Những quy luật của bản chất con người - Chương 15

15

Cách để mọi người đi theo bạn

Quy luật của sự hay thay đổi

Dù phong cách lãnh đạo thay đổi theo thời đại, có một điều vẫn luôn tồn tại: Mọi người luôn mơ hồ về những người nắm giữ quyền lực. Họ muốn được dẫn dắt nhưng cũng muốn cảm thấy tự do; họ muốn được bảo vệ và tận hưởng sự thịnh vượng mà không phải hy sinh; họ vừa tôn thờ nhà vua vừa muốn giết chết ông ta. Khi bạn là lãnh đạo của một nhóm, mọi người sẽ sẵn sàng quay sang chỉ trích bạn vào thời điểm bạn tỏ ra yếu đuối hoặc vừa trải qua một thất bại. Đừng chịu thua những định kiến của thời đại, tưởng tượng rằng điều bạn cần làm để có được lòng trung thành của mọi người là tỏ ra bình đẳng với họ hoặc là bạn của họ; mọi người sẽ nghi ngờ sức mạnh của bạn, những động cơ của bạn và đáp lại bằng sự khinh miệt ngấm ngầm. Quyền uy là một nghệ thuật vi tế, nó bao gồm việc tạo ra diện mạo của quyền lực, tính hợp pháp và sự công bằng trong khi đó nó cũng cần phải khiến cho mọi người đồng cảm với bạn với tư cách một nhà lãnh đạo, kẻ mà họ sẵn sàng phục vụ. Nếu bạn muốn lãnh đạo, bạn phải thành thạo nghệ thuật này ngay từ rất sớm. Một khi bạn đã có được sự tin tưởng của mọi người, họ sẽ sát cánh bên bạn, kẻ dẫn dắt họ, bất kể hoàn cảnh có xấu đến đâu.

Lời nguyền của đặc quyền

Vào sáng thứ Bảy, ngày 14/01/1559, người Anh thuộc mọi lứa tuổi và tầng lớp bắt đầu tụ tập trên những đường phố London. Đó là một ngày trước buổi lễ đăng quang của người cai trị mới của họ, Elizabeth Tudor, 25 tuổi, được biết đến với cái tên nữ hoàng Elizabeth I. Theo truyền thống, vị vua mới luôn dẫn đầu một cuộc diễu hành theo nghi thức qua thành phố. Đối với hầu hết mọi người, đây sẽ là lần đầu tiên họ nhìn thấy Elizabeth.

Một số người trong đám đông lo lắng - nước Anh đang trong tình trạng tài chính tồi tệ, chính phủ nợ nần rất nhiều; những kẻ ăn xin xuất hiện trên mọi đường phố của các thành phố lớn, và những tên trộm lang thang khắp vùng nông thôn. Điều tệ hại nhất là đất nước này vừa trải qua một cuộc nội chiến khốc liệt giữa các tín đồ Công giáo và Tin Lành. Cha của Elizabeth, Henry VIII (1491-1547), đã thành lập Giáo hội Anh giáo và biến nước Anh thành một quốc gia hùng mạnh. Người con gái từ cuộc hôn nhân đầu tiên của Henry đã trở thành nữ hoàng Mary I vào năm 1553 và bà đã cố gắng đưa nước Anh trở lại với giáo hội Công giáo, khởi xướng một dạng tòa án dị giáo của nước Anh và được mệnh danh là Mary Tàn bạo (Bloody Mary). Sau khi Mary qua đời vào cuối năm 1558, Elizabeth là người kế vị của bà, nhưng đây có phải là thời điểm để một người phụ nữ còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm cai trị nước Anh?

Một số khác thì hy vọng một cách cảnh giác: Giống như đại đa số người Anh, Elizabeth là một tín đồ Tin Lành thuần thành và sẽ đưa đất nước quay lại với Giáo hội Anh. Nhưng dù lạc quan hay bi quan, không ai thuộc một trong hai phía này thật sự biết nhiều về nàng. Sau khi Henry VIII xử tử Anne Boyleyn, mẹ của Elizabeth, và vợ thứ hai của ông, vì những cáo buộc ngụy tạo khi Elizabeth chưa đầy ba tuổi, Elizabeth đã bị chuyển từ bà mẹ kế này sang bà mẹ kế khác và rất hiếm khi xuất hiện trong triều. Dân chúng Anh biết rằng tuổi thơ của nàng rất khó khăn, nữ hoàng Mary ghét cay ghét đắng Elizabeth, thậm chí còn giam nàng trong Tháp London vào năm 1554. (Bà muốn xử tử Elizabeth với tội danh âm mưu chống lại nữ hoàng nhưng không thể thu thập đủ bằng chứng). Những trải nghiệm này đã ảnh hưởng đến Elizabeth trẻ như thế nào? Nàng có bốc đồng như cha nàng hay kiêu ngạo như Mary, người chị gái cùng cha khác mẹ, hay chăng? Với nhiều nguy cơ như vậy, họ không khỏi tò mò muốn biết thêm về nàng.

Đối với dân chúng Anh, buổi lễ diễu hành là một ngày lễ hội vui chơi, và Elizabeth không làm cho họ thất vọng về điều đó. Cảnh tượng hôm ấy thật huy hoàng - những tấm thảm thêu đủ màu sặc sỡ trên vách tường phía bên ngoài của các ngôi nhà, những băng rôn và cờ xí treo kín mọi cửa sổ, các nhạc công và nghệ sĩ hài rong ruổi trên đường phố để giải trí cho đám đông.

Khi một đợt tuyết nhẹ rơi, nữ hoàng tương lai xuất hiện trên đường phố; ở bất cứ nơi nào nàng đi qua, đám đông đều trở nên im lặng. Ngồi trên một chiếc kiệu để mở, nàng mặc chiếc áo choàng màu vàng hoàng gia đẹp nhất và đeo những vật trang sức lộng lẫy nhất. Nàng có khuôn mặt quyến rũ và đôi mắt đen linh động nhất. Nhưng khi đoàn diễu hành tiến tới và những hoạt cảnh sôi nổi diễn ra, dân chúng Anh đã nhìn thấy một điều mà họ chưa từng chứng kiến hoặc thậm chí có thể tưởng tượng ra trước đó: Dường như nữ hoàng thích thú với việc hòa lẫn vào đám đông, đôi mắt nàng rưng lệ trong lúc nàng chăm chú lắng nghe những lời thỉnh nguyện và lời chúc phúc cho triều đại của nàng từ những người dân nghèo khổ nhất ở London.

Khi nàng cất tiếng, cung cách nói năng của nàng rất tự nhiên và thậm chí có vẻ khá bình dân. Nàng đón nhận sự phấn khích ngày càng tăng trong đám đông, và tình cảm của nàng dành cho mọi người trên đường phố quá rõ ràng. Một phụ nữ nghèo lớn tuổi tặng nàng một nhánh hương thảo khô héo để lấy phước, và Elizabeth cứ cầm nó trên tay suốt cả ngày.

Một nhân chứng đã viết về Elizabeth: “Nếu đã từng có người nào sở hữu năng khiếu bẩm sinh hay phong thái để chiếm được trái tim của mọi người, thì đó chính là vị nữ hoàng này… Mọi khả năng của nàng đều biểu lộ một cách linh động, và từng cử động đều trông như một hành động chuẩn xác cực kỳ: ánh mắt nàng đặt lên người này, tai nàng lắng nghe một người khác, phán đoán của nàng hướng tới kẻ thứ ba, và nàng phát biểu với kẻ thứ tư; dường như tinh thần của nàng bàng bạc khắp nơi, thế nhưng lại có vẻ như hoàn toàn lan tỏa ra từ chính bản thân nàng chứ không từ đâu khác. Nàng tỏ lòng thương xót người này, nhận xét về người nọ, cảm ơn người này, nói đùa một cách vui vẻ dí dỏm với người kia… và phân phát những nụ cười, những cái nhìn và vẻ duyên dáng của mình… khiến sự hân hoan phấn khích của mọi người một lần nữa được nhân đôi, và sau đó, nâng mọi thứ lên mức cao nhất, rót đầy tai mọi người với sự tán dương thái quá Ông hoàng của họ”.

Đêm đó, thành phố London râm ran những câu chuyện diễn ra trong ngày. Trong mọi tửu quán và ngôi nhà, mọi người nhận xét về sự hiện diện lạ lùng và lôi cuốn của Elizabeth. Các vị vua và hoàng hậu thường xuất hiện trước công chúng, nhưng quanh họ là sự xa xỉ phù hoa và họ muốn duy trì một khoảng cách. Họ mong đợi mọi người tuân theo và tôn thờ họ. Nhưng Elizabeth có vẻ háo hức với việc chiếm được cảm tình của mọi người, và điều này đã mê hoặc tất cả những ai nhìn thấy nàng ngày hôm đó. Khi lời đồn về việc này lan rộng trên cả nước, tình cảm dành cho vị nữ hoàng bắt đầu vỡ òa trong dân chúng, và họ ấp ủ một niềm hy vọng đối với triều đại mới.

TRƯỚC KHI ĐĂNG QUANG, ELIZABETH ĐÃ BÁO CHO SIR WILLIAM CECIL biết rằng nàng sẽ chọn ông ta làm bộ trưởng đáng tin cậy nhất. Lớn hơn nữ hoàng 13 tuổi, Cecil từng là một ủy viên hội đồng quan trọng dưới triều của Edward VI, anh trai cùng cha khác mẹ của Elizabeth, người đã cầm quyền sau cái chết của Henry VIII vào năm 1547, lúc cậu mới chín tuổi cho đến khi cậu qua đời ở tuổi 15. Cecil biết Elizabeth từ khi nàng 14 tuổi; họ có chung những sở thích về trí tuệ và đều là những tín đồ Tin Lành Kháng cách sốt sắng; họ đã có nhiều cuộc trò chuyện sôi nổi và mối quan hệ thân thiện. Về phần mình, Cecil hiểu rõ nữ hoàng. Nàng cực kỳ thông minh, đọc rất nhiều và nói trôi chảy nhiều ngôn ngữ. Họ thường đánh cờ vua với nhau, và ông rất ấn tượng với sự kiên nhẫn của nàng và cách nàng thường cài bẫy một cách tài tình để bắt những quân cờ của ông.

Ông biết rằng Elizabeth đã học hành trong hoàn cảnh khó khăn. Nàng đã mất không chỉ mẹ ruột khi còn quá nhỏ mà cả người mẹ kế yêu quý nhất, Catherine Howard, khi nàng lên tám tuổi. Catherine là người vợ thứ năm của Henry và là em họ của Anne Boleyn. Henry đã xử chém bà với tội danh ngoại tình. Cecil cũng biết ràng những tháng Elizabeth bị giam cầm trong Tháp London đã gây ra cho nàng một chấn thương tâm lý, vì nàng từng chuẩn bị tinh thần sẽ bị xử tử vào bất cứ lúc nào. Nàng đã vươn lên từ tất cả các trải nghiệm này với tư cách là một phụ nữ trẻ hòa nhã đáng chú ý, nhưng Cecil biết rằng đằng sau vẻ ngoài nàng là một người ngoan cố, nóng tính và thậm chí ranh ma.

Cecil cũng chắc chắn về một điều nữa: Việc trị vì không dành cho phụ nữ. Nữ hoàng Mary I là người phụ nữ thật sự cầm quyền đầu tiên của nước Anh, và bà đã chứng tỏ mình là một thảm họa. Tất cả các bộ trưởng và quan chức chính phủ đều là đàn ông, và một người phụ nữ không thể chịu đựng được sự ganh đua đối đầu khi làm việc với họ, và với các nhà ngoại giao nam giới nước ngoài. Phụ nữ quá giàu cảm xúc và thất thường. Có thể Elizabeth đầy năng lực, nhưng nàng không đủ kiên cường cho công việc này. Và vì vậy, Cecil đã lập ra một kế hoạch: Ông và phe nhóm của ông sẽ dần dần tiếp quản việc trị vì đất nước, nữ hoàng góp ý nhưng chủ yếu là làm theo hướng dẫn của các bộ trưởng. Và họ sẽ tìm chồng cho nàng càng nhanh càng tốt, tốt nhất là một tín đồ Tin Lành, và chồng nàng sẽ tiếp quản và cai trị với tư cách nhà vua.

Tuy nhiên, hầu như ngay từ khi triều đại của nàng bắt đầu, Cecil nhận ra rằng kế hoạch của mình sẽ không dễ thực hiện chút nào. Nữ hoàng rất ngoan cố và có những kế hoạch riêng. Theo một cách nào đó, ông không thể không ấn tượng. Ngay ngày đầu tiên bắt tay vào việc, nàng đã tổ chức một cuộc họp và nói rõ với các ủy viên hội đồng tương lai rằng nàng biết nhiều hơn họ về tình trạng tài chính của đất nước và quyết tâm giải quyết những khoản nợ của chính phủ. Nàng bổ nhiệm Cecil làm ngoại trưởng, và bắt đầu bàn bạc trao đổi với ông nhiều lần trong ngày, không cho ông có thời gian ngơi nghỉ.

Không giống như cha mình, vốn giao phó mọi việc cho các bộ trưởng để ông có thể dành hết thời gian cho việc săn bắn và theo đuổi phụ nữ trẻ, Elizabeth hoàn toàn năng động. Cecil kinh ngạc khi biết lượng thời gian nàng dành cho công việc, thường là đến quá nửa đêm. Nàng đã nói rất chính xác những gì nàng mong đợi từ ông và các bộ trưởng khác, và đôi khi nàng có thể khá đáng sợ. Nếu hài lòng với những gì ông đã nói hoặc làm, nữ hoàng tươi cười và tỏ ra khá nữ tính đáng yêu. Nhưng nếu có gì đó không ổn hoặc nếu ông khăng khăng phản đối, nàng sẽ không tiếp ông suốt nhiều ngày, và ông sẽ trở về nhà, đắm chìm trong lo lắng. Có phải ông đã đánh mất sự tin tưởng của nàng? Đôi khi, nàng nhìn ông với ánh mắt nghiêm khắc, thậm chí quở trách ông với phong cách nói năng như sấm sét của cha nàng. Không, việc đối phó với nữ hoàng không dễ chút nào, và dần dần ông nhận ra mình đang làm việc chăm chỉ hơn bao giờ hết để gây ấn tượng với nàng.

Để tiến hành một phần trong kế hoạch của ông là những người đàn ông sẽ dần dần nắm lấy quyền lực, ông bảo đảm rằng mọi thư từ từ các chính phủ nước ngoài sẽ được chuyển đến bàn làm việc của mình trước tiên. Ông thường không nói gì với nữ hoàng về một số vấn đề quan trọng. Thế rồi ông phát hiện ra rằng nữ hoàng đã biết về điều này và đã ra lệnh sau lưng ông rằng tất cả các thư từ ngoại giao phải được chuyển cho nàng. Sự việc giống như trong một ván cờ, và nàng đã đi trước nhiều nước cờ. Ông tức giận và lên án nàng về việc ngầm phá hoại công việc của ông, nhưng nàng giữ vững lập trường và đưa ra một lập luận rất hợp lý: Không giống như Cecil, nàng nói và đọc được tất cả các ngôn ngữ chính của châu Âu và hiểu sắc thái của chúng, và tốt hơn nàng nên đích thân xử lý việc ngoại giao và sẽ cập nhật lại với các bộ trưởng về các vấn đề đối ngoại. Việc tranh luận là vô ích, và ông sớm nhận ra rằng khi xử lý các thư từ và tham dự các cuộc họp với các nhà ngoại giao, Elizabeth là một nhà đàm phán bậc thầy.

Sự phản kháng của ông dần giảm đi. Elizabeth sẽ tiếp tục nắm quyền, ít nhất là trong vài năm đầu trị vì. Nhưng sau đó, nàng sẽ kết hôn và sinh ra người thừa kế cần thiết cho nước Anh, và chồng nàng sẽ tiếp quản quyền lực. Việc nàng tiếp tục vai trò này với tư cách một nữ hoàng độc thân không tự nhiên chút nào. Có lời đồn rằng nàng đã tâm sự với nhiều người bạn rằng nàng sẽ không bao giờ kết hôn, rằng nàng đã quá sợ hãi hôn nhân trước tấm gương của cha mình. Nhưng Cecil không thể xem đây là ý định nghiêm túc. Nàng vẫn tiếp tục nói với mọi người rằng điều quan trọng nhất là lợi ích lớn hơn của nước Anh, nhưng việc duy trì nước Anh mà không có người thừa kế có thể dẫn tới nguy cơ một cuộc nội chiến trong tương lai. Chắc chắn nàng có thể nhìn thấy logic trong vấn đề này.

Mục tiêu của ông rất đơn giản: Thuyết phục nữ hoàng đồng ý kết hôn với một hoàng tử nước ngoài nhằm củng cố một liên minh có lợi cho nước Anh đang trong tình trạng suy yếu. Nếu đó là một hoàng tử theo đạo Tin Lành thì quá tốt, nhưng miễn chàng ta không phải là một người Công giáo cuồng tín, Cecil sẽ chấp thuận lựa chọn này. Người Pháp đang dấm dứ trước mặt nàng một cuộc hôn nhân với vị vua 14 tuổi của họ, Charles IX; và gia tộc Habsburg của châu Âu đang đề xuất một cuộc hôn nhân với đại công tước Charles nước Áo. Nỗi sợ lớn nhất của Cecil là nàng sẽ kết hôn với người mà nàng thật sự yêu, Robert Dudley, bá tước xứ Leicester, một người có địa vị thấp kém hơn nàng và sẽ khuấy động mọi loại bất đồng và mưu mô trong triều đình nước Anh.

