Những quy luật của bản chất con người - Chương 01

1

Làm chủ cái tôi cảm xúc

Quy luật của sự thiếu sáng suốt

Bạn thích tưởng tượng rằng bạn kiểm soát được số phận bản thân, trù hoạch một cách có ý thức con đường đời của mình tốt nhất trong phạm vi khả dĩ. Nhưng bạn hầu như không nhận ra những cảm xúc của bạn chi phối bạn sâu sắc tới mức nào. Chúng khiến cho bạn xoay về phía những ý tưởng vuốt ve cái tôi của bạn. Chúng khiến cho bạn nhìn thấy những gì bạn muốn thấy, tùy vào tâm trạng của bạn; và sự tách rời khỏi thực tại này là nguồn cội của những quyết định tệ hại và những khuôn mẫu tiêu cực ám ảnh cuộc đời của bạn. Sự sáng suốt là khả năng hóa giải những hiệu quả cảm xúc này, để tư duy thay vì phản ứng, để mở rộng tâm trí bạn tới điều đang thật sự diễn ra, trái ngược hẳn với điều bạn đang cảm thấy. Nó không đến một cách tự nhiên; nó là một năng lực mà chúng ta phải vun trồng nuôi dưỡng, nhưng khi thực hiện điều này chúng ta nhận ra tiềm năng lớn nhất của mình.

Đấu trường nội tâm

Một ngày cuối năm 432 TCN, công dân thành Athens nhận được một tin tức rất đáng lo: Những đại biểu từ thành bang Sparta đã tới thành phố và đệ trình lên hội đồng điều hành Athens những điều khoản hòa bình mới. Nếu Athens không đồng ý những điều khoản này, Sparta sẽ tuyên chiến. Sparta là kẻ thù không đội trời chung của Athens và trên nhiều phương diện là cực đối lập của nó. Athens đứng đầu một liên minh các bang dân chủ trong khu vực, trong khi Sparta đứng đầu một liên minh các chế độ chính trị đầu sỏ, được biết với tên gọi Các thành bang vùng bán đảo Peloponnese. Athens dựa vào lực lượng hải quân và sự giàu có - nó là thế lực thương mại hàng đầu ở khu vực Địa Trung Hải. Còn Sparta dựa vào quân đội. Nó là một thành bang hoàn toàn quân sự hóa. Cho tới lúc đó, hai thế lực này đã cố tránh né một cuộc chiến tranh trực tiếp vì hậu quả có thể rất tàn khốc - bên bại trận không chỉ đánh mất tầm ảnh hưởng của mình trong khu vực, mà toàn bộ lối sống của nó có thể lâm nguy - tất nhiên với Athens, đó là nền dân chủ và sự giàu có. Tuy nhiên, lúc này dường như chiến tranh là điều không thể tránh khỏi và một cảm giác về nguy cơ đe dọa nhanh chóng bao trùm toàn thành phố.

Vài hôm sau, Hội nghị toàn bang Athens được tổ chức trên đồi Pnyx nhìn xuống vệ thành Acropolis để thảo luận về tối hậu thư của Sparta và quyết định điều cần thực hiện. Hội nghị được mở rộng cho toàn thể nam công dân, và hôm đó gần mười ngàn người đã tụ tập trên đồi để tham dự cuộc thảo luận. Những kẻ hiếu chiến trong số này đang trong một tâm trạng rất lo âu - Athens nên nắm lấy thế chủ động và tấn công Sparta trước, họ nói. Những kẻ khác nhắc nhở họ rằng trong một trận đánh trên đất liền, các lực lượng của Sparta hầu như bất khả chiến bại. Tấn công Sparta theo cách này không khác gì trao chiến thắng vào tay họ. Tất cả những kẻ chủ hòa đều tán thành việc chấp nhận những điều khoản hòa bình, nhưng như nhiều người chỉ ra, điều đó chỉ để lộ sự sợ hãi và càng khuyến khích những người Sparta. Nó chỉ cho họ thêm thời gian để tăng cường quân đội của mình. Cuộc tranh luận cứ nhùng nhằng, với cảm xúc ngày càng nóng lên, mọi người la ó ầm ĩ, và không có giải pháp nào ngay trước mắt.

