phép là hành vi tham nhũng ý nghĩa, mục đích của ngoại lệ dành riêng cho cộng đồng họ từ đầu. Ngoại lệ người Eskimo có được là cách chính phủ tôn vinh lối sống của họ, thể hiện sự tôn trọng đối với sinh kế săn bắn hải cẩu lâu đời. Biến đặc quyền này thành kiếm tiền nhờ giết chóc lại là một chuyện khác hẳn.
ĐỘNG CƠ VÀ RẮC RỐI ĐẠO ĐỨC
Suốt nửa sau thế kỷ 20, Kinh tế học (Economics) của Paul Samuelson là giáo trình kinh tế hàng đầu ở Mỹ. Gần đây tôi có đọc bản in thời đầu của cuốn sách (1958) để xem Samuelson nhìn nhận kinh tế học như thế nào. Ông định nghĩa kinh tế học bằng những chủ đề cổ điển: “thế giới của giá cả, tiền lương, lãi suất, chứng khoán và trái phiếu, ngân hàng và tín dụng, thuế và chi tiêu”. Nhiệm vụ của kinh tế học rất rõ ràng và chặt chẽ: giải thích cách tránh khủng hoảng, thất nghiệp và lạm phát, tìm hiểu nguyên tắc “cho chúng ta biết làm thế nào để giữ năng suất sản xuất ở mức cao” và “làm sao để nâng cao mức sống của người dân” [122].
Ngày nay, kinh tế học đã đi xa hơn nhiều so với các chủ đề truyền thống. Hãy xem định nghĩa về một nền kinh tế của Greg Mankiw trong bản in gần đây của cuốn giáo trình kinh tế học rất có ảnh hưởng của ông: “Không có gì bí hiểm về khái niệm ‘nền kinh tế’. Nền kinh tế chỉ đơn giản là một nhóm người tương tác với một nhóm người khác khi họ kiếm sống cho mình”.
Theo cách giải thích này, kinh tế học không chỉ nghiên cứu các vấn đề sản xuất, phân phối, tiêu dùng hàng hóa vật chất mà còn tìm hiểu quá trình tương tác giữa con người với nhau nói chung và các nguyên tắc ra quyết định của mỗi cá nhân. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất – như Mankiw nhận thấy – là “con người có phản ứng khi được tạo động cơ” [123].
Tranh luận về động cơ đã trở nên phổ bến trong kinh tế học hiện đại đến mức nó đã là một phần tạo nên bản sắc của môn khoa học này. Trong những trang đầu cuốn Kinh tế học hài hước (Freakonomics), Steven D. Levitt, nhà kinh tế học ở Đại học Chicago, và Stephen J. Dubner đã phát biểu rằng “động cơ là hòn đá tảng của đời sống hiện đại”, và “gốc rễ của kinh tế học là nghiên cứu các động cơ” [124].
Chúng ta dễ không để ý đến cái mới trong định nghĩa này. Từ “động cơ” chỉ mới xuất hiện gần đây trong tư duy kinh tế. Nó không có trong các tác phẩm của Adam Smith hay các nhà kinh tế học cổ điển khác [125].
Thực tế, mãi đến thế kỷ 20, khái niệm động cơ mới có trong kinh tế học, và đến thập niên 1980, 1990, nó mới trở nên phổ biến. Từ điển tiếng Anh Oxford cho biết lần đầu tiên nó được sử dụng trong kinh tế học là năm 1943, trên tạp chí Reader’s Digest: “Ông Charles E. Wilson... kêu gọi các ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh sử dụng ‘động cơ lương’, tức là trả lương cao hơn cho công nhân nếu họ sản xuất được nhiều hơn”. Từ “động cơ” sau đó được sử dụng nhiều đột biến trong nửa sau thế kỷ 20, khi thị trường và tư duy thị trường bắt rễ sâu sắc trong đời sống. Nếu tìm kiếm bằng Google trên các cuốn sách, ta sẽ thấy tần suất xuất hiện của từ này tăng lên hơn 400% trong giai đoạn từ những năm 1940 đến những năm 1990 [126].