Khi đại diện của các quốc gia khác nhau đặt vấn đề hôn nhân, có vẻ như Elizabeth ủng hộ một người, sau đó lại trở nên lạnh nhạt. Nếu người Tây Ban Nha đột nhiên gây rắc rối trên Lục địa, nàng sẽ bắt đầu đàm phán hôn nhân với người Pháp khiến vua Philip II của Tây Ban Nha e sợ một liên minh Pháp - Anh và rút lui, hoặc [nàng sẽ đàm phán hôn nhân] với đại công tước Charles của Áo để khơi gợi sự sợ hãi của cả Pháp lẫn Tây Ban Nha. Nàng chơi trò chơi đó hết năm này sang năm khác. Nàng thú nhận với Cecil rằng nàng không muốn trở thành một người vợ, nhưng khi Quốc hội đe dọa sẽ cắt nguồn tài chính của nàng nếu nàng không hứa sẽ kết hôn, Elizabeth sẽ tỏ ra mềm mỏng và thương lượng với một trong những người cầu hôn. Thế rồi, khi các khoản tiền từ Quốc hội đã được bảo đảm, nàng sẽ tìm một lý do nào khác để kết thúc cuộc trao đổi về hôn nhân - vị hoàng tử, nhà vua hay đại công tước nước Áo đó còn quá trẻ, là một tín đồ Công giáo quá nhiệt thành, không phải dạng người phù hợp với nàng, quá nữ tính, v.v... Ngay cả Dudley cũng không thể phá vỡ quyết tâm của nàng và thuyết phục được nàng kết hôn với ông ta.

Sau nhiều năm sự tình vẫn cứ như thế, Cecil cảm thấy rất thất vọng, cuối cùng ông cũng thấu hiểu trò chơi này. Ông không thể làm gì được, đồng thời cũng nhận ra rằng nữ hoàng Elizabeth I gần như chắc chắn là một người cai trị có khả năng hơn bất kỳ ông chồng nước ngoài nào. Bà chi tiêu tiết kiệm đến độ chính phủ không còn mắc nợ nữa. Trong lúc Tây Ban Nha và Pháp tự hủy hoại chính mình bằng những cuộc chiến liên miên không dứt, Elizabeth khôn khéo giữ nước Anh ở bên ngoài các cuộc xung đột, và đất nước đã nhanh chóng trở nên thịnh vượng. Dù là tín đồ Tin Lành, bà đối xử tốt với người Anh theo Công giáo, và những cảm giác cay đắng từ các cuộc chiến tôn giáo trước đó một thập kỳ giờ hầu như đã tan biến. Sau này ông viết, “Chưa bao giờ có một người phụ nữ khôn ngoan bẩm sinh như nữ hoàng Elizabeth”. Và vì vậy cuối cùng ông đã bỏ qua vấn đề hôn nhân, và bản thân đất nước cũng dần trở nên quen thuộc với ý tưởng về Nữ hoàng Trinh bạch, kẻ chỉ kết hôn với các thần dân của mình.

Tuy nhiên, theo thời gian, một vấn đề sẽ tiếp tục xói mòn tình cảm của mọi người dành cho nữ hoàng, và thậm chí khiến cho Cecil bắt đầu nghi ngờ về năng lực của bà: Số phận của Mary, Nữ hoàng của người Scotland, em họ của Elizabeth. Mary là một tín đồ Công giáo trung thành, trong khi phần lớn dân chúng Scotland đã theo đạo Tin Lành. Mary sẽ là người kế vị nữ hoàng Anh, và nhiều người Công giáo đã khẳng định rằng Mary mới thật sự là nữ hoàng chính đáng. Bản thân dân chúng Scotland lại coi thường Mary vì tình cảm tôn giáo của nàng, vì những vụ ngoại tình của nàng, và vì hàm ý rõ ràng của nàng trong việc giết chồng nàng, Lord Darnley. Năm 1567, nàng buộc phải thoái vị để ủng hộ đứa con trai sơ sinh của mình, James VI. Năm sau, nàng trốn thoát khỏi nhà tù ở Scotland và bỏ trốn sang Anh, tự đặt mình vào bàn tay của người chị họ.

Elizabeth có mọi lý do để coi thường Mary và đưa nàng trở lại Scotland. Nàng là đối cực của Elizabeth - ích kỷ, phù phiếm và vô đạo đức. Nàng là một tín đồ Công giáo nhiệt thành, và nàng sẽ thu hút quanh mình những người ở nước Anh và những người ngoại quốc vốn muốn truất phế Elizabeth và đưa một người Công giáo lên ngai vàng. Không thể tin tưởng được nàng. Nhưng trước sự thất vọng của Cecil, các ủy viên hội đồng của nàng và dân chúng nước Anh, Elizabeth đã cho phép Mary ở lại đất nước này dưới hình thức quản thúc tại gia. Về mặt chính trị, điều này dường như rất phi lý. Nó khiến cho dân chúng Scotland phẫn nộ và đe dọa mối quan hệ giữa hai nước.

Khi Mary bắt đầu ngấm ngầm âm mưu chống lại Elizabeth, và từ mọi phía vang lên những lời kêu gọi xử tử nàng vì tội phản quốc, không thể lý giải vì sao Elizabeth khước từ không thực hiện điều có vẻ như là bước đi sáng suốt. Có phải chỉ đơn giản đây là trường hợp một người dòng họ Tudor bảo vệ một người đồng tộc? Phải chăng bà e sợ tiền lệ về việc xử tử một nữ hoàng, và ý nghĩa của điều đó đối với số phận của chính bà? Trong bất kỳ trường hợp nào, việc này khiến cho bà trông có vẻ yếu đuối và ích kỷ, như thể điều quan trọng hơn hết là bảo vệ một nữ hoàng đồng tộc.

Thế rồi, vào năm 1586, Mary tham gia vào âm mưu táo bạo nhất là ám sát Elizabeth, để sau đó nàng sẽ trở thành nữ hoàng Anh. Nàng đã nhận được sự hậu thuẫn bí mật từ giáo hoàng và người Tây Ban Nha, và giờ đây đã có bằng chứng không thể chối cãi về sự liên quan của nàng trong âm mưu này. Điều này khiến công chúng phẫn nộ, họ có thể hình dung rất rõ cuộc nội chiến đẫm máu sẽ xảy ra nếu âm mưu này được tiến hành. Lần này, áp lực đối với Elizabeth quá lớn - cho dù Mary là nữ hoàng, nàng ta cũng phải bị xử tử. Nhưng một lần nữa Elizabeth lại lưỡng lự.

Một phiên tòa đã kết án Mary, nhưng Elizabeth không thể tự mình ký vào lệnh tử hình. Đối với Cecil và những người trong triều đình vốn nhìn thấy bà hằng ngày, nữ hoàng chưa bao giờ tỏ ra quẫn trí như vậy. Cuối cùng, vào tháng 2 năm sau, bà buộc phải chịu thua áp lực và ký lệnh tử hình. Mary bị chặt đầu vào ngày hôm sau. Toàn đất nước tưng bừng lễ hội; Cecil và các bộ trưởng khác thở phào nhẹ nhõm. Sẽ không còn âm mưu nào chống lại Elizabeth nữa, điều này sẽ khiến cho việc thiếu người thừa kế dễ dàng chịu đựng hơn. Bất chấp việc xử lý sai tình huống của bà, dân chúng Anh đã nhanh chóng tha thứ cho bà. Bà đã chứng minh rằng bà có thể đặt lợi ích quốc gia lên trên những cân nhắc cá nhân, và sự miễn cưỡng của bà chỉ khiến cho quyết định cuối cùng trông có vẻ hào hùng hơn.

VUA PHILIP II CỦA TÂY BAN NHA ĐÃ BIẾT VỀ ELIZABETH NHIỀU NĂM, và đã kết hôn với chị gái cùng cha khác mẹ của bà, Nữ hoàng Mary I. Khi Mary cầm tù Elizabeth ở Tháp London, Philip đã cố gắng xoa dịu quan điểm của bà ta và giúp cho Elizabeth được thả ra. Ông nhận thấy cô gái trẻ Elizabeth khá quyến rũ, và ngưỡng mộ trí thông minh của nàng. Nhưng theo thời gian, ông bắt đầu sợ hãi và khinh miệt nữ hoàng. Bà là trở ngại chính đối với mục tiêu tái lập sự thống trị của Công giáo của ông, và ông sẽ phải hạ mình trước mặt bà. Trong suy nghĩ của ông, bà không phải là nữ hoàng Anh hợp pháp. Ông bắt đầu ra lệnh cho các linh mục Dòng Tên lén lút xâm nhập nước Anh để truyền bá đức tin Công giáo và bí mật xúi giục nổi loạn. Ông đã xây dựng lực lượng hải quân và lén lút chuẩn bị cho cái gọi là Sự nghiệp Anh Quốc (Enterprise of England), một cuộc xâm lược lớn sẽ áp đảo hòn đảo này và khôi phục Công giáo tại đó. Việc xử tử Mary, nữ hoàng của người Scotland, là cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đã - đã tới lúc tiến hành cuộc xâm lược.

Philip cảm thấy vô cùng tin tưởng vào thành công của Sự nghiệp. Trong nhiều năm qua, ông đã đo lường đối thủ lớn của mình. Bà xảo quyệt và thông minh, nhưng bà có một nhược điểm rất lớn - bà là một phụ nữ. Vì là phụ nữ, bà không thích hợp với vai trò lãnh đạo một cuộc chiến. Thật sự, có vẻ như bà e sợ xung đột vũ trang, luôn đàm phán và tìm mọi cách để tránh nó. Bà chưa bao giờ chú ý đến quân đội của mình. Hải quân Anh tương đối nhỏ, những con tàu của nó không lớn và mạnh bằng những thuyền buồm lớn của Tây Ban Nha. Quân đội của Anh hoàn toàn khá đáng thương so với quân đội của Tây Ban Nha. Và Philip còn có vàng từ Tân Thế giới để hỗ trợ tài chính cho nỗ lực này.

Ông đã hoạch định rằng cuộc xâm lược sẽ diễn ra vào mùa hè năm 1587, nhưng năm đó, Sir Francis Drake(86) đột kích vào bờ biển Tây Ban Nha và phá hủy nhiều tàu của họ ở cảng Cadiz, đồng thời cũng chiếm lấy những kho vàng lớn. Philip hoãn cuộc xâm lược đến năm sau, phí tổn dần dần tăng lên để duy trì quân đội và đóng thêm nhiều thuyền buồm.

Philip đã cân nhắc mọi chi tiết của cuộc xâm lược. Ông sẽ tung một hạm đội bất khả chiến bại gồm khoảng 130 tàu chiến, với hơn 30.000 lính hải quân. Họ sẽ dễ dàng tiêu diệt hải quân Anh, liên kết với một lực lượng lớn của Tây Ban Nha ở Hà Lan, băng qua kênh Anh Quốc (eo biển Manche) và tràn tới London, nơi họ sẽ bắt giữ nữ hoàng và đưa bà ra tòa để xét xử về tội đã xử tử Mary, nữ hoàng của người Scotland; sau đó ông sẽ đưa con gái của mình lên ngai vàng của nước Anh.

Cuối cùng, hạm đội được tung ra vào tháng 5/1588, và đến tháng 7 đoàn chiến thuyền Tây Ban Nha đã được triển khai quanh bờ biển phía Tây Nam nước Anh. Những chiếc thuyền buồm Tây Ban Nha đã hoàn thiện một hình thức chiến tranh nhất định: Chúng lớn đến độ chúng sẽ tiến tới gần những con tàu của kẻ thù, quăng móc sang và đu sang boong tàu địch với một đội quân hùng mạnh. Nhưng họ chưa bao giờ chiến đấu với những con tàu Anh nhỏ hơn và nhanh hơn, được trang bị những khẩu đại pháo tầm xa, và hoạt động trong những vùng biển khắc nghiệt hơn nhiều so với Địa Trung Hải. Họ đã không mấy thành công.

Ngày 27/7, hạm đội thả neo tại Calais, chỉ cách nơi quân đội Tây Ban Nha đang chờ đợi họ vài dặm. Giữa đêm hôm đó, người Anh đã cử năm “con tàu lửa” không có lính, chở đầy gỗ và hắc ín đang rừng rực cháy, tiến về phía những chiếc thuyền đang thả neo. Với những cơn gió mạnh tối hôm đó, ngọn lửa lan nhanh từ tàu này sang tàu khác. Những chiếc thuyền buồm Tây Ban Nha cố gắng tập hợp lại ngoài khơi, nhưng đội hình của họ lỏng lẻo và phân tán, và những con tàu Anh nhanh nhẹn nã đạn vào chúng như thể chúng là những con vịt trên mặt nước. Khi gió đổi chiều một lần nữa, hải quân Tây Ban Nha buộc phải rút lui về phía bắc, vào những vùng có nhiều bão nhất của Bắc Hải. Khi cố gắng đi vòng qua nước Anh và rút lui về Tây Ban Nha, hầu hết các chiến thuyền đều bị đắm, và hơn 20.000 lính Tây Ban Nha tử trận. Hải quân Anh không mất một con tàu nào và chỉ có khoảng 100 chiến binh thương vong. Đó là một trong những chiến thắng không cân xứng nhất trong lịch sử quân sự.

Đối với Philip, đó là thời khắc nhục nhã nhất đời ông. Ông rút lui về cung điện của mình, tự nhốt mình tại đó suốt nhiều tháng để suy ngẫm về thảm họa này. Thất bại của hạm đội đã khiến cho Tây Ban Nha hoàn toàn phá sản, và trong những năm sau đó, nước Anh ngày càng thịnh vượng trong khi Tây Ban Nha rơi xuống vị thế cường quốc hạng hai. Bằng cách nào đó Elizabeth đã đánh lừa được ông. Đối với những lãnh đạo khác ở châu Âu vốn không ưa gì bà, giờ đây dường như bà bất khả chiến bại và là một nữ hoàng đáng sợ. Giáo hoàng Sixtus V, người đã rút phép thông công của bà và chúc phúc cho hạm đội Tây Ban Nha, cảm thán: “Hãy nhìn xem bà ta cầm quyền giỏi như thế nào! Bà ta chỉ là một người phụ nữ, chỉ là chủ nhân của một nửa hòn đảo, thế nhưng bà ta đã tự biến mình thành nỗi sợ hãi của Tây Ban Nha, Pháp, và tất cả!”.

LÚC NÀY Ở ANH ĐÃ NẢY SINH MỘT SỰ SÙNG BÁI THẬT SỰ XUNG QUANH NỮ HOÀNG TRINH BẠCH. Giờ đây, bà được mệnh danh là “Nữ hoàng thiêng liêng”. Việc thoáng nhìn thấy bà cưỡi ngựa đi ngang qua London hoặc băng qua sông Thames trên chiếc thuyền hoa dường như là một trải nghiệm mang tính tôn giáo.

Tuy nhiên, có một nhóm tỏ ra ít bị ảnh hưởng bởi vầng hào quang rực rỡ này - thế hệ mới của những người trẻ tuổi hiện đang đông nghẹt trong triều. Đối với họ, nữ hoàng đang trở nên già nua. Họ tôn trọng những thành quả của bà, nhưng họ xem bà như một nhân vật người mẹ độc đoán nhiều hơn. Anh Quốc là một cường quốc đang nổi lên. Những chàng trai trẻ này khao khát tạo được tên tuổi trên chiến trường và do đó được công chúng hoan nghênh. Tuy nhiên, Elizabeth liên tục cản trở mong muốn này. Bà từ chối cấp tiền cho một chiến dịch quy mô lớn để kết liễu Philip, hoặc hỗ trợ người Pháp trong cuộc chiến chống Tây Ban Nha. Họ thấy bà có vẻ mệt mỏi và cảm thấy đã đến lúc thế hệ nam tính mạnh mẽ của họ đứng ra dẫn dắt nước Anh. Và chàng trai trẻ đã xuất hiện để chứng minh tinh thần mới này là Robert Devereux, Đệ nhị Bá tước xứ Essex.

Sinh năm 1566, Essex đẹp trai và cường tráng. Anh biết nữ hoàng có một điểm yếu đối với những chàng trai trẻ, và anh nhanh chóng quyến rũ bà, trở thành triều thần yêu thích mới của bà. Anh thật sự thích và ngưỡng mộ bà, nhưng đồng thời cũng phẫn nộ trước quyền lực mà bà sở hữu bên trên số phận của anh. Anh bắt đầu thử thách bà: Anh cầu xin những ân huệ, chủ yếu là tiền. Bà đáp ứng cho anh những thứ này. Dường như bà thích thú với việc làm cho anh trở nên hư hỏng. Và khi mối quan hệ tiến triển, Essex bắt đầu coi bà là người phụ nữ mà anh có thể thao túng. Anh bắt đầu chỉ trích bà khá táo bạo trước các cận thần khác, và nữ hoàng làm ngơ việc đó. Tuy nhiên, bà vạch ra một ranh giới khi anh yêu cầu các vị trí chính trị cao cho mình và bạn bè, và những khi đó anh vô cùng tức giận. Thật là nhục nhã khi phụ thuộc vào những ý thích bất chợt của một người phụ nữ! Nhưng vài hôm sau anh sẽ bình tĩnh lại và quay lại tấn công bằng vẻ quyến rũ của mình.