Tới xế trưa hôm đó, đám đông đột nhiên trở nên im lặng khi một nhân vật quen thuộc bước ra để phát biểu trước Hội nghị. Đó là Pericles, lãnh tụ cao niên trong số các chính khách Athens, lúc này đã hơn 60 tuổi. Pericles được dân chúng yêu mến, và ý kiến của ông có tầm quan trọng hơn ý kiến của bất cứ người nào khác, nhưng dù dân Athens kính trọng ông, họ nhận thấy ông là một lãnh tụ rất khác thường - giống một triết gia hơn một chính khách. Với những người đủ lớn tuổi để nhớ lại thời ông khởi đầu sự nghiệp, thật đáng ngạc nhiên khi ông trở nên thành công và nhiều quyền lực như thế. Ông không hề làm điều gì theo cung cách thông thường.

Vào những năm đầu tiên của nền dân chủ, trước khi Pericles xuất hiện trên chính trường, dân chúng Athens thích một dạng tính cách ở các lãnh tụ của họ - những người có thể diễn thuyết một cách đầy cảm hứng, thuyết phục và có một khả năng về kịch nghệ. Trong chiến trận, đó là những kẻ liều lĩnh; họ thường phát động những chiến dịch quân sự mà họ có thể lãnh đạo, mang tới cho họ cơ hội giành được vinh quang và sự chú ý. Họ thăng tiến trong sự nghiệp bằng cách đại diện cho một phe cánh trong Hội nghị, bao gồm giới quý tộc, địa chủ và quân đội, và tiến hành bất cứ việc gì có thể để nâng cao quyền lợi của nó. Điều này dẫn tới một nền chính trị phân rẽ cao độ. Các nhà lãnh đạo lên voi xuống chó trong chu kỳ vài năm, nhưng dân chúng Athens thích thực trạng này; họ không tin tưởng bất cứ người nào nắm quyền quá lâu năm.

Pericles bước vào chính trường vào khoảng năm 463 TCN, và nền chính trị của Athens không bao giờ giống như trước nữa. Động thái đầu tiên của ông bất thường hơn hết. Dù xuất thân từ một gia đình quý tộc nổi tiếng, ông giao du với các tầng lớp trung lưu và hạ lưu trong thành phố - nông dân, lính chèo thuyền trong hải quân, và thợ thủ công, vốn là niềm tự hào của Athens. Ông hoạt động để nâng cao tiếng nói của họ trong Hội nghị và mang tới cho họ quyền lực lớn hơn trong nền dân chủ. Lúc này ông lãnh đạo không phải một phe cánh nhỏ mà là đại đa số công dân Athens. Có vẻ như không thể nào kiểm soát một khối quần chúng rất lớn, bất kham, với những quyền lợi khác nhau, nhưng ông thiết tha với việc nâng cao quyền lực của họ đến độ ông dần dần chiếm được sự ủng hộ và tin tưởng của họ.

Khi tầm ảnh hưởng tăng lên, ông bắt đầu khẳng định bản thân trong Hội nghị và điều chỉnh chính sách của nó. Ông lập luận chống lại việc mở rộng đế chế dân chủ Athens. Ông e rằng người Athens sẽ với tay quá cao và đánh mất sự kiểm soát. Ông hoạt động để củng cố đế chế và các liên minh đang tồn tại. Khi chiến tranh nổ ra, với tư cách một vị tướng, ông cố gắng hạn chế các chiến dịch và giành chiến thắng thông qua các chiến thuật, với tổn thất thương vong tối thiểu. Với nhiều người, điều này có vẻ không quả cảm, nhưng do những chính sách này hữu hiệu, thành phố bước vào một thời kỳ thịnh vượng chưa từng có. Không còn những cuộc chiến không cần thiết khiến cho ngân sách cạn kiệt, và đế chế vận hành êm xuôi hơn bao giờ hết.