Nhận thức rằng kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu động cơ không chỉ mở rộng tầm ảnh hưởng của thị trường trong đời sống hằng ngày mà còn biến các nhà kinh tế học thành các nhà hoạt động chính trị xã hội. Giá “bóng” mà Gary Becker nhắc đến từ những năm 1970 nhằm giải thích rằng hành vi của con người là giá ẩn chứ không có thật. Nó là giá ẩn do các nhà kinh tế học tưởng tượng, thừa nhận hoặc phỏng đoán. Ngược lại, công cụ tạo động cơ là những giải pháp can thiệp thực mà nhà kinh tế học (hoặc nhà lập chính sách) thiết kế, xây dựng và áp đặt lên xã hội. Đó có thể là những cách để khiến mọi người giảm cân, làm việc tích cực hơn hoặc phát thải ít hơn. “Giới kinh tế học yêu thích động cơ”, Levitt và Dubner viết. “Họ thích mơ tưởng và thực thi, nghiên cứu và sửa chữa nó. Một nhà kinh tế học điển hình thường tin rằng thế giới chưa gặp phải vấn đề nào mà anh ta chưa giải quyết được, chỉ cần anh ta được tự do thiết kế ra cơ chế khuyến khích phù hợp. Giải pháp của anh ta có thể không phải lúc nào cũng tốt đẹp – nó có thể là ép buộc hoặc phạt rất nặng những người vi phạm quyền tự do công dân, nhưng chắc chắn vấn đề sẽ được giải quyết. Động cơ chính là viên đạn, là đòn bẩy, là chìa khóa – một công cụ nhỏ bé nhưng có sức mạnh lớn lao, có thể thay đổi được tình thế” [127].
Phát biểu này khác xa thị trường với hình ảnh là một bàn tay vô hình của Adam Smith. Khi động cơ trở thành “hòn đá tảng của đời sống hiện đại”, thị trường có vẻ là một bàn tay mạnh mẽ và hấp dẫn. (Hãy nhớ lại công cụ khuyến khích bằng tiền để triệt sản hoặc đạt điểm cao). Levitt và Dubner nhận thấy “Phần lớn công cụ tạo động cơ không tự sinh ra. Ai đó – một nhà kinh tế học, một chính trị gia hoặc một bậc phụ huynh – phải sáng tạo ra chúng” [128].
Ngày càng có nhiều công cụ tạo động cơ được sử dụng trong đời sống đương đại và cần có người sáng tạo ra chúng một cách thận trọng. Điều này được phản ánh trong một động từ mới nghe khá vô duyên, nhưng gần đây đã trở nên phổ biến: “động cơ hóa”. Theo Từ điển tiếng Anh Oxford, động cơ hóa nghĩa là “tạo động lực hoặc khuyến khích (một người, nhất là nhân viên hoặc khách hàng) thông qua việc cung cấp động cơ (thường là tài chính)”. Từ này có từ năm 1968, nhưng mới phổ biến trong mười năm trở lại đây, đặc biệt là trong giới kinh tế học, lãnh đạo doanh nghiệp, giới chức nhà nước, giới phân tích chính sách, chính trị gia và các cây bút xã luận. Trong sách vở, chúng ta ít thấy nó trước năm 1990. Nhưng từ đó đến nay, tần suất sử dụng nó đã tăng lên hơn 1.400% [129]. Công cụ tìm kiếm trên các tờ báo lớn LexisNexis cũng cho kết quả tương tự:
Tần suất xuất hiện của từ “động cơ hóa” trên các báo lớn: [130]
Thập niên 1980 - 48
Thập niên 1990 - 449
Thập niên 2000 - 6.159
Năm 2010-2011 - 5.885
Gần đây, từ “động cơ hóa” còn xuất hiện trong cả ngôn ngữ của các tổng thống. George H. W. Bush là tổng thống Mỹ đầu tiên dùng nó trước trước công chúng và ông nhắc đến nó hai lần. Bill Clinton chỉ sử dụng nó một lần trong tám năm, và George W. Bush cũng vậy. Trong ba năm đầu tiên tại nhiệm, Barack Obama đã nhắc đến “động cơ hóa” cả thảy 29 lần. Ông hy vọng các bác sỹ, bệnh viện, nhà cung cấp dịch vụ y tế sẽ được “động cơ hóa” để lưu tâm hơn đển dịch vụ phòng bệnh; và ông muốn “các ngân hàng bị thúc, chọc, động cơ hóa” để cho vay đối với những người chủ sở hữu nhà, chủ doanh nghiệp nhỏ có trách nhiệm [131].
Thủ tướng Anh David Cameron cũng thích từ này. Khi nói chuyện với các chủ ngân hàng và doanh nghiệp, ông kêu gọi cần làm nhiều hơn nữa để “động cơ hóa” “nền văn hóa đầu tư chấp nhận rủi ro”. Khi nói chuyện với người dân Anh sau vụ bạo loạn ở London năm 2011, ông phàn nàn rằng “một vài khía cạnh tệ hại nhất của con người” đã được chính phủ “dung túng, nuông chiều, thậm chí đôi khi động cơ hóa” [132]
Mặc dù xu hướng mới là “động cơ hóa”, nhưng đa phần các nhà kinh tế học vẫn nhấn mạnh phải phân biệt giữa kinh tế học và đạo đức, giữa lập luận thị trường và lập luận đạo đức. Kinh tế học “đơn giản là không liên quan đến đạo đức”, Levitt và Dubner giải thích. “Đạo đức là những gì chúng ta muốn thế giới tuân theo, còn kinh tế học cho biết thực tế thế giới diễn ra như thế nào” [133].