Không thể đạt được quyền lực chính trị, anh thấy rằng cơ hội duy nhất để trở nên nổi tiếng và vinh quang là dẫn dắt một đội quân Anh đến chiến thắng. Elizabeth cho phép anh dẫn đầu một số cuộc viễn chinh nhỏ hơn trên lục địa. Thành tích của anh có tính chất lộn xộn - anh dũng cảm nhưng không giỏi mấy về chiến lược. Thế rồi, vào năm 1596, anh thuyết phục nữ hoàng cho phép mình dẫn đầu một cuộc đột kích giống như cuộc tấn công của Drake trên bờ biển Tây Ban Nha. Lần này sự táo bạo của anh đã được đền đáp, và chiến dịch đã thành công. Đối với người dân Anh, giờ đã phần nào say sưa với vị thế mới là một cường quốc châu Âu, Essex đại diện cho sự vênh váo mới của họ, và anh trở thành cục cưng của họ. Essex muốn có nhiều hơn nữa trong lĩnh vực này và tiếp tục yêu cầu nữ hoàng ban cho một cơ hội chiến đấu khác. Anh quy trách nhiệm về sự miễn cưỡng của bà cho nhiều kẻ thù mà anh đã tạo ra trong triều, vốn đang ghen tị với anh.

Năm 1598, tin tức được truyền về triều đình rằng một nhóm phiến quân Ireland dưới quyền chỉ huy của Hugh O’Neill, Đệ nhị Bá tước xứ Tyrone, đang di chuyển qua vùng lãnh thổ do Anh kiểm soát ở Ireland và tàn phá. Essex tình nguyện dẫn đầu một lực lượng để nghiền nát Tyrone. Anh kiên trì nài nỉ, và rốt cuộc Elizabeth cũng xiêu lòng. Cảm thấy tự tin về thế mạnh của mình đối với nữ hoàng, anh yêu cầu một đội quân lớn nhất mà người Anh từng tập hợp cho chiến dịch này. Elizabeth đáp ứng mơ ước của anh. Lần đầu tiên, anh cảm thấy thật sự được bà đánh giá cao. Bà có một khả năng kỳ lạ khiến anh luôn muốn làm hài lòng bà. Anh bày tỏ lòng biết ơn và hứa sẽ hoàn thành công việc nhanh chóng. Ireland sẽ là phương tiện để anh vươn lên đỉnh cao.

Tuy nhiên, khi anh tới đó, những rắc rối gia tăng. Đó là mùa đông năm 1599; thời tiết thật tồi tệ và địa hình lầy lội một cách vô vọng. Anh không thể thúc đẩy đội quân khổng lồ của mình tiến lên. Người Ireland rất giỏi ẩn trốn và là bậc thầy trong chiến tranh du kích. Trong khi người Anh vẫn còn loay hoay trong các doanh trại của họ, hàng ngàn binh sĩ đã chết vì bệnh và một số lượng tương đương bắt đầu đào ngũ. Essex chỉ có thể tưởng tượng những kẻ thù của mình tại triều đình đang nói xấu sau lưng mình. Anh cảm thấy chắc chắn nữ hoàng và nhiều bộ trưởng đang âm mưu về sự sụp đổ của anh theo cách nào đó.

Anh phải thử thách bà một lần nữa, anh yêu cầu quân chi viện. Nữ hoàng đồng ý, nhưng bà ra lệnh cho anh ta nhất thiết phải tìm ra và chiến đấu với Tyrone. Đột nhiên bị áp lực quá nhiều, anh đổ lỗi cho nữ hoàng và các cận thần đang ghen tị của bà về việc đang cố thúc ép anh. Anh cảm thấy bị sỉ nhục với tình thế hiện tại của mình, và vào cuối mùa hè, anh quyết định tiến hành một kế hoạch; nó sẽ kết thúc một lần và mãi mãi sự bất hạnh của anh - anh sẽ bí mật đàm phán đình chiến với Tyrone, sau đó quay trở về Anh và kéo quân về London. Anh sẽ buộc nữ hoàng phải loại bỏ đám kẻ thù của mình trong triều và đảm bảo cho vị trí của anh, với tư cách ủy viên đứng đầu hội đồng của bà. Anh sẽ tỏ ra mạnh mẽ nhưng tôn trọng vị trí của bà; khi trực tiếp nhìn thấy anh cùng với đội quân, chắc chắn nữ hoàng sẽ xiêu lòng.

Sau một cuộc hành quân nhanh chóng băng qua nước Anh, một sáng nọ anh đột nhiên xuất hiện trong phòng ngủ của nữ hoàng, quân phục lấm lem bùn đất. Dù rất bất ngờ và không biết liệu anh có đến để bắt giữ bà và khởi động một cuộc đảo chính hay không, nữ hoàng vẫn giữ được bình tĩnh. Bà đưa tay ra cho anh hôn và nói với anh rằng họ sẽ trao đổi về Ireland sau đó trong ngày. Sự bình tĩnh của bà làm anh thất vọng; đó không phải là những gì anh đã mong đợi. Bà sở hữu một loại sức mạnh kỳ lạ đối với anh. Theo cách nào đó, tình thế đã đảo ngược, và anh đồng ý hoãn cuộc nói chuyện của họ cho tới buổi chiều. Trong vòng vài giờ, anh nhận ra mình đã bị quân lính của nữ hoàng bắt giữ và đặt dưới sự quản thúc tại gia.

Trông mong vào tầm ảnh hưởng của anh đối với nữ hoàng và việc bà vẫn thường tha thứ cho anh, anh viết cho bà hết lá thư này tới lá thư khác, xin lỗi về hành động của mình. Bà không trả lời. Điều này chưa từng xảy ra trước đầy và nó làm cho anh sợ hãi. Cuối cùng, vào tháng 8/1600, bà phóng thích anh. Biết ơn vì điều này và âm mưu về việc quay lại triều đình, anh chỉ yêu cầu một ân huệ - khôi phục độc quyền mà anh từng có đối với việc bán rượu vang ngọt ở Anh; anh đang mắc nợ ngập đầu và đây là nguồn thu nhập chính của anh. Anh vô cùng thất vọng khi bà từ chối ban cho anh ân huệ đó. Bà đang chơi một trò chơi nào đó, cố gắng dạy cho anh một bài học hoặc muốn thuần phục anh, nhưng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Bà đã đẩy anh đi quá xa.

Anh lui về ẩn cư tại nhà của mình ở London và tập trung xung quanh mình tất cả các quý tộc bất mãn ở Anh. Anh sẽ cùng họ dẫn quân tới dinh thự của nữ hoàng và tiếp quản đất nước. Anh dự kiến rằng nhiều ngàn người Anh, vốn vẫn còn yêu mến anh, sẽ tập hợp lại dưới chính nghĩa của anh và gia tăng thêm quân số. Cuối cùng, vào đầu tháng 02/1601, anh tiến hành kế hoạch của mình. Trước sự thất vọng cực kỳ của anh, dân chúng London vẫn ở yên trong nhà và phớt lờ anh. Ý thức được sự điên rồ của cuộc mạo hiểm này, binh lính của anh nhanh chóng đào ngũ. Thật sự chỉ còn có một mình, anh rút lui về nhà. Anh biết đây là kết thúc của mình, nhưng ít nhất anh vẫn sẽ thách thức.

Chiều hôm đó, quân lính đến bắt giữ Essex. Elizabeth bố trí một phiên tòa nhanh chóng, và Essex bị kết tội phản quốc. Lần này Elizabeth không ngần ngại ký vào lệnh tử hình. Trong suốt phiên tòa, Essex giữ nguyên thái độ xấc xược nhất. Anh sẽ đón nhận cái chết của mình, phủ nhận tội lỗi và từ chối xin được tha thứ.

Đêm trước khi anh bị chặt đầu, nữ hoàng đã phái giáo sĩ riêng của mình để chuẩn bị cho phút cuối của anh. Khi đối mặt với người đại diện này của Elizabeth, kẻ đã lặp lại những lời cuối cùng của bà chuyển tới cho anh, Essex hoàn toàn sụp đổ. Toàn bộ những khoảnh khắc khi anh ý thức được thẩm quyền của bà nhưng vẫn cố chống lại sức mạnh của nó, kể cả buổi sáng hôm đó trong phòng ngủ của bà, khi bà đứng trước anh, rất vương giả và tự chủ, đột nhiên chế ngự anh. Anh thú nhận những tội lỗi của mình với vị giáo sĩ. Trong tâm trí, anh trộn lẫn hình ảnh của sự phán xét sắp xảy ra trước mặt Chúa Trời với sự uy nghiêm của nữ hoàng, và cảm thấy mức nghiêm trọng của sự phản bội của mình. Anh có thể nhìn thấy gương mặt của bà hiện ra trước mặt anh, và điều đó làm anh sợ hãi.

Anh nói với vị giáo sĩ, “Tôi phải thú nhận với ông rằng tôi là kẻ phản bội vĩ đại nhất, xấu xa nhất và vô ơn nhất từng có ở đất nước này”. Nữ hoàng làm đúng khi xử tử anh, anh nói. Anh yêu cầu một cuộc hành quyết riêng tư để không gây kích động trong công chúng. Trong những lời cuối cùng của mình, anh cầu xin Chúa Trời bảo hộ cho nữ hoàng. Trước khi chết, anh tỏ rõ sự phục tùng và phẩm giá thầm lặng mà không ai từng thấy hay ngờ rằng anh đã từng có trước đây.

Diễn dịch: Khi Elizabeth Tudor trở thành nữ hoàng, bà hiểu vị trí cực kỳ mong manh của mình. Không giống như cha bà hoặc hầu như bất kỳ vị vua nước Anh nào khác, bà không có uy tín với tư cách một người trị vì đất nước, và không có sự tôn trọng hay quyền hạn nào. Đất nước đang trong tình trạng suy yếu. Bà còn quá trẻ, không có kinh nghiệm chính trị hoặc sự gần gũi với quyền lực trước đó để học hỏi. Phải, bằng cách đơn thuần chiếm giữ ngai vàng, bà có thể mong đợi một sự vâng lời nào đó, nhưng lòng trung thành này khá mỏng manh và có thể thay đổi với một sai lầm hoặc khủng hoảng nhỏ nhất. Và trong vài tháng hoặc vài năm, bà sẽ buộc phải kết hôn, và như bà biết, việc kết hôn có thể dẫn đến đủ loại rắc rối nếu bà không nhanh chóng sinh ra một người thừa kế nam giới.

Vấn đề khiến cho điều này thậm chí còn rắc rối hơn là Elizabeth có nhiều tham vọng và rất thông minh; bà cảm thấy mình có thừa khả năng cai trị nước Anh. Bà có một viễn tượng về cách bà có thể giải quyết nhiều vấn đề của nó và biến nó thành một cường quốc châu Âu. Hôn nhân sẽ không chỉ tệ hại đối với bà mà còn đối với toàn đất nước. Rất có khả năng bà sẽ phải kết hôn với một hoàng tử nước ngoài, một người trung thành với đất nước của ông ta. Ông ta sẽ lợi dụng nước Anh như một con tốt trong ván cờ quyền lực của châu Âu và thậm chí sẽ rút cạn tài nguyên của nó. Nhưng với tất cả các tỷ lệ đặt cược chống lại bà, làm thế nào bà có thể hy vọng tự mình cai trị nước Anh? Bà xác định con đường duy nhất để tiến tới là biến vị trí yếu kém của mình thành lợi thế, tự bồi đắp cho kiểu uy tín và thẩm quyền của chính mình, một điều cuối cùng sẽ mang lại cho bà những quyền lực lớn hơn bất kỳ vị vua nào trước đó.

Kế hoạch của bà dựa trên logic sau: Các vị vua và hoàng hậu ở thời đại của bà cai trị với một ý thức mạnh mẽ về đặc quyền do dòng dõi huyết thống và địa vị á thần của họ. Họ mong đợi sự vâng phục và trung thành hoàn toàn. Họ không phải làm bất cứ điều gì để có được điều này; nó đến cùng với địa vị. Nhưng ý thức về đặc quyền này có những hậu quả của nó. Thần dân của họ sẽ tỏ lòng tôn kính, nhưng mối liên hệ tình cảm với những người cai trị như vậy trong hầu hết các trường hợp không mấy sâu sắc. Dân chúng nước Anh có thể cảm nhận được khoảng cách ngăn cách họ với quốc vương, và việc kẻ cai trị họ thật sự xem họ nhỏ bé như thế nào.

Cảm giác về đặc quyền này cũng làm giảm hiệu quả chính trị của họ. Các bộ trưởng của chính phủ bị hăm he đe dọa bởi một người như Henry VIII, và vì vậy năng lượng của họ được dành cho việc xoa dịu nhà vua thay vì dành cho việc sử dụng trí thông minh và sức mạnh sáng tạo của riêng họ. Với ý thức về đặc quyền này, các nhà cai trị ít chú ý đến các chi tiết của việc cầm quyền, vốn quá buồn tẻ; các cuộc chiến tranh chinh phục trở thành phương tiện chính của họ để đạt được vinh quang và mang tới sự giàu có cho tầng lớp quý tộc, dù những cuộc chiến như vậy đã làm cạn kiệt tài nguyên của quốc gia. Những kẻ thống trị này có thể vô cùng ích kỷ - Henry VIII đã xử tử mẹ của Elizabeth để có thể cưới người tình mới nhất của mình, không màng tới việc trông ông có vẻ bạo ngược như thế nào đối với người dân nước Anh. Mary, Nữ hoàng của người Scotland, đã giết chồng mình để có thể cưới người yêu.

Elizabeth dễ dàng tự lừa dối chính mình và chỉ đơn giản mong đợi sự trung thành đi kèm với địa vị oai nghiêm của bà. Nhưng bà quá thông minh để rơi vào cái bẫy đó. Bà cố tình đi theo hướng ngược lại. Bà không có cảm giác nào về đặc quyền. Bà ghi nhớ điểm yếu của vị trí thực tế của mình. Bà không thụ động mong đợi sự trung thành; bà sẽ bắt tay vào hành động. Bà sẽ giành được sự tin tưởng và tín nhiệm mà bà đòi hỏi thông qua những hành động của mình theo thời gian. Bà sẽ chứng minh rằng bà không ích kỷ, rằng mọi thứ bà làm đều bị thúc đẩy bởi lợi ích lớn hơn cho đất nước. Bà sẽ cảnh giác và không nao núng trong công việc này. Bà sẽ thay đổi cách mọi người (thần dân của bà, các bộ trưởng của bà, các đối thủ nước ngoài của bà) nhận thức về bà - từ một người phụ nữ thiếu kinh nghiệm và yếu đuối thành một nhân vật có thẩm quyền và quyền lực lớn. Bằng cách tạo ra mối quan hệ sâu sắc hơn nhiều với các bộ trưởng và thường dân, bà sẽ khắc phục được sự hay thay đổi tự nhiên của mọi người và định hướng năng lượng của họ tới mục đích tái thiết nước Anh.

Những lần xuất hiện đầu tiên của bà trước nhân dân Anh được khéo léo thiết kế để tạo tiền đề cho một kiểu lãnh đạo mới. Bị bao quanh bởi mọi thứ phô trương thông thường của hoàng gia, bà pha trộn nó với một thái độ tiếp xúc chan hòa, làm cho bà trông có vẻ vừa thoải mái vừa vương già. Bà không giả vờ điều này. Từng cảm thấy bất lực khi còn trẻ, bà có thể đồng cảm với người phụ nữ giúp việc nghèo nhất nước Anh. Thông qua thái độ của mình, bà cho thấy bà đứng về phía họ, nhạy cảm với những ý kiến của họ về bà. Bà muốn giành được sự tán thành của họ. Bà sẽ xây dựng sự đồng cảm này trong suốt triều đại của mình, và mối liên kết giữa bà và dân chúng trở nên mạnh mẽ hơn nhiều so với bất kỳ quốc vương nào trước đó.

Với các bộ trưởng của bà, công việc này tinh tế và khó khăn hơn. Đó là một nhóm đàn ông khao khát quyền lực, với những cái tôi và nhu cầu cảm thấy thông minh hơn và vượt trội hơn một người phụ nữ của họ. Bà dựa vào sự giúp đỡ và thiện chí của họ để điều hành đất nước, nhưng nếu bà để lộ quá nhiều sự phụ thuộc vào họ, họ sẽ thao túng bà. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu cầm quyền, bà đã làm rõ vấn đề sau: Bà hoàn toàn nghiêm túc trong công việc; bà sẽ làm việc chăm chỉ hơn tất cả họ; bà sẽ giảm thiểu những chi tiêu trong triều, hy sinh thu nhập của chính mình trong quá trình này; và mọi hoạt động đều hướng tới việc đưa nước Anh ra khỏi cái hố mà nó đã rơi vào. Bà đã sớm thể hiện kiến thức vượt trội về nền tài chính của đất nước và khía cạnh cứng rắn của mình trong bất kỳ cuộc đàm phán nào. Thỉnh thoảng, bà sẽ đùng đùng nổi giận nếu một bộ trưởng dường như đang đi xa hơn trong một chương trình hành động cá nhân, và những sự bùng nổ này có thể khá đáng sợ.

Tuy vậy, đa phần là bà tỏ ra nhiệt tình và cảm thông, tự điều chỉnh cho phù hợp với những tâm trạng khác nhau của những người đàn ông này. Chỉ ít lâu sau đó, họ muốn làm bà hài lòng và nhận được sự chấp thuận của bà. Không làm việc đủ chăm chỉ hoặc không đủ thông minh có thể có nghĩa là sẽ bị cô lập và nhận được một cách đối xử lạnh lùng; và họ muốn tránh điều này, một cách vô thức. Họ tôn trọng thực tế rằng bà sống theo những tiêu chuẩn cao của chính mình. Bằng cách này, bà dần dần đặt các bộ trưởng vào cùng một vị trí mà bà đã tự tìm thấy chính mình trong đó: cần phải giành được sự tin tưởng và tôn trọng của bà thông qua những hành động của họ. Lúc này, thay vì một nhóm bộ trưởng mưu mô, ích kỷ, nữ hoàng đã có một đội ngũ làm việc để tiếp tục chương trình hành động của mình, và các kết quả đã tự chứng minh điều đó.