Điều Pericles đã thực hiện với nguồn tiền thặng dư khiến toàn thể công dân giật mình kinh ngạc; thay vì sử dụng nó để mua ân huệ chính trị, ông bắt tay vào một dự án công trình công cộng khổng lồ ở Athens. Ông cho xây dựng những ngôi đền, nhà hát và phòng hòa nhạc, tạo công ăn việc làm cho tất cả thợ thủ công ở Athens. Ở mọi nơi người ta đều thấy thành phố trở nên đẹp đẽ hơn nhiều. Ông ưa thích một kiểu kiến trúc phản ánh đầu óc thẩm mỹ của cá nhân ông - trật tự, có tính kỷ hà(27) cao độ, hoành tráng, nhưng nhìn rất bắt mắt. Công trình lớn nhất ông đặt làm là đền Parthenon, với pho tượng nữ thần Athena khổng lồ cao 12 mét. Athena, nữ thần của minh triết và tri thức thực hành, là thần bảo hộ của Athens. Bà đại diện cho mọi giá trị mà Pericles muốn cải thiện. Đơn thương độc mã, Pericles đã biến đổi bộ mặt và tinh thần của Athens, và nó bước vào một thời đại hoàng kim trong tất cả các bộ môn nghệ thuật và khoa học.

Có lẽ phẩm chất lạ lùng nhất ở Pericles là cách nói của ông - tự chủ và đầy phẩm cách. Ông không tham dự những cuộc thi đấu hùng biện. Thay vì vậy, ông hoạt động để thuyết phục một lượng khán giả thông qua những lập luận không thể bác bỏ. Điều này khiến mọi người chăm chú lắng nghe khi họ tham dự khóa luận lý học thú vị của ông. Phong cách của ông hấp dẫn và điềm tĩnh.

Không như bất kỳ nhà lãnh đạo nào khác, Pericles nắm giữ quyền lực hết năm này sang năm khác, đặt toàn bộ dấu ấn lên thành phố theo cung cách lặng lẽ, khiêm tốn của mình. Ông có những kẻ thù. Không thể tránh khỏi điều này. Ông đã nắm giữ quyền lực lâu đến độ nhiều người lên án ông là một kẻ độc tài kín đáo. Ông bị tình nghi là một kẻ vô thần, một người nhạo báng mọi truyền thống. Điều đó giải thích vì sao ông quá khác thường. Nhưng không ai có thể phủ nhận những thành quả dưới sự lãnh đạo của ông.

Do vậy, khi ông bắt đầu phát biểu trước Hội nghị chiều hôm đó, ý kiến của ông về cuộc chiến với Sparta sẽ có trọng lượng lớn nhất, và một sự im lặng bao trùm lên đám đông khi họ nôn nóng chờ nghe lập luận của ông.

“Hỡi dân chúng Athens”, ông mở đầu, “quan điểm của tôi vẫn giống như trước giờ. Tôi chống lại bất kỳ nhượng bộ nào với liên minh Peloponnese, dù tôi biết rằng nhiệt tình sẵn sàng bước vào cuộc chiến của mọi người sẽ không còn khi bắt tay vào hành động, rằng tâm trí của mọi người thay đổi theo dòng sự kiện”. Ông nhắc nhở họ rằng những khác biệt giữa Athens và Sparta được cho là đã giải quyết thông qua những trọng tài trung lập. Nếu họ nhượng bộ những yêu cầu đơn phương của Sparta, đây sẽ là một tiền lệ nguy hiểm. Nó sẽ kết thúc ở chỗ nào? Phải, một trận chiến trên đất liền với Sparta sẽ là sự tự sát. Điều ông đề xuất là một hình thức hoàn toàn mới mẻ của chiến tranh - có tính chất hạn chế và phòng vệ.

Ông sẽ đưa mọi người đang sống trong vùng vào bên trong tường thành của Athens. Cứ mặc cho lính Sparta kéo tới và cố nhử chúng ta đánh nhau, ông nói; cứ mặc cho chúng tàn phá đất nước chúng ta. Chúng ta sẽ không cắn mồi câu; chúng ta sẽ không đánh nhau với chúng trên đất liền. Với thủy lộ thông ra biển, chúng ta sẽ duy trì được nguồn cung cấp cho thành phố. Chúng ta sẽ sử dụng hải quân để tấn công các thị trấn duyên hải của chúng. Theo thời gian, chúng sẽ trở nên nản lòng vì không được lâm trận. Do phải nuôi dưỡng và cung cấp hậu cần cho quân đội thường trực, chúng sẽ cạn tiền. Những đồng minh của chúng sẽ hục hặc với nhau. Phe chủ chiến trong nội bộ Sparta sẽ mất uy tín và một nền hòa bình thật sự lâu dài sẽ được thỏa thuận, tất cả chỉ với phí tổn tối thiểu về sinh mạng và tiền của ở phía chúng ta.