Người ta luôn nghi ngờ nhận định rằng kinh tế học là môn khoa học không quan tâm đến giá trị, không phụ thuộc vào các học thuyết đạo đức và chính trị. Nhưng tham vọng quá lớn của kinh tế học ngày nay càng khiến các nhà kinh tế khó mà bảo vệ được luận điểm này. Thị trường càng vươn tới nhiều khía cạnh phi kinh tế của đời sống thì nó càng vướng mắc vào nhiều vấn đề đạo đức.
Hãy xem khái niệm hiệu quả kinh tế. Tại sao chúng ta phải quan tâm đến nó? Có lẽ là để tối đa hóa phúc lợi xã hội – là tổng phúc lợi của mỗi cá nhân. Như Mankiw giải thích, phân bổ nguồn lực hiệu quả sẽ làm tối đa hóa lợi ích kinh tế của mọi thành viên trong xã hội [134]. Tại sao phải tối đa hóa phúc lợi xã hội? Phần lớn các nhà kinh tế học hoặc là lờ đi câu hỏi này, hoặc là viện đến học thuyết đạo đức vị lợi nào đó.
Nhưng chủ nghĩa vị lợi cũng gặp phải những phản đối tương tự. Ý kiến phản đối liên quan nhiều nhất đến lập luận thị trường là tại sao chúng ta nên tối đa hóa sự hài lòng của mọi người bất kể sự hài lòng đó có xứng đáng xét về mặt đạo đức hay không. Nếu người này thích nhạc opera, người khác thích đấu chó hoặc đấu vật trong bùn thì chúng ta có thực sự nên có thái độ không phán xét, coi trọng những sở thích này ngang như nhau khi tính toán độ hài lòng không? [135]
Khi lập luận thị trường được áp dụng cho hàng hóa vật chất như ô tô, máy nướng bánh, ti vi màn hình phẳng thì ý kiến phản đối nói trên không đáng kể. Hoàn toàn hợp lý khi giả định rằng giá trị của hàng hóa đơn giản được phản ánh qua sở thích của người tiêu dùng. Nhưng khi vận dụng lập luận thị trường cho các lĩnh vực tình dục, sinh đẻ, nuôi con, giáo dục, y tế, chế tài với tội phạm, chính sách nhập cư và bảo vệ môi trường thì khó có thể giả định rằng sở thích của mọi người là đáng coi trọng như nhau. Trong những vấn đề liên quan nhiều đến đạo đức, có một số cách đánh giá giá trị hàng hóa đáng được coi là tốt hơn, phù hợp hơn. Và nếu như vậy thì khó có thể giải thích tại sao chúng ta phải đáp ứng sở thích của mọi người như nhau, không phán xét xem chúng có xứng đáng về mặt đạo đức không. (Liệu mong muốn dạy con biết đọc của bạn có nên được đặt ngang bằng với mong muốn bắn chết một con hải cẩu từ cự ly gần của người hàng xóm không?)
Vì vậy, khi lập luận thị trường đi xa hơn nhóm hàng hóa vật chất, nó phải “liên quan đến đạo đức”, trừ khi nó vẫn có mong muốn mù quáng là tối đa hóa phúc lợi xã hội mà không quan tâm đến giá trị đạo đức của những sở thích mà nó đáp ứng.
Còn có một lý do nữa, đó khi vươn quá xa, thị trường đã làm phức tạp hóa việc phân biệt giữa lập luận thị trường và lập luận đạo đức, giữa giải thích thế giới và làm thế giới tốt đẹp hơn. Một trong những nguyên lý cơ bản trong kinh tế học là hiệu ứng giá – khi giá tăng, mọi người sẽ mua ít hàng hóa hơn, còn khi giá giảm, mọi người sẽ mua nhiều hơn. Nhìn chung nguyên lý này là đúng với những thị trường như ti vi màn hình phẳng chẳng hạn.