Bằng những phương pháp này, Elizabeth có được sự tín nhiệm mà bà cần, nhưng bà đã phạm phải một sai lầm lớn khi xử lý Mary, nữ hoàng của người Scotland. Elizabeth đã trở nên hơi tự ban đặc quyền cho chính mình, cảm thấy trong trường hợp này rằng bà biết rõ hơn các bộ trưởng, rằng những băn khoăn day dứt cá nhân của bà về việc xử tử một nữ hoàng chị em họ lớn hơn mọi thứ khác. Bà đã phải trả giá cho chủ trương này, vì bà cảm thấy sự tôn trọng của mọi người đối với bà đang giảm sút dần, và điều đó làm cho bà đau đớn. Ý thức của bà về lợi ích lớn lao hơn là cái đã dẫn dắt bà, nhưng trong trường hợp này lợi ích lớn lao hơn chỉ được phục vụ nếu Mary bị xử tử. Bà đã vi phạm những nguyên tắc của chính mình.

Phải mất một thời gian, nhưng bà nhận ra sai lầm của mình. Bà giao cho người đứng đầu bộ phận giúp việc bí mật nhiệm vụ dẫn dụ Mary dấn sâu hơn trong âm mưu độc ác nhằm tống khứ Elizabeth. Lúc này, với bằng chứng chắc chắn về sự đồng lõa của Mary, Elizabeth có thể thực hiện bước đi đáng sợ. Cuối cùng, việc đi ngược lại cảm xúc của chính mình vì lợi ích của đất nước, thực chất là thừa nhận sai lầm của mình, khiến bà càng được dân chúng nước Anh tin tưởng. Đó là loại phản ứng với dư luận mà hầu như không có kẻ cai trị nào vào thời đó có khả năng thực hiện.

Với các đối thủ nước ngoài, đặc biệt là Philip II, Elizabeth không ngây thơ, bà hiểu rõ tình huống: Cho dù làm bất cứ điều gì, bà vẫn không có được sự tôn trọng hay không được nghỉ ngơi chút nào vì những âm mưu bất tận của họ nhằm lật đổ bà. Họ coi thường bà vì bà là một nữ hoàng chưa lập gia đình và là một phụ nữ dường như sợ hãi sự xung đột và chiến tranh. Bà làm ngơ tất cả những điều này và tiếp tục sứ mệnh bảo đảm cho nền tài chính của nước Anh. Nhưng khi cuộc xâm lược Anh dường như sắp xảy ra, bà biết rằng đã đến lúc phải chứng minh mình là một chiến lược gia vĩ đại. Bà sẽ lợi dụng sự đánh giá quá thấp của Philip đối với mánh khóe và sự cứng rắn của bà như là một nhà lãnh đạo.

Nếu chiến tranh là cần thiết, bà sẽ cố gắng tiến hành nó một cách tiết kiệm nhất và hiệu quả nhất. Bà đầu tư một khoản tiền lớn để tạo ra hệ thống gián điệp phức tạp nhất ở châu Âu, cho phép bà biết trước những kế hoạch xâm lược của Tây Ban Nha, kể cả ngày xuất kích. Với sự hiểu biết này, bà có thể thành lập và thanh toán chi phí cho một lực lượng quân đội vào phút cuối, tiết kiệm được những khoản tiền khổng lồ. Bà tài trợ cho các cuộc đột kích của Sir Francis Drake vào vùng duyên hải Tây Ban Nha và vào các thuyền buồm trên biển của đối phương. Điều này cho phép bà làm giàu thêm cho các kho bạc của Anh và trì hoãn việc tung ra hạm đội, vốn khiến cho Philip phải tốn kém nhiều hơn.

Khi có vẻ chắc chắn rằng cuộc tấn công sẽ diễn ra trong vòng vài tháng, bà nhanh chóng xây dựng hải quân Anh, đặt đóng rất nhiều những con tàu nhỏ hơn, nhanh hơn, phù hợp với vùng biển nước Anh, và rẻ hơn. Không giống như Philip, bà giao việc hoạch định chiến lược chiến đấu cho các vị đô đốc của mình, nhưng bà bác bỏ một điểm trong đề xuất của họ - bà muốn họ chiến đấu với hạm đội càng gần nước Anh càng tốt. Điều này sẽ mang lại lợi thế rất lớn cho người Anh, vì những chiếc thuyền buồm lớn của Tây Ban Nha không phù hợp với những vùng biển phía bắc nhiều bão tố, và những người lính Anh, với Tổ quốc sát ngay sau lưng họ, sẽ chiến đấu hết mình. Cuối cùng, Tây Ban Nha đã bị phá sản và không bao giờ quay trở lại thời kỳ huy hoàng trước đó của nó, trong khi nước Anh dưới quyền của Elizabeth giờ là cường quốc đang nổi lên. Nhưng sau chiến thắng vĩ đại này, bà phản đối những lời kêu gọi đưa trận chiến tới Tây Ban Nha để giáng cho đất nước này một đòn chí mạng. Bà không quan tâm đến chiến tranh vì vinh quang hay sự chinh phục mà chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của đất nước.

Sau thất bại của hải quân Tây Ban Nha, quyền lực và uy tín của bà dường như bất khả xâm phạm, nhưng Elizabeth sẽ không bao giờ buông lơi sự cảnh giác. Bà biết rằng với tuổi tác và thành công, ý thức về đặc quyền đáng sợ và sự vô cảm đi cùng với nó sẽ tự nhiên xuất hiện. Là một người phụ nữ tự mình cai trị đất nước, bà không thể chấp nhận sự xuống dốc này. Bà vẫn giữ được khả năng đọc được tâm trạng của những người xung quanh, và bà có thể cảm nhận được rằng những người đàn ông trẻ tuổi hiện đang chiếm đa số trong triều có một thái độ khác hơn nhiều đối với bà. Sự tôn trọng của họ là dành cho vị trí nữ hoàng của bà, nhưng nó không đi xa hơn nữa. Một lần nữa bà sẽ phải đấu tranh chống lại những cái tôi của đàn ông, nhưng lần này không có sự quyến rũ và duyên dáng trẻ trung của chính bà để dựa vào.

Với Essex, mục tiêu của bà là thuần phục và hướng tinh thần của anh ta về phía lợi ích của đất nước, như bà từng làm với các bộ trưởng của mình. Bà nuông chiều những ham muốn vô tận về tiền bạc và đặc quyền của anh ta, cố gắng xoa dịu những bất an của anh ta, nhưng đặt ra những giới hạn trong việc trao cho anh ta bất kỳ quyền lực chính trị nào. Anh ta phải tự chứng tỏ bản thân để vươn lên đẳng cấp của bà, trước khi bà trao cho anh ta những quyền hạn đó. Khi anh ta tỏ ra bực tức, bà vẫn bình tĩnh và vững vàng, chứng minh cho anh ta thấy sự vượt trội và tự chủ của bà. Khi rõ ràng anh ta không thể bị thuần phục, bà đã để cho anh ta hành động nhiều hơn nữa với âm mưu của mình nhằm hủy hoại danh tiếng của anh ta và cho phép bà tống khứ căn bệnh ung thư này. Và khi anh ta đối mặt với cái chết vì tội ác của mình, không chỉ hình ảnh của Chúa Trời làm cho anh ta khiếp sợ mà đó chính là hình ảnh của nữ hoàng, vầng hào quang quyền lực của bà cuối cùng đã áp đảo được gã đàn ông xấc xược và tự ban cho mình đặc quyền này.

Thấu hiểu: Mặc dù không còn những vị vua và hoàng hậu đầy quyền lực ở giữa chúng ta, nhưng hơn bao giờ hết, có nhiều người trong số chúng ta hành động như thể họ tự cho mình là thuộc hoàng tộc. Chúng ta cảm thấy có quyền được tôn trọng vì công việc của mình, bất kể chúng ta đã thật sự hoàn thành ít đến cỡ nào. Chúng ta cảm thấy mọi người phải xem trọng những ý tưởng và dự án của mình, bất kể chúng thiếu suy nghĩ đến cỡ nào hoặc thành tích của chúng ta xoàng xĩnh đến cỡ nào. Chúng ta mong được mọi người giúp đỡ trong nghề nghiệp, vì chúng ta chân thành và có những dự định tốt nhất. Một số hình thức hiện đại của cảm giác đặc quyền này có thể xuất phát từ việc chúng ta đã bị cha mẹ làm cho hư hỏng quá mức, họ khiến chúng ta cảm thấy rằng bất cứ điều gì chúng ta làm đều tốt đẹp. Một số trong đó có thể đến từ nền công nghệ đang chi phối mạnh mẽ cuộc sống của chúng ta và cũng làm hỏng chúng ta. Nó cho chúng ta những khả năng to lớn mà không cần phải nỗ lực thật sự. Chúng ta đã đi đến chỗ xem những khả năng đó là lẽ đương nhiên và mong đợi mọi thứ trong cuộc sống sẽ rất nhanh chóng và dễ dàng.

Bất kể nguyên nhân là gì, nó lây nhiễm cho tất cả chúng ta, và chúng ta phải xem ý thức về đặc quyền này như một lời nguyền. Nó làm cho chúng ta bỏ qua thực tế - mọi người không có lý do cố hữu nào để tin tưởng hoặc tôn trọng chúng ta chỉ vì chúng ta là ai. Nó làm cho chúng ta lười biếng và hài lòng với ý tưởng nhỏ nhất hoặc phác thảo đầu tiên về công việc của chúng ta. Tại sao chúng ta phải nâng cao mục tiêu hoặc gắng sức hoàn thiện bản thân khi chúng ta cảm thấy mình đã quá tuyệt vời? Nó làm cho chúng ta trở nên vô cảm và chỉ quan tâm tới chính mình. Do cảm thấy rằng những người khác mắc nợ chúng ta sự tin tưởng và tôn trọng, chúng ta phủ nhận năng lực ý chí của họ, khả năng tự đánh giá của họ và điều này rất dễ gây điên tiết. Có thể chúng ta không nhìn thấy nó, nhưng chúng ta đang khơi gợi sự oán giận.

Và nếu chúng ta trở thành lãnh đạo hoặc lãnh đạo cấp thấp, hiệu quả của lời nguyền này chỉ trở nên tồi tệ hơn. Một cách vô thức, chúng ta có xu hướng ngồi đó và mong đợi mọi người đến với chúng ta với lòng trung thành và sự tôn trọng vì vị trí cao mà chúng ta chiếm giữ. Chúng ta trở nên phòng thủ và bực tức nếu những ý tưởng của chúng ta bị thách thức, và tự nghi ngờ về trí tuệ và sự khôn ngoan của chúng ta, ngay cả trong những vấn đề nhỏ nhất. Chúng ta mong đợi những lợi lộc và đặc quyền nhất định, và nếu cần phải có những sự hy sinh, theo cách nào đó chúng ta cảm thấy mình nên được miễn trừ. Nếu chúng ta phạm sai lầm, đó luôn là do lỗi của người khác, do hoàn cảnh, hoặc do một con quỷ nội tâm nhất thời nào đó nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Chúng ta không bao giờ thật sự có lỗi.

Chúng ta không nhận thức được điều này ảnh hưởng đến những người mà chúng ta lãnh đạo như thế nào, bởi vì chúng ta chỉ chú ý đến những nụ cười và cái gật đầu tán thành của mọi người đối với những gì chúng ta nói. Nhưng họ nhìn thấu chúng ta. Họ cảm nhận được đặc quyền mà chúng ta đang thể hiện, và theo thời gian, điều đó làm giảm sự tôn trọng của họ và đẩy họ ra khỏi tầm ảnh hưởng của chúng ta. Ở một đỉnh điểm nhất định, họ có thể quay sang chống lại chúng ta với một sự bất ngờ gây sốc.

Như Elizabeth, chúng ta phải nhận ra rằng thật sự chúng ta đang ở một vị trí yếu, và chúng ta phải đấu tranh để chấp nhận thái độ ngược lại: Chúng ta không mong đợi gì từ những người xung quanh, từ những người chúng ta lãnh đạo. Chúng ta không phòng thủ hoặc ngồi yên tại chỗ mà hoàn toàn chủ động - mọi thứ chúng ta nhận được từ người khác, và chắc chắn nhất là sự tôn trọng của họ, phải được giành lấy. Chúng ta phải liên tục tự chứng minh bản thân. Chúng ta phải chỉ ra rằng cân nhắc trước tiên của chúng ta không phải là bản thân và cái tôi nhạy cảm của chúng ta mà là phúc lợi của nhóm. Chúng ta phải phản ứng nhanh và thật sự cảm thông với tâm trạng của mọi người, nhưng cũng cần có những giới hạn - với những ai cho thấy họ là kẻ tự khoe khoang về bản thân, chúng ta phải cứng rắn và tàn nhẫn. Chúng ta thực hành những gì chúng ta rao giảng, làm việc chăm chỉ hơn những người khác, hy sinh lợi ích của mình nếu cần thiết và chịu trách nhiệm đối với bất kỳ sai lầm nào. Chúng ta hy vọng các thành viên của nhóm sẽ đi theo sự dẫn dắt của chúng ta và tự chứng minh bản thân của họ để đáp lại.

Với thái độ đó, chúng ta sẽ nhận thấy một hiệu quả rất khác. Mọi người sẽ tự mở rộng bản thân trước ảnh hưởng của chúng ta; khi chúng ta tiến về phía họ, họ cũng tiến về phía chúng ta. Họ muốn giành được sự chấp thuận và tôn trọng của chúng ta. Với sự kết nối cảm xúc này, chúng ta dễ dàng tha thứ cho những sai lầm. Năng lượng của nhóm không bị lãng phí vào sự đối đầu vô tận và sự xung đột của những cái tôi mà hướng đến việc đạt được những mục tiêu và hoàn thành những điều vĩ đại. Và khi đạt được những kết quả như vậy, chúng ta có thể tạo ra vầng hào quang của thẩm quyền và quyền lực, vốn chỉ phát triển nhiều hơn nữa theo thời gian. Những gì chúng ta nói và làm dường như có thêm trọng lượng, và danh tiếng của chúng ta đi trước chúng ta.

Đó… là con đường dẫn đến sự tuân phục do cưỡng ép. Nhưng có một con đường ngắn hơn để đi tới một mục tiêu cao quý hơn, sự tuân phục của ý chí. Khi lợi ích của nhân loại bị đe dọa, họ sẽ vui vẻ tuân theo người mà họ tin là khôn ngoan hơn mình. Bạn có thể chứng minh điều này trên mọi phương diện: Bạn có thể trông thấy một bệnh nhân cầu xin vị bác sĩ nói cho y biết y phải làm gì; hoặc toàn bộ thủy thủ trên một con tàu sẽ lắng nghe người hoa tiêu như thế nào.

- Xenophon

Những giải pháp đối với bản chất con người

Con người chúng ta thích tin rằng những cảm xúc mà chúng ta trải nghiệm rất đơn giản và thuần khiết: Chúng ta yêu một số người nhất định và ghét một số nhất định khác, chúng ta tôn trọng và ngưỡng mộ cá nhân này và không có gì ngoài sự khinh bỉ đối với một cá nhân khác. Sự thật là điều này gần như không bao giờ xảy ra. Có một thực tế cơ bản ở bản chất con người, đó là cảm xúc của chúng ta hầu như luôn có tính chất lập lờ nước đôi, hiếm khi thuần khiết và đơn giản. Chúng ta có thể cảm thấy tình yêu và sự thù địch cùng một lúc, hoặc sự ngưỡng mộ và đố kỵ cùng một lúc.

Sự lập lờ nước đôi này bắt đầu từ thời thơ ấu và hình thành nên khuôn mẫu trong suốt quãng đời còn lại của chúng ta. Nếu cha mẹ chúng ta tương đối chú ý và yêu thương, chúng ta luyến nhớ thời thơ ấu của mình như một giai đoạn vàng son. Điều chúng ta rất dễ dàng quên là ngay cả với những bậc cha mẹ như vậy, chúng ta vẫn có xu hướng cảm thấy bực bội vì phải phụ thuộc vào tình yêu và sự chăm sóc của họ. Trong một số trường hợp, chúng ta cảm thấy ngột ngạt. Chúng ta khao khát khẳng định sức mạnh ý chí của mình, để chứng tỏ chúng ta có thể tự đứng vững. Cảm giác quá phụ thuộc vào sự chú ý của cha mẹ có thể mở ra những lo âu lớn về tình trạng dễ bị tổn thương của chúng ta nếu sự chú ý đó không còn nữa. Và vì vậy, chúng ta không thể tránh khỏi việc cảm thấy một sự thù địch và mong muốn bất tuân nào đó cùng song hành với tình cảm thương mến của chúng ta.