“Tôi có thể đưa ra cho quý vị nhiều lý do khác”, ông kết luận, “vì sao quý vị sẽ cảm thấy tự tin vào thắng lợi cuối cùng, chỉ cần quý vị quyết định không đặt thêm gánh nặng cho đế chế, và không suy nghĩ chệch hướng để lâm vào những nguy cơ mới. Điều tôi e ngại không phải là chiến lược của kẻ thù mà là những sai lầm của chúng ta”. Đề xuất mới mẻ của ông khơi dậy những cuộc tranh luận. Cả phe chủ chiến lẫn phe chủ hòa đều không hài lòng với kế hoạch của ông, nhưng cuối cùng, thanh danh của ông về sự minh triết đem tới thắng lợi, và chiến lược của ông được chấp thuận. Nhiều tháng sau cuộc chiến định mệnh nổ ra.

Thoạt tiên, tất cả mọi chuyện không diễn tiến như Pericles đã hình dung. Quân Sparta và các đồng minh của nó không nản lòng khi cuộc chiến dây dưa kéo dài, mà chỉ táo tợn hơn. Dân chúng Athens mới chính là những người thoái chí khi nhìn thấy đất đai của mình bị tàn phá mà không có cách nào trả đũa. Nhưng Pericles tin rằng kế hoạch của ông không thể thất bại, miễn là dân Athens duy trì được sự nhẫn nại. Thế rồi, trong năm thứ hai của cuộc chiến, một tai họa bất ngờ làm xáo trộn mọi thứ: Một trận dịch kinh khủng phát sinh trong thành phố; với quá nhiều người sống chen chúc trong các bức tường thành, nó nhanh chóng lan rộng, giết chết trên một phần ba dân số thành phố và làm tiêu hao mất một phần mười lực lượng quân đội. Bản thân Pericles cũng mắc bệnh; và trong lúc hấp hối, ông chứng kiến cơn ác mộng cuối cùng: Tất cả những gì ông đã làm cho Athens trong suốt nhiều thập kỷ dường như bỗng chốc tan tành, dân chúng trở thành những nhóm người hoảng loạn cho tới khi mỗi người chỉ còn biết tự lo cho mình. Giá như ông thoát chết, hầu như chắc chắn ông sẽ tìm được cách giúp dân Athens bình tĩnh lại và thương thảo một hiệp ước có thể chấp nhận được với Sparta, hoặc điều chỉnh lại chiến lược phòng ngự của mình, nhưng giờ thì đã quá muộn.

Lạ một điều là dân Athens không mấy thương tiếc vị lãnh tụ này. Họ trách ông vì trận dịch và chỉ trích chiến lược vô hiệu quả của ông. Họ không còn chút tâm trạng nhẫn nại hay tự chủ nào nữa. Ông đã sống lâu hơn thời của mình, và giờ đây các ý tưởng của ông được xem như những phản ứng mệt mỏi của một ông già. Lòng yêu mến Pericles của họ đã chuyển thành sự oán ghét. Khi ông không còn tại thế, những cung cách cũ quay lại với một tâm trạng trả thù. Phe chủ chiến trở nên đông đảo. Họ khai thác lòng căm phẫn đang gia tăng đối với người Sparta, vốn đã lợi dụng trận dịch để tấn công kịch liệt hơn. Phe chủ chiến hứa hẹn sẽ lấy lại thế chủ động và nghiền nát quân Sparta với một chiến lược tấn công. Đối với nhiều người dân Athens, những lời lẽ đó là một niềm an ủi lớn lao, một sự giải thoát khỏi các cảm xúc dồn nén.