Nhưng như chúng ta đã thấy, nó không còn đúng lắm nữa với những vấn đề xã hội bị chi phối bởi các chuẩn mực phi thị trường, ví dụ đón con đúng giờ. Khi giá của việc đến muộn tăng lên (từ chỗ bằng không), số người đến đón con muộn tăng. Kết quả này trái với hiệu ứng giá trên lý thuyết. Nhưng bạn vẫn hiểu được nếu bạn nhận ra rằng thị trường hóa một hàng hóa có thể làm thay đổi ý nghĩa của nó. Đặt ra một mức giá cho việc đón con muộn đã làm thay đổi chuẩn mực. Đến đúng giờ, lúc trước được coi là nghĩa vụ đạo đức – để khỏi làm phiền các giáo viên – giờ đây lại được xem là mối quan hệ trên thị trường, trong đó, các vị phụ huynh đến muộn đơn giản là đã trả tiền cho các giáo viên để ở lại trông con họ lâu hơn. Động cơ đã đem lại kết quả ngược với mong đợi.
Câu chuyện trông trẻ cho thấy khi thị trường vươn tới những khía cạnh của đời sống vốn bị chi phối bởi các chuẩn mực phi thị trường, hiệu ứng giá có thể không còn đúng nữa. Tăng chi phí (kinh tế) của việc đến muộn lại làm nhiều người đến muộn hơn. Vì vậy, để giải thích thế giới, các nhà kinh tế học phải trả lời được câu hỏi liệu việc đặt giá cho một thứ có dẫn tới các chuẩn mực phi thị trường bị lấn át không. Muốn biết điều này, họ phải tìm hiểu về những quan niệm đạo đức dẫn đến một hành động cụ thể và xác định liệu thị trường hóa (bằng cách cung cấp công cụ tạo động lực hoặc hạn chế) có thay thế những quan niệm đạo đức không.
Đến đây thì các nhà kinh tế học phải thừa nhận rằng muốn giải thích thế giới hoạt động thế nào, họ phải nghiên cứu tâm lý học đạo đức hoặc nhân loại học để biết xã hội đang tuân theo chuẩn mực nào và thị trường sẽ ảnh hưởng đến chúng ra sao. Nhưng tại sao điều này lại có nghĩa là phải quan tâm đến triết học đạo đức? Lý do như sau:
Ở lĩnh vực nào thị trường làm xói mòn các chuẩn mực phi thị trường thì nhà kinh tế học (hoặc ai đó khác) phải quyết định liệu thiệt hại phát sinh có đáng quan tâm không. Liệu chúng ta có nên quan tâm đến việc các phụ huynh đón con muộn không còn cảm thấy tội lỗi nữa và nhìn nhận mối quan hệ giữa họ và giáo viên dưới góc độ lợi dụng? Liệu chúng ta có nên quan tâm đến việc trả tiền cho học sinh đọc sách sẽ khiến các em coi đọc là công việc được trả công và sẽ làm giảm hứng thú đọc sách của các em? Câu trả lời sẽ khác nhau tùy vào từng tình huống. Câu hỏi này buộc chúng ta phải suy nghĩ xa hơn là chỉ dự đoán tác dụng của công cụ tạo động cơ. Nó đòi hỏi chúng ta phải tiến hành đánh giá: Những thái độ và chuẩn mực bị tiền lấn át có ý nghĩa như thế nào về mặt đạo đức? Liệu những chuẩn mực phi thị trường, những kỳ vọng mất đi có làm thay đổi đặc tính của hàng hóa khiến chúng ta phải (hay ít nhất cũng nên) hối hận? Nếu có thì chúng ta có nên từ bỏ việc sử dụng các công cụ khuyến khích bằng tiền với hàng hóa đó, cho dù chúng cũng có tác dụng tốt?
Câu trả lời phụ thuộc vào mục đích, đặc tính của hàng hóa mà chúng ta đang nghiên cứu cũng như những chuẩn mực chi phối nó. Ngay cả các trung tâm trông trẻ cũng khác nhau về khía cạnh này. Với các “hợp tác xã” trông trẻ, nơi các phụ huynh tình nguyện trông trẻ vài giờ nhất định mỗi tuần thì sự thay đổi kỳ vọng chung về nghĩa vụ của các bên sẽ gây tổn thất ít hơn so với ở các cơ sở trông trẻ truyền thống, nơi phụ huynh trả tiền cho giáo viên để chăm sóc bọn trẻ, còn họ đi làm. Nhưng rõ ràng với tình huống nào thì câu hỏi này cũng là vấn đề đạo đức. Muốn xác định liệu có nên dựa vào các công cụ khuyến khích bằng tiền, chúng ta phải hỏi liệu chúng có tham nhũng những thái độ, giá trị cần bảo vệ không. Trong câu trả lời, lập luận thị trường phải trở thành lập luận đạo đức. Cuối cùng, các nhà kinh tế học đã “vướng vào vấn đề đạo đức” rồi.