Nếu họ không tử tế và quan tâm, thì trong giai đoạn cuộc đời sau đó chúng ta oán giận họ và chỉ có thể nhớ tới sự lạnh lùng của họ và ác cảm hiện tại của chúng ta. Nhưng chúng ta quên rằng trong thời thơ ấu, chúng ta có xu hướng che đậy những đặc điểm tiêu cực của họ và tìm cách yêu họ bất chấp sự đối xử của họ, và theo cách nào đó tự trách mình vì không xứng đáng với tình cảm của họ. Với thực tế là sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào họ, việc cảm thấy họ thật sự không quan tâm sẽ khuấy động rất nhiều lo lắng. Trộn lẫn với những khoảnh khắc giận dữ và thất vọng này là những cảm xúc về nhu cầu và tình yêu.

Và do đó, hồi còn nhỏ, khi cảm xúc này chi phối chúng ta thì cảm xúc kia lại nằm bên dưới, một dòng chảy liên tục của sự lập lờ nước đôi. Khi trưởng thành, chúng ta trải nghiệm sự lập lờ tương tự với bạn bè và các đối tác thân mật, đặc biệt nếu chúng ta cảm thấy phụ thuộc vào họ và dễ bị tổn thương.

Một phần lý do cho sự lập lờ mang tính bản chất này là những cảm xúc mạnh mẽ, đơn thuần quá đáng sợ. Chúng đại diện cho một sự mất kiểm soát nhất thời. Chúng dường như phủ nhận ý chí của chúng ta. Chúng ta, một cách vô thức cân bằng chúng với những cảm xúc trái ngược hoặc mâu thuẫn. Và một phần của nó bắt nguồn từ thực tế là những tâm trạng của chúng ta liên tục thay đổi và chồng chéo lên nhau. Dù nguyên nhân là gì, chúng ta không ý thức được sự lập lờ nước đôi của chính mình vì việc suy ngẫm về sự phức tạp của cảm xúc quá khó khăn rối rắm, và chúng ta thích dựa vào những lý giải đơn giản cho việc chúng ta là ai và chúng ta đang cảm thấy điều gì hơn. Chúng ta cũng làm như vậy với mọi người xung quanh, giảm thiểu những diễn giải về cảm xúc của họ thành một cái gì đó đơn giản và dễ tiếp thu. Về phần chúng ta, sẽ cần nhiều nỗ lực và sự trung thực để nắm bắt được sự lập lờ nước đôi tiềm ẩn của chính chúng ta trong hành động.

Khía cạnh cơ bản này của bản chất con người thể hiện rõ ràng nhất trong mối quan hệ giữa chúng ta và những nhà lãnh đạo, những người mà chúng ta liên kết một cách vô thức với nhân vật người cha và/hay người mẹ. Sự lập lờ nước đôi đối với những nhà lãnh đạo này hoạt động theo cách sau đây.

Một mặt, chúng ta nhận ra bằng trực giác sự cần thiết của các nhà lãnh đạo. Trong bất kỳ nhóm nào, mọi người đều có chương trình hành động hẹp và những lợi ích có tính chất cạnh tranh của họ. Các thành viên cảm thấy không an toàn về vị trí của chính họ và hành động để đảm bảo nó. Nếu không có những nhà lãnh đạo vốn đứng trên những lợi ích cạnh tranh này và có thể nhìn thấy bức tranh lớn hơn, nhóm sẽ gặp rắc rối. Những quyết định khó khăn sẽ không bao giờ được đưa ra. Sẽ không có ai hướng dẫn con tàu. Do đó, chúng ta khao khát sự lãnh đạo và cảm thấy mất phương hướng một cách vô thức, thậm chí hoảng loạn, nếu không có kẻ nào đó hoàn thành vai trò này.

Mặt khác, chúng ta cũng có xu hướng sợ hãi và thậm chí coi thường những người ở bên trên chúng ta. Chúng ta sợ rằng những người nắm quyền sẽ bị cám dỗ sử dụng các đặc quyền của vị trí của họ để tích lũy thêm quyền lực và làm giàu cho bản thân, một điều xảy ra khá phổ biến. Chúng ta cũng là những kẻ bướng bỉnh. Chúng ta không thoải mái chút nào với sự thấp kém và phụ thuộc đi kèm với việc phục vụ dưới quyền một nhà lãnh đạo. Chúng ta muốn thực thi ý chí của riêng mình và cảm thấy mình tự chủ. Chúng ta thầm ghen tị với sự công nhận và những đặc quyền mà các nhà lãnh đạo sở hữu. Cảm giác nước đôi thuộc về bản chất này lên tới đỉnh điểm tiêu cực khi các nhà lãnh đạo có những dấu hiệu lạm dụng, vô cảm hoặc không đủ năng lực. Cho dù các nhà lãnh đạo có quyền lực đến mức nào, cho dù chúng ta có thể ngưỡng mộ họ đến mức nào, bên dưới bề mặt này vẫn có sự lập lờ nước đôi này, và nó khiến cho lòng trung thành của mọi người trở nên thất thường và bất ổn định.

Những người nắm quyền sẽ có xu hướng chỉ chú ý đến nụ cười của nhân viên và những tràng pháo tay họ nhận được tại các cuộc họp, và họ sẽ nhầm lẫn sự ủng hộ này với thực tế. Họ không nhận ra rằng mọi người hầu như luôn thể hiện sự tôn kính như thế đối với những người ở trên họ, bởi vì số phận cá nhân của họ nằm trong tay những nhà lãnh đạo này và họ không dám thể hiện những cảm xúc thật của mình. Do đó, các nhà lãnh đạo hiếm khi ý thức được rằng sự nước đôi tiềm ẩn đang hiện diện, ngay cả khi mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp. Nếu các nhà lãnh đạo phạm một số sai lầm, hoặc nếu quyền lực của họ bị lung lay, đột nhiên họ sẽ nhìn thấy sự ngờ vực và sự thiếu tôn trọng, vốn đã được hình thành một cách vô hình trước đó, khi công chúng hoặc các thành viên của nhóm biểu lộ chúng với một cường độ đáng ngạc nhiên và gây sốc. Hãy theo dõi tin tức để thấy các nhà lãnh đạo trong bất kỳ lĩnh vực nào có thể nhanh chóng đánh mất sự hỗ trợ và tôn trọng ra sao, và họ được đánh giá nhanh chóng ra sao bởi thành công hay thất bại mới nhất của họ.

Chúng ta có thể bị cám dỗ để tin rằng sự hay thay đổi này là một hiện tượng hiện đại, một sản phẩm của thời kỳ dân chủ khốc liệt mà chúng ta đang sống. Nói cho cùng, tổ tiên của chúng ta ngoan ngoãn hơn con người hiện đại chúng ta, hoặc chúng ta nghĩ vậy. Nhưng điều này hầu như không đúng. Đi ngược trở lại thời gian, trong các nền văn hóa bản địa và các nền văn minh sơ khai, các thủ lĩnh và vua chúa từng được tôn sùng thường xuyên bị xử tử nếu họ có dấu hiệu già hoặc yếu; hoặc nếu họ thua một trận chiến; hoặc nếu một đợt hạn hán bất ngờ xảy ra, có nghĩa là các vị thần không còn ban phước cho họ nữa; hoặc nếu họ được coi là ủng hộ cho phe cánh của họ với phí tổn của nhóm. Những vụ hành quyết này là những thời điểm lễ hội tuyệt vời, một thời điểm để giải tỏa mọi thù địch dồn nén đối với các nhà lãnh đạo. (Mời xem The Golden Bough, của James Frazer, để biết vô số ví dụ về điều này).

Có lẽ tổ tiên của chúng ta sợ hãi một cách vô thức bất kỳ một cá nhân nào tồn tại lâu dài trong quyền lực, vì họ cảm nhận được khía cạnh đồi bại của quyền lực; và với một người mới mẻ, họ có thể kiểm soát anh ta tốt hơn. Trong mọi trường hợp, bên dưới sự tuân thủ của họ là sự cảnh giác cực kỳ. Có thể chúng ta không còn xử tử các thủ lĩnh của mình nữa, nhưng chúng ta cũng làm như vậy một cách tượng trưng trong các cuộc bầu cử và trên các phương tiện truyền thông, vui mừng khi chứng kiến sự sụp đổ theo nghi thức của kẻ mạnh. Có thể chúng ta không đổ lỗi cho họ khi trời hạn hán, nhưng chúng ta sẽ đổ lỗi cho họ về bất kỳ suy thoái nào trong nền kinh tế, dù hầu hết những gì xảy ra trong nền kinh tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Như với lượng mưa, dường như họ đã đánh mất vận may và sự ban phước của thần linh. Nếu nói về sự lập lờ nước đôi và mất tin tưởng, chúng ta không thay đổi nhiều như chúng ta nghĩ.

Tuy nhiên, trong suốt lịch sử, một số nhà lãnh đạo đáng chú ý đã có thể dựng lên một bức tường thành chống lại sự biến động này, để có được một sự tôn trọng và hỗ trợ vững chắc, cho phép họ hoàn thành những điều lớn lao theo thời gian. Chúng ta cứ nghĩ về Moses, hoàng đế Ấn Độ cổ đại Asoka, Pericles (xem chương 1), tướng quân La Mã Scipio Africanus, hoặc nữ hoàng Elizabeth I. Trong thời hiện đại hơn, chúng ta có thể nghĩ về Abraham Lincoln, hay Martin Luther King Jr., Warren Buffett, Angela Merkel, hoặc Steve Jobs. Chúng ta sẽ gọi những thế lực này là thẩm quyền (authority), ý nghĩa ban đầu của từ này, vốn xuất phát từ từ Latin auctoritas, là “sự gia tăng hoặc gia tố”.

Đối với người La Mã cổ đại, những người đã sáng lập nền cộng hòa của họ sở hữu một minh triết lớn lao. Tổ tiên của họ đã chứng minh sự khôn ngoan này thông qua sự trường tồn và vững mạnh của các thể chế mà họ đã thiết lập, và việc họ đã biến thị trấn thuộc tỉnh của họ thành thế lực hàng đầu trong thế giới đã biết như thế nào. Trong phạm vi mà các nguyên lão thượng viện và các nhà lãnh đạo La Mã quay lại với minh triết cơ bản này và hiện thực hóa những lý tưởng của các nhà sáng lập, họ có thẩm quyền - một sự hiện diện ngày càng lan tỏa, một uy tín và sự tín nhiệm ngày càng tăng. Những nhà lãnh đạo này không phải viện đến những lời diễn thuyết hoặc ép buộc. Các công dân La Mã sẵn sàng làm theo sự dẫn dắt của họ và chấp nhận những ý tưởng hoặc lời khuyên của họ. Mỗi lời nói và hành động của họ dường như mang thêm trọng lượng. Điều này cho họ nhiều thời gian hơn trong việc đưa ra quyết định khó khăn; họ không bị đánh giá chỉ bởi thành công mới nhất của mình.

Người La Mã khét tiếng về việc cứng đầu cứng cổ và không tin tưởng vào những người nắm quyền lực. Các nền chính trị của họ có thể dễ dàng rơi vào nội chiến, điều này thực sự đã xảy ra trong một số dịp. Có những nhà lãnh đạo thể hiện uy quyền là một cách để kiểm soát tính hiếu chiến này, để hoàn thành công việc, để duy trì một mức độ thống nhất. Và nó đòi hỏi những nhà lãnh đạo đó phải thể hiện những lý tưởng cao nhất, những lý tưởng vượt lên trên sự nhỏ mọn của đời sống chính trị hằng ngày.

Mô hình La Mã này, vốn đại diện cho việc triệt để gắn bó với một mục đích cao hơn, vẫn là thành phần thiết yếu cho tất cả các hình thức thẩm quyền thực sự. Và đây là cách chúng ta phải hành động nếu muốn thiết lập một thẩm quyền như vậy trên thế giới ngày nay.

Trước hết và trên hết, chúng ta phải hiểu công việc cơ bản của bất kỳ nhà lãnh đạo nào - cung cấp một tầm nhìn sâu rộng, nhìn thấy bức tranh toàn cảnh, làm việc vì lợi ích lớn hơn của nhóm và duy trì sự thống nhất. Đó là những gì mọi người mong muốn ở những nhà lãnh đạo của họ. Chúng ta phải tránh tỏ ra nhỏ mọn, vị kỷ hoặc thiếu quyết đoán. Việc thể hiện những dấu hiệu đó sẽ khuấy động sự lập lờ nước đôi. Việc tập trung vào tương lai và bức tranh lớn hơn sẽ buộc chúng ta phải tư duy nhiều hơn. Dựa trên tầm nhìn này, chúng ta phải đặt ra các mục tiêu thiết thực và dẫn dắt nhóm hướng tới chúng. Chúng ta cần trở thành bậc thầy của sự nhìn xa trông rộng này thông qua thực hành và kinh nghiệm. Đạt được sự làm chủ như vậy sẽ mang tới cho chúng ta niềm tin rất lớn vào bản thân, trái ngược với sự tự tin giả tạo của những người chỉ đơn thuần là vĩ cuồng. Và khi chúng ta thể hiện sự tự tin này, mọi người sẽ bị cuốn hút và muốn đi theo sự dẫn dắt của chúng ta.

Tuy nhiên, đồng thời, phải xem lãnh đạo là một mối quan hệ năng động giữa chúng ta và những người bị lãnh đạo. Phải hiểu rằng một cử chỉ nhỏ nhất của chúng ta cũng có ảnh hưởng vô thức đến các cá nhân. Và vì vậy phải rất chú ý đến thái độ của mình, đến bầu không khí mà chúng ta tạo ra. Cần phải hòa mình vào tâm trạng thay đổi của các thành viên trong nhóm. Không bao giờ được giả định rằng chúng ta có sự hỗ trợ của họ. Sự đồng cảm của chúng ta phải có tính chất bản năng - chúng ta có thể cảm nhận được khi các thành viên đang đánh mất sự tôn trọng đối với chúng ta. Với tư cách là một phần của động năng này, cần nhận ra rằng khi chúng ta thể hiện sự tôn trọng và tin tưởng đối với những người bên dưới chúng ta, những cảm giác đó cũng sẽ chảy ngược về phía chúng ta. Các thành viên sẽ sẵn sàng đón nhận ảnh hưởng của chúng ta. Phải cố hết sức thu hút năng lực ý chí của mọi người, làm cho họ trở nên đồng nhất với sứ mệnh của nhóm, muốn tích cực tham gia để hiện thực hóa mục đích cao hơn của chúng ta.

Tuy nhiên, sự đồng cảm này không bao giờ có nghĩa là trở nên mềm yếu và dễ bị tác động một cách không cần thiết bởi ý chí của nhóm. Điều đó sẽ chỉ báo hiệu cho sự yếu kém. Khi thực hiện công việc cơ bản của chúng ta - cung cấp tầm nhìn cho nhóm và hướng nó tới các mục tiêu phù hợp - chúng ta phải nghiêm khắc và kiên định. Phải, chúng ta có thể lắng nghe những ý tưởng của mọi người và vận dụng những ý tưởng hữu ích. Nhưng phải ghi nhớ rằng chúng ta có một mệnh lệnh lớn hơn về các chi tiết tổng thể và bức tranh toàn cảnh. Chúng ta không được khuất phục trước những áp lực chính trị để tỏ ra công bằng hơn, và làm hạn chế tầm nhìn của chúng ta. Tầm nhìn này của chúng ta vượt ra khỏi phạm vi chính trị. Nó đại diện cho sự thật và thực tế. Chúng ta phải kiên cường và cứng rắn khi nhận ra điều đó, và không nên thương xót những kẻ cố gắng phá hoại tầm nhìn này hoặc hành động chống lại lợi ích lớn hơn. Sự cứng rắn và đồng cảm không phải là không tương thích với nhau, như Nữ hoàng Elizabeth I đã chứng minh.

Khi các nhà lãnh đạo không thiết lập được hai trụ cột của thẩm quyền này - tầm nhìn và sự đồng cảm - điều thường xảy ra là như sau: những người trong nhóm cảm thấy sự mất kết nối và thay đổi khoảng cách giữa họ và lãnh đạo. Họ biết rằng sâu bên dưới họ bị xem như những con tốt có thể thay thế. Họ cảm nhận được sự thiếu định hướng tổng thể và các phản ứng chiến thuật liên tục đối với các sự kiện. Và vì vậy, theo những cách tinh tế, họ bắt đầu cảm thấy bực bội và mất đi sự tôn trọng. Họ ít chú ý đến những gì các nhà lãnh đạo đó nói. Họ dành nhiều giờ hơn trong ngày để nghĩ về lợi ích và tương lai của chính họ. Họ tham gia hoặc thành lập các phe phái. Họ làm việc ở tốc độ chỉ bằng một nửa hoặc ba phần tư tốc độ bình thường.

Nếu các nhà lãnh đạo đó, khi cảm nhận được tất cả những điều này, tỏ ra mạnh mẽ và đòi hỏi cao hơn, các thành viên sẽ trở nên gây hấn thụ động hơn. Nếu các nhà lãnh đạo tỏ ra mềm mỏng và van nài nhiều sự hỗ trợ hơn, các thành viên thậm chí càng cảm thấy ít tôn trọng họ hơn, như thể lúc này họ đang chỉ huy ngược lại người lãnh đạo của họ. Theo cách này, các thành viên tạo ra vô số các hình thức bất đồng với các nhà lãnh đạo, những kẻ lúc này có thể cảm thấy giống như họ đang cố lôi cả nhóm lên một ngọn đồi. Sự bất đồng này, gây ra bởi sự lơ là của chính họ, là lý do vì sao rất nhiều nhà lãnh đạo làm được rất ít việc và tỏ ra rất tầm thường.