Khi thành phố dần dà khôi phục lại sau trận dịch, quân Athens cố xoay xở để chiếm thế thượng phong, và quân Sparta chính thức yêu cầu hòa giải. Muốn đánh bại hoàn toàn kẻ thù, người Athens tận dụng lợi thế của mình, chỉ để nhận ra quân Sparta đã phục hồi và xoay chuyển cục diện. Cuộc chiến cứ giằng co năm này sang năm khác. Bạo lực và căm phẫn ở cả hai phía gia tăng. Sau đó quân Athens tấn công đảo Melos, một đồng minh của Sparta, và khi người Melos đầu hàng, dân Athens biểu quyết để giết tất cả đàn ông của họ và bán phụ nữ và trẻ con làm nô lệ. Dưới quyền lãnh đạo của Pericles, chưa từng có sự kiện nào như thế xảy ra.

Thế rồi, sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, năm 415 TCN, nhiều nhà lãnh đạo của Athens có một ý tưởng thú vị về cách tung đòn quyết định. Thành bang Syracuse là thế lực đang nổi lên trên hòn đảo Sicily. Syracuse là một đồng minh của Sparta, cung cấp cho họ nhiều nguồn lực cần thiết. Nếu quân Athens, với lực lượng hải quân hùng hậu của họ, có thể thực hiện một cuộc viễn chinh và nắm quyền kiểm soát Syracuse, họ sẽ nắm được hai lợi thế. Nó sẽ mở rộng thêm đế quốc của họ, và nó sẽ tước khỏi Sparta những nguồn lực cần thiết để tiếp tục cuộc chiến. Hội nghị biểu quyết và nhất trí cử 60 chiến thuyền với một lực lượng quân đội tương thích trên tàu để hoàn thành mục tiêu này.

Một trong các chỉ huy được bổ nhiệm cho cuộc viễn chinh này, Nicias, người có những mối hoài nghi lớn về mức độ khôn ngoan của kế hoạch này. Ông e rằng dân Athens đã đánh giá thấp sức mạnh của Syracuse. Ông vạch rõ mọi viễn cảnh tiêu cực có thể xảy ra, chỉ một lực lượng viễn chinh lớn hơn nhiều mới có thể đảm bảo thắng lợi. Ông muốn chấm dứt kế hoạch này, nhưng lập luận của ông có tác dụng ngược lại. Nếu cần có một lực lượng viễn chinh lớn hơn, thì họ sẽ cử một lực lượng như thế - một trăm chiến thuyền và quân số gấp đôi. Dân chúng Athens ngửi thấy mùi chiến thắng trong chiến lược này và không gì có thể ngăn cản họ.

Trong những ngày sau đó, có thể nhìn thấy dân chúng Athens thuộc mọi lứa tuổi trên đường phố, vừa vẽ những tấm bản đồ đảo Sicily, vừa mơ tới những của cải sẽ đổ vào Athens và nỗi ô nhục chung cuộc của quân Sparta. Ngày nhổ neo các chiến thuyền trở thành một ngày hội lớn và một quang cảnh hoành tráng nhất mà họ từng chứng kiến - một hạm đội khổng lồ chật kín hải càng trong phạm vi tầm mắt, với các chiến thuyền được trang trí đẹp đẽ, lính tráng trong áo giáp lấp loáng đứng chật khắp boong tàu. Đó là một cuộc phô trương hào nhoáng sự giàu có và sức mạnh của Athens.

Nhiều tháng trôi qua, dân Athens tìm kiếm một cách tuyệt vọng tin tức của đoàn quân viễn chinh. Có một thời điểm, thông qua tầm vóc thật sự của lực lượng quân đội, có vẻ như Athens đã giành được lợi thế và đã vây hãm Syracuse. Nhưng vào phút cuối, các lực lượng chi viện kéo tới từ Sparta, và giờ đây quân Athens ở vào thế phòng thủ. Nicias gửi một lá thư cho Hội nghị mô tả bước chuyển biến tiêu cực này. Ông khuyến nghị nên từ bỏ kế hoạch và quay trở về Athens, hoặc lập tức cử thêm viện binh. Không muốn tin vào khả năng bại trận, dân chúng Athens biểu quyết và cử lực lượng chi viện - một hạm đội thứ hai, lớn ngang với hạm đội đầu tiên. Trong tháng kế tiếp, nỗi lo âu của dân chúng Athens tăng lên một tầm cao mới - vì giờ đây khoản đặt cược đã tăng lên gấp đôi và Athens không thể gánh chịu nổi sự bại trận.

Một hôm, một người thợ cắt tóc trong thành phố cảng Piraeus nghe thấy một tin đồn từ một khách hàng rằng từng con tàu và hầu như từng người trong đoàn quân viễn chinh Athens đã bị tiêu diệt trong chiến trận. Tin đồn này nhanh chóng lan rộng khắp Athens. Khó mà tin được điều này, nhưng sự hoang mang hoảng hốt dần dần trỗi dậy. Một tuần sau, tin đồn được xác nhận và Athens có vẻ đã tới hồi tận số, cạn kiệt tiền bạc, tàu chiến và người.

Như một phép lạ, dân chúng Athens xoay xở được cách để tiếp tục cuộc chiến. Nhưng trong vài năm kế tiếp, mất cân bằng trầm trọng bởi những thất bại ở Sicily, họ liên tục gánh chịu nhiều đòn tấn công choáng váng, và rốt cuộc vào năm 405 TCN, Athens thua trận cuối và buộc phải đồng ý với những điều khoản khắc nghiệt cho nền hòa bình do Sparta áp đặt. Những năm vinh quang của họ, đế chế dân chủ hùng cường của họ, và thời đại hoàng kim của Pericles giờ đã mãi mãi kết thúc. Người đàn ông đã kiềm chế những cảm xúc nguy hiểm nhất của họ - sự hiếu chiến, lòng tham, sự ích kỷ - đã rời khỏi hiện trường quá lâu, sự minh triết của ông cũng đã bị quên lãng từ lâu.

Diễn dịch: Vào hồi đầu sự nghiệp của mình, khi Pericles khảo sát bối cảnh chính trị, ông nhận thấy các hiện tượng sau: Mỗi nhân vật chính trị ở Athens đều tin rằng mình sáng suốt, có những mục tiêu thực tế và những kế hoạch để đạt được chúng. Tất cả đều tích cực hoạt động cho phe phái chính trị của mình và cố gắng nâng cao quyền lực của mình. Họ chỉ đạo quân đội trong chiến trận và thường tiến lên dẫn đầu. Họ cố mở rộng đế chế và mang về nhiều tiền của hơn. Và khi thủ đoạn chính trị của họ bất ngờ bị phản tác dụng, hoặc những cuộc chiến trở nên tồi tệ, họ có những lý do tuyệt hảo để giải thích vì sao điều này lại xảy ra. Họ luôn có thể đổ lỗi cho đối phương, hoặc các vị thần linh nếu cần. Thế nhưng, nếu tất cả những người này đều sáng suốt, vì sao chính sách của họ mang tới quá nhiều rối loạn và tự phá hoại như thế? Vì sao Athens trở nên hỗn độn và bản thân nền dân chủ yếu ớt như thế? Vì sao có quá nhiều tình trạng tham nhũng và hỗn loạn? Câu trả lời rất đơn giản: Những đồng hương người Athens của ông không hề sáng suốt chút nào, chỉ ích kỷ và giảo hoạt. Thứ dẫn đường cho những quyết định của họ là những cảm xúc cơ bản của họ - nỗi khao khát đối với quyền lực, sự chú ý của mọi người, và tiền của. Và với những mục đích này họ có thể rất mưu mẹo, khôn khéo, nhưng không thủ đoạn nào của họ dẫn tới bất cứ điều gì lâu dài hay phục vụ cho lợi ích toàn diện của nền dân chủ.

Với tư cách một nhà tư tưởng và một chính khách, điều Pericles quan tâm nhất là cách thoát khỏi cái bẫy rập này, cách trở nên thật sự sáng suốt trong một đấu trường bị các cảm xúc chi phối. Giải pháp ông tìm được độc đáo vô song về mặt lịch sử và hữu hiệu một cách ấn tượng về mặt kết quả. Nó phục vụ như lý tưởng của chúng ta. Theo quan niệm của ông, tâm trí con người phải tôn thờ một thứ gì đó, phải hướng sự chú ý tới một thứ mà nó đánh giá cao hơn tất cả những thứ khác. Đối với đại đa số mọi người, đó chính là cái tôi của họ; với một số khác đó là gia đình, dòng tộc, thần linh hay quốc gia của họ. Với Pericles, đó là nous, từ Hy Lạp cổ chỉ “trí óc” hay “trí tuệ”. Nous là một lực lượng tràn ngập khắp vũ trụ, tạo nên ý nghĩa và trật tự. Tâm trí con người bị cuốn hút bởi trật tự này; đây là nguồn cội của khả năng hiểu biết của chúng ta. Với Pericles, hiện thân của nous mà ông tôn thờ là nữ thần Athena.