Mặt khác, nếu theo trực giác hoặc một cách có ý thức, chúng ta đi theo con đường thiết lập thẩm quyền như mô tả bên trên, chúng ta có một ảnh hưởng khác hơn nhiều đối với động năng của nhóm. Sự lập lờ nước đôi của các thành viên hoặc công chúng không biến mất - điều đó sẽ xâm phạm bản chất con người - nhưng nó trở nên dễ kiểm soát. Mọi người vẫn sẽ dao động và có những giây phút hồ nghi hoặc ghen tị, nhưng họ sẽ nhanh chóng tha thứ cho chúng ta về bất kỳ sai lầm nào và vượt qua những hoài nghi của họ. Chúng ta đã thiết lập đủ niềm tin để điều đó xảy ra. Bên cạnh đó, các thành viên đi đến chỗ e sợ điều có thể xảy ra nếu chúng ta không còn là lãnh đạo - sự mất đoàn kết, sự thiếu minh bạch, những quyết định tồi tệ. Nhu cầu của họ đối với chúng ta quá mạnh mẽ.

Lúc này chúng ta không còn phải đối phó với sự bất đồng vô hình từ nhóm mà ngược lại. Các thành viên cảm thấy đang tham gia vào sứ mệnh lớn lao hơn. Chúng ta có thể định hướng năng lượng sáng tạo của họ, thay vì phải lôi kéo họ theo. Với sự trung thành đúng chỗ này, việc đạt được các mục tiêu và hiện thực hóa viễn tượng của chúng ta sẽ dễ dàng hơn. Điều này làm tăng thêm thẩm quyền của chúng ta, trong đó mọi điều chúng ta nói và làm đã được tăng giá trị.

Việc đạt được lý tưởng này luôn luôn nằm trong khả năng của chúng ta, và nếu các thành viên đánh mất sự tôn trọng và tin tưởng vào chúng ta, chúng ta phải xem đây là lỗi của chính mình.

CÔNG VIỆC CỦA BẠN VỚI TƯ CÁCH MỘT KẺ NGHIÊN CỨU VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI CÓ BA PHẦN: Trước tiên, bạn phải tự biến mình thành một người quan sát toàn diện về hiện tượng thẩm quyền, sử dụng nó như một thiết bị đo lường mức độ ảnh hưởng của mọi người mà không cần sử dụng tới sức mạnh hay những lời kêu gọi. Bạn bắt đầu quá trình này bằng cách nhìn vào gia đình của chính mình và đánh giá vị phụ huynh nào, nếu có, đã thực thi thẩm quyền lớn hơn đối với bạn và các anh chị em của bạn. Bạn nhìn vào các thầy cô và cố vấn trong cuộc sống của bạn, một số người nổi bật bởi ảnh hưởng mạnh mẽ mà họ có đối với bạn. Những lời lẽ của họ và tấm gương của họ vẫn vang vọng trong tâm trí bạn. Bạn quan sát sếp của chính mình trong hành động, nhìn vào ảnh hưởng của họ không chỉ đối với bạn và các cá nhân khác mà còn đối với toàn bộ nhóm. Cuối cùng, bạn nhìn vào các nhà lãnh đạo khác nhau qua những tin tức. Trong tất cả các trường hợp này, bạn muốn xác định nguồn gốc của thẩm quyền hoặc sự thiếu vắng của nó. Bạn muốn nhận thấy rõ những khoảnh khắc khi thẩm quyền của họ gia tăng hoặc suy yếu và hiểu được lý do vì sao.

Thứ hai, bạn muốn phát triển một số thói quen và chiến lược (xem phần tiếp theo) vốn sẽ phục vụ tốt cho bạn trong việc phóng chiếu thẩm quyền. Nếu bạn là một người học việc đang khao khát một vị trí lãnh đạo, việc phát triển những chiến lược này từ sớm sẽ mang đến cho bạn một hào quang ấn tượng và sự hấp dẫn ngay trong hiện tại, khiến có vẻ như định mệnh của bạn là sẽ trở thành lãnh đạo. Nếu bạn đã ở vị trí lãnh đạo, những chiến lược này sẽ củng cố quyền lực và sự kết nối của bạn với nhóm.

Một phần của quá trình này là bạn cần suy nghĩ về ảnh hưởng của mình đối với mọi người: Bạn có thường xuyên tranh cãi, cố gắng áp đặt ý chí của mình, tìm thấy nhiều sự chống đối hơn bạn mong đợi đối với các ý tưởng và dự án của bạn hay chăng? Mọi người có gật đầu khi lắng nghe lời khuyên của bạn rồi sau đó làm ngược lại hay chăng? Nếu bạn chỉ mới bắt đầu, đôi khi điều này là không thể tránh khỏi - nhìn chung mọi người không tôn trọng ý tưởng của những người thấp hơn trong hệ thống phân cấp; những ý tưởng tương tự nhưng do một người sếp đưa ra sẽ có một tác động khác hẳn. Nhưng đôi khi nó có thể xuất phát từ những hành động của chính bạn, khi bạn vi phạm nhiều nguyên tắc đã mô tả bên trên.

Đừng xem những nụ cười và biểu hiện tán thành của mọi người là thực tế. Hãy lưu ý tới vẻ căng thẳng của họ khi họ làm điều đó; đặc biệt chú ý đến những hành động của họ. Xem bất kỳ lời cằn nhằn nào như một sự phản ánh về thẩm quyền của bạn. Nói chung, bạn muốn nâng cao sự nhạy cảm của mình đối với những người khác, cụ thể hãy nhìn vào những thời khắc khi bạn có thể cảm thấy sự không tôn trọng của mọi người, hoặc thẩm quyền của bạn đang giảm sút. Nhưng hãy ghi nhớ rằng luôn có những quả táo xấu trong bất kỳ nhóm nào, những kẻ hay càu nhàu và không khi nào bạn lấy lòng được, cho dù bạn có làm gì đi nữa. Họ sống với thái độ gây hấn thụ động và ngầm phá hoại bất cứ ai ở vị trí lãnh đạo. Đừng bận tâm nghĩ tới sự đồng cảm; với họ không thể có thái độ nào hữu hiệu. Nghệ thuật là nhận ra họ càng nhanh càng tốt và sa thải hoặc cách ly họ. Việc có một nhóm chặt chẽ và tận tâm cũng sẽ giúp kiểm soát các kiểu người xấu xa đó dễ dàng hơn nhiều.

Thứ ba và quan trọng nhất, bạn không được rơi vào những định kiến phản tác dụng của thời đại chúng ta đang sống, trong đó chính khái niệm thẩm quyền thường bị hiểu lầm và coi thường. Ngày nay chúng ta nhầm lẫn thẩm quyền với các nhà lãnh đạo nói chung, và vì rất nhiều người trong số họ trên thế giới dường như quan tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ quyền lực của họ và làm giàu cho chính họ, theo lẽ tự nhiên chúng ta sẽ nghi ngờ về chính khái niệm này. Chúng ta cũng đang sống trong thời đại hướng đến dân chủ quyết liệt. “Tại sao chúng ta phải đi theo một cá nhân có thẩm quyền và đảm nhận một vai trò thấp kém như vậy?” Chúng ta có thể tự hỏi. “Những kẻ cầm quyền nên đơn giản hoàn thành công việc; thẩm quyền chỉ là một di tích của các vị vua và hoàng hậu. Chúng ta đã tiến xa hơn thế”.

Sự coi thường này đối với thẩm quyền và sự lãnh đạo đã tìm được con đường để luồn vào nền văn hóa của chúng ta. Chúng ta không còn công nhận thẩm quyền trong các bộ môn nghệ thuật. Mọi người đều là một nhà phê bình hợp pháp, và các tiêu chuẩn nên có tính cách cá nhân - đừng nên xem thị hiếu hoặc phán xét của bất cứ một ai là vượt trội. Trước đây, việc nuôi dạy con cái được coi là hình mẫu của thẩm quyền, nhưng các bậc cha mẹ không còn muốn tự coi mình là những nhân vật có thẩm quyền với vai trò là khắc sâu vào các con những giá trị và nền văn hóa cụ thể. Thay vì thế, họ thích tự xem họ là những người bình đẳng hơn, với kiến thức và kinh nghiệm nhiều hơn chút ít, và có vai trò là thật sự xác nhận các cảm xúc của con cái họ và đảm bảo rằng chúng liên tục được xem xét và quan tâm. Họ giống như những người bạn lớn tuổi hơn. Động năng bình đẳng này cũng áp dụng đối với các thầy cô và học sinh, nơi việc học tập phải được vui thú.

Trong bầu không khí này, các nhà lãnh đạo bắt đầu tin rằng họ giống những người chăm sóc hơn, có mặt ở đó để đứng lùi lại và bảo đảm cho nhóm đưa ra quyết định đúng đắn, thực hiện mọi thứ với sự đồng thuận. Hoặc họ ấp ủ ý tưởng rằng điều quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác là việc nghiến ngấu những con số, hấp thụ khối lượng thông tin khổng lồ đang có sẵn hiện nay. Dữ liệu và thuật toán sẽ xác định hướng đi và là thẩm quyền thật sự.

Tất cả những ý tưởng và giá trị này có những hậu quả không lường trước được. Nếu không có thẩm quyền trong các bộ môn nghệ thuật sẽ không có gì để nổi dậy chống lại, không có trào lưu trước đó để lật đổ nó, không có tư duy sâu sắc để tiêu hóa và thậm chí bác bỏ nó sau đó. Chỉ có một thế giới vô định hình của các xu hướng đang nhấp nháy với tốc độ ngày càng tăng. Nếu không có cha mẹ với tư cách những nhân vật có thẩm quyền, chúng ta không thể trải qua giai đoạn quan trọng của sự nổi loạn ở tuổi thiếu niên, trong đó chúng ta bác bỏ những ý tưởng của họ và khám phá bản sắc riêng của chúng ta. Chúng ta lớn lên lạc lối, không ngừng tìm kiếm bản sắc đó bên ngoài bản thân. Nếu không có những thầy cô và những bậc thầy mà chúng ta thừa nhận là vượt trội và đáng được tôn trọng, chúng ta không thể học hỏi từ kinh nghiệm và trí tuệ của họ, thậm chí có thể tìm cách vượt qua họ với những ý tưởng mới và tốt hơn sau này.

Nếu không có các nhà lãnh đạo dành nhiều năng lượng tinh thần để dự kiến các xu hướng và hướng dẫn chúng ta tìm kiếm các giải pháp lâu dài, chúng ta sẽ lạc lối. Và khi tình trạng này trở thành chuẩn mực, bởi và con người chúng ta luôn cần một hình thức thẩm quyền nào đó như một sự hướng dẫn, chúng ta có xu hướng rơi vào một hình thức thẩm quyền giả mạo vốn sinh sôi nảy nở trong những thời kỳ hỗn loạn và không chắc chắn. Đây có thể là một người mạnh mẽ, kẻ mang tới một ảo tưởng về sự lãnh đạo và phương hướng nhưng không có tầm nhìn thực sự về nơi sẽ đến, chỉ là những ý tưởng và hành động phục vụ cho cái tôi của anh ta và nâng cao ý thức kiểm soát của anh ta. Đây có thể là một tay ma mãnh, một nhà lãnh đạo khéo léo bắt chước những gì công chúng muốn nghe, tạo ra ảo tưởng rằng anh ta nhạy cảm với nhóm và đang mang tới cho nó những gì nó muốn. Đây có thể là nhà lãnh đạo dễ gần, kẻ ảnh hưởng đến phong cách và cách cư xử của mọi người khác, đưa ra cái có vẻ như sự công bằng, vui vẻ và đồng thuận cao nhất. Đây cũng có thể là thẩm quyền của nhóm, trở nên mạnh mẽ hơn nhiều trong thời đại truyền thông xã hội: những gì người khác đang nói và làm phải đúng và được tôn trọng, bởi những con số tuyệt đối. Nhưng tất cả các hình thức sai lầm này chỉ dẫn đến nhiều hỗn độn, rối loạn và những quyết định tồi tệ.

Với tư cách một kẻ nghiên cứu về bản chất con người, chúng ta phải nhận ra vô số nguy hiểm từ định kiến của chúng ta đối với các nhân vật có thẩm quyền. Công nhận những người có thẩm quyền trên thế giới không phải là thừa nhận sự thấp kém của chính chúng ta mà là sự chấp nhận bản chất con người và nhu cầu đối với những nhân vật như vậy. Không nên xem những người có thẩm quyền như những kẻ ích kỷ hay chuyên chế - thật ra, đó là những phẩm chất làm giảm sút thẩm quyền của họ. Họ không phải là di tích của quá khứ mà là những người thực hiện một chức năng cần thiết và có phong cách thích nghi với thời đại. Thẩm quyền có thể là một hiện tượng dân chủ nổi bật. Chúng ta phải nhận ra rằng phần lớn những gì ở phía sau những ý tưởng tiến bộ về sự nhất trí, người lãnh đạo cấp thấp nhất, và cha mẹ với tư cách những người bạn, thật sự có một nỗi e sợ lớn lao đối với trách nhiệm, đối với những lựa chọn khó khăn phải được đưa ra, đối với việc trở nên nổi bật và phải gánh chịu sự chỉ trích. Chúng ta phải đi theo hướng ngược lại, chấp nhận những rủi ro và nguy hiểm đi kèm với sự lãnh đạo và thẩm quyền.

Trong thế giới ngày nay, con người chúng ta đã trở nên quan tâm nhiều hơn tới chính mình, khư khư bám lấy chương trình hành động nhỏ hẹp của chúng ta; chúng ta ngày càng bị xâm chiếm bởi hàng loạt thông tin tràn ngập; thậm chí chúng ta còn hay thay đổi nhiều hơn nữa khi nói đến các nhà lãnh đạo. Do vậy, nhu cầu đối với những nhân vật có thẩm quyền thật sự - với một quan điểm được nâng cao, một sự hòa nhập cao độ với nhóm và một cảm giác đối với cái đã thống nhất nó - chưa bao giờ lớn hơn thế. Và chính vì điều đó, chúng ta có nhiệm vụ thiết lập thẩm quyền của mình và đảm nhận vai trò cần thiết đó.

Những chiến lược để thiết lập thẩm quyền

Hãy nhớ rằng bản chất của thẩm quyền là mọi người sẵn sàng làm theo sự dẫn dắt của bạn. Họ chọn tuân theo những lời nói và lời khuyên của bạn. Họ muốn sự khôn ngoan của bạn. Chắc chắn đôi khi bạn có thể phải sử dụng quyền lực, phần thưởng và hình phạt, và những phát biểu truyền cảm hứng. Nó chỉ là vấn đề mức độ. Nhu cầu của bạn đối với các công cụ đó càng ít, thẩm quyền của bạn càng lớn. Và vì vậy, bạn phải nghĩ đến việc tiếp tục phấn đấu để thu hút năng lực ý chí của mọi người và vượt qua sự chống đối và sự lập lờ nước đôi tự nhiên của họ. Các chiến lược sau đây được thiết kế để thực hiện điều đó. Hãy thực hành tất cả các chiến lược này.

Tìm phong cách thẩm quyền của bạn: Tính xác thực

Thẩm quyền bạn thiết lập phải xuất hiện một cách tự nhiên từ tính cách của bạn, từ những sức mạnh cụ thể mà bạn sở hữu. Hãy nghĩ về các nguyên mẫu nhất định của thẩm quyền: một trong số chúng phù hợp với bạn nhất. Một nguyên mẫu đáng chú ý là Vị cứu tinh, như Moses hay Martin Luther King Jr., một cá nhân quyết tâm giải thoát mọi người khỏi cái ác. Vị cứu tinh không thích bất kỳ loại bất công nào, đặc biệt là từ những người ảnh hưởng đến nhóm mà họ đã đồng nhất với. Họ có rất nhiều niềm tin, và thông thường họ giỏi thể hiện niềm tin đó bằng ngôn từ đến độ mọi người đều bị cuốn hút.

Một nguyên mẫu khác sẽ là Kẻ sáng lập. Đây là những người thiết lập một trật tự mới trong chính trị hoặc kinh doanh. Họ thường có một cảm giác nhạy bén về các xu hướng và một ác cảm lớn đối với hiện trạng. Họ là những người độc đáo và có đầu óc độc lập. Niềm vui lớn nhất của họ là sửa đổi và phát minh ra một cái gì đó mới. Nhiều người tập hợp một cách tự nhiên về phía những kẻ sáng lập, vì họ đại diện cho một hình thức tiến bộ nào đó. Liên quan đến nguyên mẫu này sẽ là dạng Nghệ sĩ có viễn tượng, như Pablo Picasso hay nghệ sĩ nhạc jazz John Coltrane hoặc đạo diễn phim David Lynch. Những nghệ sĩ này học các quy ước trong lĩnh vực của họ và sau đó lật ngược chúng lại. Họ khao khát một phong cách mới mẻ và tạo ra nó. Với kỹ năng của mình, họ luôn tìm được khán giả và những người hâm mộ.

Các nguyên mẫu khác có thể bao gồm Kẻ tìm kiếm sự thật (những người không có lòng khoan dung đối với sự dối trá và chính trị); Kẻ thực dụng thầm lặng (họ không muốn gì hơn là sửa chữa những thứ bị hỏng, và có sự kiên nhẫn vô hạn); Kẻ chữa trị (họ có sở trường tìm kiếm những gì sẽ hoàn thành và thống nhất mọi người); Kẻ giáo hóa (họ có cách khiến cho mọi người bắt đầu hành động và học hỏi từ những sai lầm của mình). Bạn phải đồng nhất với một trong những nguyên mẫu này, hoặc bất kỳ loại nào khác đáng chú ý trong nền văn hóa.

Bằng cách thể hiện một phong cách tự nhiên đối với bạn, bạn tạo ấn tượng rằng đó là một thứ gì đó vượt khỏi bạn, như thể ý thức về công lý hoặc sự nhạy bén đối với các xu hướng đến từ ADN của bạn hoặc là một quà tặng của thần linh. Bạn không thể nào không chiến đấu cho chính nghĩa của bạn hoặc tạo ra một trật tự mới. Nếu không có sự tự nhiên này, có vẻ như nỗ lực của bạn đối với thẩm quyền có tính chất quá cơ hội và thủ đoạn, và sự ủng hộ của bạn đối với một chính nghĩa hoặc xu hướng nào đó chỉ đơn thuần là một mưu đồ để nắm được quyền lực. Bạn càng sớm nhận ra phong cách này càng tốt; bạn sẽ có nhiều thời gian hơn để trau dồi nó, thích nghi với những thay đổi trong bản thân và trong nền văn hóa, đưa ra những khía cạnh mới để gây ấn tượng và mê hoặc mọi người. Và sau khi đã để lại những dấu hiệu của phong cách này ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp, càng có vẻ như đó là một sức mạnh cao hơn mà bạn không thể không đi theo.

Hướng tiêu điểm ra bên ngoài: Thái độ

Do bản chất tự nhiên, con người chúng ta quan tâm nhiều hơn tới chính mình và dành phần lớn thời gian tập trung vào những cảm xúc, những vết thương, những tưởng tượng của chúng ta. Bạn muốn phát triển thói quen càng trái ngược với điều này càng tốt. Bạn thực hiện điều này theo ba cách.

Đầu tiên, bạn trau dồi kỹ năng lắng nghe, tập trung cao độ vào những lời lẽ và gợi ý phi ngôn từ của người khác. Bạn tự rèn luyện để nắm bắt được ẩn ý của những gì mọi người đang nói. Bạn hòa mình vào những tâm trạng và nhu cầu của họ, và cảm nhận những gì họ đang thiếu. Đừng xem những nụ cười và vẻ mặt tán thành của mọi người là thực tế, thay vì thế nên cảm nhận được sự căng thẳng hoặc sự thích thú nằm bên dưới.

Thứ hai, bạn cống hiến hết mình để giành được sự tôn trọng của mọi người. Bạn đừng cho rằng mình có đặc quyền đối với điều này; tiêu điểm của bạn không phải là hướng tới những cảm xúc của bạn và những gì mọi người nợ bạn vì vị trí và sự vĩ đại của bạn (một sự quay trở vào bên trong). Bạn giành được sự tôn trọng của họ bằng cách tôn trọng các nhu cầu cá nhân của họ và bằng cách chứng minh rằng bạn đang làm việc vì lợi ích lớn hơn.

Thứ ba, bạn coi việc trở thành một nhà lãnh đạo là một trách nhiệm to lớn, sự thịnh vượng của nhóm tùy thuộc vào từng quyết định của bạn. Cái thúc đẩy bạn không phải là mang tới sự chú ý mà là mang tới những kết quả tốt nhất có thể có cho hầu hết mọi người. Bạn nên đắm mình vào công việc chứ không phải vào cái tôi của bạn. Bạn cảm thấy một kết nối sâu sắc và có tính chất bản năng với nhóm, thấy rằng số phận của bạn và của họ đan xen chặt chẽ với nhau.

Nếu bạn thể hiện thái độ này, mọi người sẽ cảm thấy nó, và họ sẽ sẵn sàng đón nhận ảnh hưởng của bạn. Họ sẽ bị kéo về phía bạn bởi thực tế đơn giản là hiếm khi bắt gặp một cá nhân rất nhạy cảm với những tâm trạng của mọi người và cực kỳ tập trung vào các kết quả. Điều này sẽ khiến bạn nổi bật giữa đám đông, và cuối cùng bạn sẽ thu hút được nhiều sự chú ý hơn theo cách này so với cách thể hiện nhu cầu cao độ của bạn đối với việc được ưa thích và trở nên nổi tiếng.

Vun bồi con mắt thứ ba: Viễn tượng

Vào năm 401 TCN, 10.000 lính đánh thuê Hy Lạp, chiến đấu nhân danh Hoàng tử Ba Tư Darius trong nỗ lực chiếm lấy đế chế từ tay nhà vua, anh trai của ông, đột nhiên thấy mình ở phía bại trận, và hiện bị mắc kẹt ngay giữa trung tâm của Ba Tư. Khi những người Ba Tư chiến thắng lừa các chỉ huy của lính đánh thuê đến dự một cuộc họp để thảo luận về số phận của họ rồi sau đó xử tử tất cả, những người lính còn sống sót thấy rõ rằng họ sẽ bị xử tử hoặc bị bán làm nô lệ vào ngày hôm sau. Đêm đó, họ đi lang thang trong doanh trại, khóc than cho số phận của mình.

Trong số đó có nhà văn Xenophon, đã đi cùng với những người lính với tư cách một sử gia lưu động. Xenophon đã nghiên cứu triết học khi còn là môn sinh của Socrates. Ông tin vào sự tối cao của suy nghĩ sáng suốt, của việc nhìn thấy bức tranh toàn cảnh, ý tưởng chung ở phía sau những sự xuất hiện thoáng qua của cuộc sống hằng ngày. Ông đã thực hành những kỹ năng tư duy này trong suốt nhiều năm.

Đêm đó ông có một viễn tượng về cách người Hy Lạp có thể thoát khỏi cái bẫy của họ và trở về nhà. Ông thấy họ di chuyển nhanh chóng và lén lút qua Ba Tư, hy sinh mọi thứ vì tốc độ. Ông thấy họ lên đường ngay lập tức, sử dụng yếu tố bất ngờ để chinh phục được khoảng cách. Ông đã suy nghĩ đón đầu - về địa hình, lộ trình phải đi, nhiều kẻ thù họ sẽ phải đối mặt, cách để họ có thể giúp đỡ và sử dụng những công dân vốn đã nổi dậy chống lại người Ba Tư. Ông thấy họ từ bỏ những cỗ xe ngựa, tự túc lương thực và di chuyển nhanh chóng, ngay cả trong mùa đông. Trong khoảng vài giờ, ông hình dung ra mọi chi tiết của cuộc rút lui, tất cả đều được khơi gợi từ cái nhìn toàn diện của ông về lộ trình rút ngắn và vòng vèo của họ đến Địa Trung Hải để về quê nhà.

Dù không có kinh nghiệm quân sự, viễn tượng của ông rất toàn diện, và ông đã truyền đạt nó với sự tự tin đến độ những người lính đã đề cử ông làm chỉ huy thực tế của họ. Phải mất nhiều năm, bao gồm nhiều thách thức liên tiếp, và mỗi lần như thế Xenophon lại áp dụng viễn tượng tổng thể của mình để xác định chiến lược, nhưng cuối cùng ông đã chứng minh sức mạnh của tư duy sáng suốt đó bằng cách đưa họ đến nơi an toàn bất chấp mọi khó khăn chống lại họ.

Câu chuyện này thể hiện bản chất của mọi thẩm quyền và yếu tố cơ bản nhất trong việc thiết lập nó. Hầu hết mọi người đều bị khóa chặt vào thời điểm. Họ có xu hướng phản ứng thái quá và hoảng loạn, chỉ nhìn thấy một phần hẹp của thực tế mà nhóm phải đối mặt. Họ không thể cân nhắc những ý tưởng thay thế hoặc ưu tiên. Những người duy trì sự hiện diện của tâm trí và nâng cao tầm nhìn lên trên thời điểm khai thác sẽ có khả năng nhìn xa trông rộng và vun bồi con mắt thứ ba đó cho các lực lượng và xu hướng vô hình. Họ nổi bật trong nhóm, hoàn thành chức năng lãnh đạo thực sự và tạo ra vầng hào quang của thẩm quyền bằng cách tỏ ra đang sở hữu khả năng giống như thần thánh trong việc dự đoán tương lai. Và đây là một khả năng có thể được thực hành, phát triển và áp dụng cho mọi tình huống.

Bạn nên tự rèn luyện càng sớm càng tốt khả năng tách biệt ra khỏi những cảm xúc đang len lỏi trong nhóm. Bạn tự buộc mình phải nâng cao tầm nhìn, hình dung ra bức tranh lớn hơn. Bạn cố gắng nhìn thấy chính bản thân các sự kiện, không bị tác động bởi những quan điểm mang tính chất bè phái của mọi người. Bạn xem xét quan điểm của kẻ thù; bạn lắng nghe ý kiến của những người ngoài; bạn mở rộng tâm trí hướng tới những khả năng khác nhau. Đằng cách này, bạn có được cảm giác về cơ cấu, hoặc hình dạng tổng thể của tình huống. Bạn tìm ra các xu hướng khả dĩ, cách thức sự việc có thể diễn ra trong tương lai và đặc biệt là cách thức sự việc phát triển chệch hướng. Bạn có sự kiên nhẫn vô hạn cho bài tập này. Càng đi sâu vào nó, bạn càng có cơ may thủ đắc khả năng nhận thức được tương lai dưới một hình thức nào đó.

Những người phải đối mặt với Napoléon Bonaparte trên chiến trường thường có ấn tượng rằng ông đọc được suy nghĩ của họ và biết các kế hoạch của họ, nhưng ông chỉ suy nghĩ kỹ càng về các diễn tiến vị lai hơn so với đối phương. Nhà tư tưởng và nhà văn vĩ đại người Đức Johann Wolfgang von Goethe có vẻ như có khả năng khác thường trong việc dự đoán các xu hướng trong tương lai, nhưng thật ra nó xuất phát từ nhiều năm nghiên cứu và tư duy toàn diện.

Một khi đã có viễn tượng, bạn sẽ từ từ suy nghĩ ngược về hiện tại, tạo ra một cách thức hợp lý và linh hoạt để đạt được mục tiêu của mình. Càng suy nghĩ nhiều về quá trình này, bạn sẽ càng cảm thấy tự tin hơn về kế hoạch của mình và sự tự tin này sẽ lây lan và thuyết phục những người khác. Nếu mọi người nghi ngờ viễn tượng của bạn, nội tâm của bạn vẫn vững vàng. Thời gian sẽ chứng minh bạn đúng. Nếu bạn không đạt được mục tiêu của mình, hãy coi đây là một dấu hiệu với suy nghĩ chưa tới của mình.

Chỉ huy từ phía trước: Tinh thần chung của nhóm

Với tư cách lãnh đạo, sự làm việc chăm chỉ hoặc thậm chí chăm chỉ hơn những người khác của bạn phải được nhìn nhận. Bạn tự đặt cho bản thân tiêu chuẩn cao nhất. Bạn kiên định và có trách nhiệm. Nếu cần phải có những hy sinh, bạn là người đầu tiên thực hiện chúng vì lợi ích của nhóm. Điều này tạo nên tinh thần chung đúng đắn. Các thành viên sẽ cảm thấy bắt buộc phải tự nâng bản thân lên ngang tầm của bạn và đạt được sự chấp thuận của bạn, giống như các bộ trưởng của Elizabeth I. Họ sẽ đồng nhất với các giá trị của bạn và bắt chước bạn một cách tinh tế. Bạn không cần phải la hét và giảng giải cho họ để họ làm việc chăm chỉ hơn. Họ sẽ tự muốn làm điều đó.

Điều quan trọng là bạn phải thiết lập tinh thần chung này ngay từ đầu. Ấn tượng đầu tiên rất quan trọng. Nếu sau đó bạn mới cố gắng giơ cái mặt ra cho thấy bạn muốn chỉ huy, điều này trông có vẻ gượng ép và thiếu uy tín. Quan trọng không kém là việc thể hiện một sự cứng rắn ngay từ đầu. Nếu mọi người sớm có ấn tượng về việc họ có thể điều khiển bạn, họ sẽ làm điều đó một cách không thương tiếc. Bạn phải đặt ra những giới hạn công bằng. Nếu các thành viên không tự nâng bản thân lên cấp độ cao mà bạn đã duy trì, hãy trừng phạt họ. Giọng điệu của bạn khi nói hoặc viết phải dứt khoát và táo bạo. Mọi người luôn tôn trọng sức mạnh ở người lãnh đạo, miễn là điều đó không làm dấy lên nỗi sợ hãi về sự lạm quyền. Nếu sự cứng rắn như vậy không phải là tự nhiên đối với bạn, hãy phát triển nó, nếu không thì bạn sẽ không tồn tại được lâu ở vị trí này. Bạn sẽ luôn có nhiều thời gian để bộc lộ khía cạnh nhẹ nhàng, tử tế hơn vốn thực sự là bản chất của bạn; nhưng tỏ ra mềm mỏng ngay từ đầu lại là một dấu hiệu cho thấy bạn là một người dễ bị xỏ mũi.

Hãy sớm bắt đầu điều này trong sự nghiệp của bạn bằng cách phát triển các tiêu chuẩn cao nhất có thể có cho công việc của riêng bạn (xem phần tiếp theo để biết thêm chi tiết) và bằng cách rèn luyện bản thân để luôn nhận biết cung cách cư xử và giọng điệu của bạn ảnh hưởng đến mọi người theo những cách thức tinh tế nhất ra sao.

Khuấy động những cảm xúc xung đột: Vầng hào quang

Hầu hết mọi người đều quá dễ đoán. Để hòa nhập tốt trong các tình huống xã hội, họ khoác lên vẻ ngoài của mình một tính cách nhất quán - vui vẻ, dễ chịu, táo bạo, nhạy cảm. Họ cố gắng che giấu những phẩm chất khác mà họ sợ thể hiện. Là người lãnh đạo, bạn muốn trở nên bí ẩn hơn, để thiết lập một sự hiện diện cuốn hút mọi người. Bằng cách gửi các tín hiệu hỗn hợp, bằng cách thể hiện những phẩm chất hơi trái ngược nhau, bạn khiến cho mọi người phải tạm dừng lại trong các phân loại tức thời của họ và suy nghĩ về việc bạn thực sự là ai. Họ càng nghĩ nhiều về bạn, sự hiện diện của bạn càng lớn và có thẩm quyền.

Vì thế, giả dụ như bạn nói chung là tốt bụng và nhạy cảm, nhưng bạn thể hiện một dòng chảy bên dưới của sự khắc nghiệt, không khoan dung đối với một số loại hành vi. Đây là tư thế của cha mẹ, những người thể hiện tình yêu của họ trong khi chính họ lại chỉ ra các giới hạn và ranh giới. Đứa trẻ bị mắc kẹt giữa tình cảm và cảm giác sợ hãi, và sự tôn trọng đến từ cảm giác căng thẳng đó. Nói chung, hãy cố gắng giữ cho những cơn giận dữ hoặc những lời buộc tội của bạn càng ít thường xuyên càng tốt. Do đa phần bạn luôn im lặng và đồng cảm, nên khi cơn giận của bạn bùng phát, nó thực sự nổi bật và có sức mạnh khiến cho mọi người thực sự bị đe dọa và hối hận.

Bạn có thể kết hợp sự thận trọng với sự táo bạo tiềm ẩn mà thỉnh thoảng bạn mới thể hiện. Bạn cân nhắc rất lâu về các vấn đề, nhưng một khi quyết định được đưa ra, bạn hành động với đầy nhiệt tình và táo bạo. Sự táo bạo đó như từ trên trời rơi xuống và tạo ấn tượng mạnh mẽ. Hoặc bạn có thể pha trộn tinh thần với một chủ nghĩa thực dụng thế tục. Đó là những phẩm chất nghịch lý của Martin Luther King Jr., nó khiến mọi người mê mẩn. Hoặc bạn có thể vừa bình dân vừa vương giả, như nữ hoàng Elizabeth I. Hoặc bạn có thể pha trộn giữa nam tính và nữ tính (Xem lại chương 12).

Liên quan đến điều này, bạn phải học cách cân bằng giữa sự hiện diện và vắng mặt. Nếu bạn có mặt quá nhiều và quen thuộc, luôn có sẵn tại đó trong tầm mắt, bạn có vẻ quá tầm thường. Bạn không cho mọi người chỗ trống nào để lý tưởng hóa bạn. Nhưng nếu bạn quá xa cách, mọi người không thể đồng cảm với bạn. Nói chung, tốt nhất là nghiêng một chút theo hướng vắng mặt, để khi bạn xuất hiện trước nhóm, bạn tạo ra sự phấn khích và kịch tính. Nếu được thực hiện đúng, trong những thời điểm khi bạn không có mặt, mọi người sẽ nghĩ về bạn. Ngày nay mọi người đã đánh mất nghệ thuật này. Họ hiện diện quá nhiều và trở nên quen thuộc, mọi động thái của họ đều được phơi bày trên phương tiện truyền thông xã hội. Điều đó có thể khiến bạn trở nên dễ gần, nhưng nó cũng khiến bạn có vẻ giống như mọi người khác, và không thể nào phóng chiếu thẩm quyền với sự hiện diện bình thường như vậy.

Hãy ghi nhớ rằng nói quá nhiều là một kiểu hiện diện quá mức, khiến kẻ khác khó chịu và bộc lộ điểm yếu. Im lặng là một hình thức vắng mặt và rút lui vốn thu hút sự chú ý; nó cho thấy sự tự chủ và sức mạnh; và khi bạn nói, nó có một hiệu quả lớn hơn. Theo cách tương tự, nếu bạn phạm một sai lầm, đừng giải thích quá nhiều và xin lỗi quá nhiều. Bạn làm rõ rằng bạn chấp nhận trách nhiệm và có trách nhiệm lý giải cho bất kỳ thất bại nào, và sau đó bạn tiếp tục. Sự hối lỗi của bạn nên tương đối lặng lẽ; hành động tiếp theo của bạn sẽ cho thấy bạn đã học được bài học. Tránh tỏ ra phòng thủ và cáu kỉnh nếu bị tấn công. Bạn phải thoát ra khỏi điều đó.

Hãy phát triển vầng hào quang này từ sớm, như một cách để mê hoặc mọi người. Đừng thể hiện một sự pha trộn quá mạnh mẽ, không thì trông bạn sẽ có vẻ điên rồ. Đó là một dòng chảy ngầm khiến mọi người tự hỏi theo một chiều hướng tốt đẹp. Vấn đề ở đây không phải là giả vờ khoát lên những tố chất mình không có, mà là thể hiện sự tinh vi tự nhiên của mình.

Không bao giờ lấy, luôn luôn cho: điều cấm kỵ

Việc lấy thứ gì đó từ những người mà họ cho rằng họ sở hữu nó - tiền, những quyền lợi hoặc đặc quyền, thời gian vốn là của chính họ - tạo nên một sự bất an cơ bản và sẽ dẫn tới việc đặt câu hỏi về thẩm quyền của bạn và tất cả uy tín bạn đã tích lũy. Bạn làm cho các thành viên của nhóm cảm thấy không chắc chắn về tương lai theo một cung cách bản năng nhất. Bạn làm dấy lên sự hồ nghi về tính hợp pháp của bạn với tư cách là một nhà lãnh đạo: “Bạn sẽ lấy thêm bao nhiêu nữa? Phải chăng bạn đang lạm dụng quyền lực của mình? Phải chăng bạn đang đánh lừa tất cả chúng tôi?” Ngay cả gợi ý về điều này cũng đủ làm tổn hại đến danh tiếng của bạn. Nếu hy sinh là cần thiết, bạn là người đầu tiên làm điều đó, và đó không chỉ đơn giản là tượng trưng. Cố gắng xác định bất kỳ sự mất mát tài nguyên hoặc đặc quyền nào là tạm thời và làm rõ rằng bạn sẽ nhanh chóng khôi phục chúng như thế nào. Hãy đi theo con đường của nữ hoàng Elizabeth I và biến việc tiết kiệm các nguồn tài nguyên thành mối quan tâm hàng đầu của bạn, để bạn không bao giờ kết thúc ở vị trí này. Việc thực hiện điều này giúp bạn có thể đủ khả năng để tỏ ra hào phóng.

Liên quan đến điều này, bạn phải tránh cung cấp quá nhiều cho mọi người. Vào thời khắc nghe thấy những điều tuyệt vời mà bạn sẽ thực hiện vì họ, họ có thể cảm thấy phấn khởi, nhưng nhìn chung mọi người có một trí nhớ chính xác đối với những lời hứa và nếu bạn không thực hiện được, điều này sẽ in sâu vào tâm trí họ, ngay cả khi bạn cố gắng đổ lỗi cho người khác hoặc hoàn cảnh. Nếu điều này xảy ra lần thứ hai, thẩm quyền của bạn bắt đầu bị xói mòn mạnh mẽ. Việc không mang tới cho họ những gì bạn đã hứa hẹn sẽ mang tới cảm giác như thể bạn đã lấy đi một thứ gì đó của họ. Mọi người có thể nói một tấc đến trời và hứa hẹn, vì vậy trông có vẻ như bạn cũng giống như bất kỳ ai khác chúng ta tình cờ gặp gỡ, và sự thất vọng có thể sâu sắc.

Trẻ hóa thẩm quyền của bạn: Khả năng thích ứng

Thẩm quyền của bạn sẽ phát triển với mỗi hành động khơi gợi sự tin tưởng và tôn trọng. Nó mang đến cho bạn khả năng duy trì quyền lực đủ lâu để hiện thực hóa các dự án lớn. Nhưng khi bạn lớn tuổi hơn, thẩm quyền bạn đã thiết lập có thể trở nên cứng nhắc và ù lì. Bạn trở thành nhân vật người cha, kẻ bắt đầu trông có vẻ áp bức do đã độc chiếm quyền lực quá lâu, bất kể mọi người ngưỡng mộ bạn sâu sắc như thế nào trong quá khứ. Chắc chắn một thế hệ mới sẽ xuất hiện và miễn nhiễm với sự quyến rũ của bạn, với hào quang bạn đã tạo ra. Họ xem bạn như một di tích. Khi lớn tuổi hơn, bạn cũng có xu hướng trở nên chuyên chế và ít khoan dung, vì bạn không thể không mong đợi mọi người đi theo bạn. Không hề ý thức về điều này, bạn bắt đầu có cảm giác đặc quyền, và mọi người cảm nhận được điều này. Ngoài ra, công chúng luôn muốn có những gương mặt tươi trẻ và mới mẻ.

Bước đầu tiên để tránh nguy cơ này là duy trì sự nhạy cảm mà Elizabeth I đã thể hiện suốt đời mình, lưu ý đến những tâm trạng ở phía sau lời lẽ của mọi người, đo lường ảnh hưởng của bạn đối với những người mới tới và những người trẻ tuổi. Việc đánh mất sự đồng cảm đó sẽ là nỗi sợ lớn nhất của bạn, vì bạn sẽ bắt đầu tự nhốt mình trong cái kén danh vọng lẫy lừng của bạn.

Bước thứ hai là tìm kiếm những thị trường và khán giả mới để thu hút, điều này sẽ buộc bạn phải thích nghi. Nếu có thể, mở rộng phạm vi quyền hạn của bạn. Đừng tự đánh lừa chính mình bằng cách cố gắng thu hút đám đông trẻ hơn mà bạn không thể thực sự hiểu, hãy cố gắng thay đổi đôi chút phong cách của bạn cho khác với những năm tháng đã qua. Trong nghệ thuật, đây là bí quyết thành công của những người như Pablo Picasso, Alfred Hitchcock hay Coco Chanel. Sự linh hoạt này ở những người trong độ tuổi 50 và cao hơn sẽ mang tới cho bạn một cảm giác về sự linh thiêng và bất tử - tinh thần của bạn vẫn đang sống động và mở rộng, và thẩm quyền của bạn được làm mới lại.

Thẩm quyền nội tại

Tất cả chúng ta đều có một bản ngã cao hơn và một bản ngã thấp hơn. Đôi lúc nào đó trong đời, chúng ta không thể tránh khỏi việc cảm thấy phần này hay phần kia mạnh mẽ hơn. Khi chúng ta hoàn thành mọi thứ, khi chúng ta kết thúc được những gì chúng ta đã bắt đầu, chúng ta có thể cảm nhận được những đường nét của bản ngã cao hơn này. Chúng ta cũng cảm thấy như vậy khi chúng ta nghĩ về người khác trước khi nghĩ về chính mình, khi chúng ta buông bỏ cái tôi của mình, khi thay vì chỉ đơn giản phản ứng với các sự kiện, chúng ta lùi lại, suy nghĩ và lên chiến lược để tiến tới theo cách tốt nhất. Tương tự, chúng ta biết rất rõ sự khuấy động của bản ngã thấp hơn, khi chúng ta cá nhân hóa mọi thứ và trở nên nhỏ mọn, hoặc khi chúng ta muốn thoát khỏi thực tại thông qua một niềm vui có tính chất nghiện ngập, hoặc khi chúng ta lãng phí thời gian, hoặc khi chúng ta cảm thấy bối rối và thiếu động lực.

Dù chúng ta thường trôi nổi qua lại giữa hai phương diện này, nếu nhìn kỹ vào bản thân, chúng ta phải thừa nhận rằng phân nửa thấp hơn chính là phần mạnh mẽ hơn. Nó là phần động vật và nguyên thủy hơn trong bản chất của chúng ta. Nếu không có gì thúc đẩy chúng ta làm khác đi, chúng ta tự nhiên trở nên biếng nhác, khao khát những lạc thú chóng qua, hướng nội và nghiền ngẫm những vấn đề nhỏ nhặt. Thông thường phải mất nhiều nỗ lực và nhận thức để chế ngự phân nửa thấp hơn này và thể hiện phương diện cao hơn, vì nó không phải là thôi thúc đầu tiên của chúng ta.

Giải pháp để làm cho cuộc đấu tranh giữa hai phương diện trở nên đồng đều hơn và có lẽ cũng để hướng đầu cán cân về phía bản ngã cao hơn là trau dồi cái chúng ta sẽ gọi là thẩm quyền nội tại. Nó phục vụ như tiếng nói, lương tâm của bản ngã cao hơn của chúng ta. Tiếng nói này đã có sẵn ở đó rồi; đôi khi chúng ta nghe thấy nó, nhưng nó rất yếu ớt. Chúng ta cần gia tăng tần số và âm lượng của nó. Hãy nghĩ về tiếng nói này như nó đang tuyên bố một quy tắc ứng xử, và mỗi ngày chúng ta phải tự buộc mình lắng nghe nó. Nó cho chúng ta biết những điều sau đây.

Bạn có trách nhiệm đóng góp cho nền văn hóa và thời đại mà bạn đang sống. Ngay lúc này, bạn đang sống nhờ thành quả của hàng triệu người trong quá khứ, những người đã làm cho cuộc sống của bạn dễ dàng hơn rất nhiều thông qua các cuộc đấu tranh và những phát minh của họ. Bạn đã được hưởng lợi từ một nền giáo dục vốn là hiện thân của minh triết của hàng ngàn năm kinh nghiệm. Bạn rất dễ xem tất cả những điều này là lẽ đương nhiên, tưởng tượng rằng tất cả chỉ diễn ra một cách tự nhiên và đặc quyền của bạn là có tất cả những quyền năng này. Đó là quan điểm của những đứa trẻ được cưng chiều, và bạn phải thấy rằng bất kỳ dấu hiệu nào của một thái độ như vậy bên trong bạn là đáng xấu hổ. Thế giới này cần được cải tiến và đổi mới liên tục. Bạn hiện diện ở đây không chỉ đơn thuần để thỏa mãn những thôi thúc của bạn và tiêu thụ những gì người khác tạo ra mà còn để tạo tác và đóng góp, để phục vụ một mục đích cao hơn.

Để phục vụ mục đích cao hơn này, bạn phải trau dồi những gì độc đáo ở bạn. Ngừng lắng nghe quá nhiều những lời lẽ và ý kiến của người khác, vốn đang nói cho bạn biết bạn là ai và bạn nên thích và không thích điều gì. Hãy tự mình đánh giá mọi thứ và mọi người. Tự hỏi bạn đang nghĩ gì và vì sao bạn cảm nhận được một cách thức nhất định. Biết tường tận về chính mình - những thị hiếu và khuynh hướng bẩm sinh của bạn, những lĩnh vực thu hút bạn một cách tự nhiên. Làm việc hằng ngày để cải thiện những kỹ năng phù hợp với tinh thần và mục đích độc đáo của bạn. Bổ sung cho sự đa dạng cần thiết của nền văn hóa bằng cách tạo ra một cái gì đó phản ánh sự độc đáo của bạn. Ôm ghì lấy những gì làm cho bạn khác biệt. Việc không đi theo tiến trình này chính là lý do thực sự vì sao đôi khi bạn cảm thấy chán nản. Những khoảnh khắc trầm cảm là một lời kêu gọi bạn hãy lắng nghe lại thẩm quyền nội tại của bạn.

Trong một thế giới đầy những thứ làm cho ta phân tâm, bạn phải tập trung và dành ưu tiên. Một số hoạt động nhất định chỉ gây lãng phí thời gian. Một số người nhất định có bản chất thấp kém sẽ kéo bạn xuống, và bạn phải tránh họ. Hãy bám sát các mục tiêu dài hạn và ngắn hạn của bạn, đồng thời tiếp tục tập trung và cảnh giác. Cho phép bản thân hào phóng khám phá và lan man một cách sáng tạo, nhưng luôn luôn có một mục đích nằm bên dưới.

Bạn phải tuân thủ các tiêu chuẩn cao nhất trong công việc của bạn. Bạn phấn đấu để trở nên xuất sắc, để tạo ra một thứ gì đó vốn sẽ vang vọng trong công chúng và tồn tại lâu dài. Không thực hiện được điều này là làm cho mọi người thất vọng và phụ lòng khán giả của bạn, và điều đó khiến bạn cảm thấy xấu hổ. Để duy trì các tiêu chuẩn đó, bạn phải phát triển tính tự giác và thói quen làm việc đúng đắn. Bạn phải rất chú ý đến các chi tiết trong công việc của mình và đặt một giá trị hàng đầu cho sự nỗ lực. Ý nghĩ hoặc ý tưởng đầu tiên đến với bạn thường không đầy đủ và không thỏa đáng. Suy nghĩ kỹ hơn và sâu sắc hơn về những ý tưởng của bạn, trong đó có một số bạn phải loại bỏ. Đừng trở nên gắn bó với những ý tưởng ban đầu của bạn, tốt hơn nên đối xử với chúng một cách cứng rắn. Hãy nhớ rằng cuộc sống của bạn khá ngắn ngủi, rằng nó có thể kết thúc vào bất cứ ngày nào. Bạn phải có ý thức cấp bách để tận dụng tối đa thời gian giới hạn này. Bạn không cần tới những hạn chót hay cần được mọi người cho biết bạn phải làm gì và khi nào hoàn thành. Bất kỳ động lực nào bạn cần đến đều xuất phát từ bên trong. Bạn là một cá nhân trọn vẹn và độc lập.

Khi hành động với thẩm quyền nội tại này, chúng ta có thể coi Leonardo da Vinci là mô hình của chúng ta. Phương châm sống của ông là ostinato rigote, “sự nghiêm ngặt thường xuyên”. Mỗi khi Leonardo nhận được một đơn đặt hàng, ông vượt ra bên ngoài công việc đó, miệt mài chú tâm vào từng chi tiết để làm cho tác phẩm trở nên sống động hoặc hiệu quả hơn. Ông luôn làm việc như vậy, không cần ai phải yêu cầu. Ông cần cù một cách tàn bạo và rất nghiêm khắc với bản thân. Dù những mối quan tâm của ông dàn trải trên một phạm vi rất rộng và xa, khi ông bắt tay vào một vấn đề cụ thể, thì lúc ấy ông lại tập trung toàn diện. Ông có một ý thức về một sứ mệnh cá nhân - phụng sự nhân loại, đóng góp cho sự tiến bộ của nó. Bị thúc đẩy bởi thẩm quyền bên trong này, ông vượt ra khỏi mọi giới hạn mà ông đã thừa hưởng - một đứa con ngoại hôn với rất ít định hướng hay sự giáo dục đầu đời. Tương tự, một tiếng nói như thế sẽ giúp chúng ta vượt qua những trở ngại mà cuộc sống đặt ra trên con đường của chúng ta.

Thoạt nhìn, có vẻ như có một tiếng nói như vậy từ bên trong có thể dẫn đến một cuộc sống khá khắc nghiệt và khó chịu, nhưng trên thực tế thì ngược lại. Không có gì gây mất phương hướng và chán nản hơn là nhìn những năm tháng trôi qua mà không có một ý thức nào về phương hướng để nắm bắt nhằm đạt được những mục tiêu liên tục thay đổi, và lãng phí năng lượng trẻ trung của chúng ta. Giống như thẩm quyền bên ngoài giúp giữ cho nhóm thống nhất, với năng lượng của nó hướng đến những kết quả có lợi hơn và cao hơn, thẩm quyền bên trong mang đến cho bạn một ý thức về sự gắn kết và sức mạnh. Bạn sẽ không bị gặm nhấm bởi sự lo lắng vốn xuất phát từ việc sống dưới mức tiềm năng của mình.

Khi cảm nhận được uy thế của bản ngã cao hơn, bạn có thể đủ khả năng để nuông chiều bản ngã thấp hơn, thỉnh thoảng cho phép nó bung ra để giải tỏa sự căng thẳng và không trở thành tù nhân của Bóng tối của bạn. Và quan trọng nhất, bạn không còn cần tới sự an ủi và hướng dẫn của cha mẹ hoặc lãnh đạo nữa. Bạn đã trở thành mẹ và cha của chính bạn, lãnh đạo của chính bạn, thực sự độc lập và hành động theo thẩm quyền bên trong của bạn.

Kẻ chọn lựa, kẻ xuất chúng bị thôi thúc, bởi sự cần thiết nội tại, để tự đòi hỏi một tiêu chuẩn nào đó ở bên ngoài bản thân y, vượt trội hơn bản thân y, và thoải mái chấp nhận việc phụng sự cho tiêu chuẩn đó… Chúng ta phân biệt kẻ xuất chúng với kẻ bình thường bằng cách nói rằng kẻ xuất chúng là người đòi hỏi rất nhiều ở chính bản thân y, còn kẻ bình thường không hề đòi hỏi gì ở chính bản thân y, mà tự hài lòng với con người hiện hữu của mình. Trái với những gì người ta thường nghĩ, chính con người xuất chúng… là kẻ sống trong tình trạng nô dịch cơ bản. Cuộc sống không có hương vị gì đối với y trừ khi y làm cho nó phục vụ cho một thứ gì đó siêu việt. Vì lẽ đó, y không xem sự cần thiết phải phục vụ như một sự áp bức. Khi, tình cờ, thiếu một sự cần thiết như vậy, y trở nên bồn chồn và phát minh ra một tiêu chuẩn mới nào đó, khó khăn hơn, cấp thiết hơn, để tự ép buộc bản thân. Đây là cuộc đời được sống như một kỷ luật - một cuộc đời cao quý.

- José Ortega y Gasset

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3