Athena được sinh ra từ đầu của thần Zeus, bản thân cái tên của bà phản ánh điều này - một sự kết hợp giữa từ “thần” (theos) và “trí óc” (nous). Nhưng Athena đại diện cho một hình thức rất đặc biệt của nous - rất thực tế, nữ tính và trần tục. Bà là tiếng nói đến với các vị anh hùng vào những thời điểm cần thiết, đem lại cho họ một tinh thần điềm tĩnh, hướng tâm trí họ tới ý tưởng hoàn hảo để giành chiến thắng và sự thành công, rồi trao cho họ năng lượng để đạt được điều này. Được Athena tới thăm là phước lành lớn lao nhất của tất cả dân chúng, và chính tinh thần của bà đã dẫn dắt những vị tướng vĩ đại và những nghệ sĩ, nhà phát minh và doanh nhân giỏi nhất. Dưới ảnh hưởng của bà, một người đàn ông hay phụ nữ có thể nhìn thấy thế giới với sự rõ ràng tột độ và hành động rất đúng thời điểm. Với Athens, tinh thần của bà được cầu khẩn để thống nhất thành phố, làm cho nó trở nên phồn vinh, thịnh vượng. Về bản chất, Athena đại diện cho sự sáng suốt, món quà lớn nhất mà các thần linh ban cho con người, vì chỉ có nó mới có thể tạo nên một hành động của con người với sự khôn ngoan của thần linh.

Để vun bồi tinh thần của Athena trong nội tâm, trước hết Pericles tìm ra một cách để làm chủ những cảm xúc của mình. Những cảm xúc hướng chúng ta vào bên trong, cách ly với hiện tại và thực tế. Chúng ta thường tập trung vào sự tức giận hay bất an của mình. Nếu chúng ta nhìn ra thế giới và cố giải quyết vấn đề, chúng ta nhìn các sự việc thông qua thấu kính của những cảm xúc này, chúng che mờ tầm nhìn của chúng ta. Pericles tự rèn luyện để không bao giờ phản ứng một cách tức thời, không bao giờ ra một quyết định trong lúc đang bị tác động bởi một cảm xúc mạnh mẽ. Thay vì vậy, ông phân tích những cảm xúc của mình. Thông thường, khi quan sát kỹ càng sự bất an hay tức giận của mình, ông thấy rằng chúng không thật sự hợp lý, và chúng mất đi tầm quan trọng dưới sự khảo sát cẩn thận. Đôi khi ông phải tránh xa Hội nghị và lui về nhà, nơi ông ở một mình suốt nhiều ngày liên tục để lấy lại sự điềm tĩnh. Dần dà, tiếng nói của Athena sẽ tới với ông.

Ông quyết định đạt tất cả các quyết định chính trị dựa trên một thứ - điều thật sự phục vụ cho lợi ích lớn nhất của Athens. Mục tiêu của ông là thống nhất toàn thể công dân thông qua tình yêu dân chủ đích thực và niềm tin vào sự vượt trội của lối sống Athens. Việc có một chuẩn mực như thế giúp ông tránh được cái bẫy bản ngã. Nó buộc ông phải hành động để tăng cường sự tham gia và quyền lực của các tầng lớp hạ lưu và trung lưu, dù một chiến lược như thế có thể dễ dàng quay sang chống lại ông. Nó thôi thúc ông hạn chế những cuộc chiến, cho dẫu điều này có nghĩa là vinh quang của cá nhân ông bị giảm sút. Và cuối cùng nó dẫn tới quyết định lớn nhất của ông - dự án công trình công cộng đã thay đổi gương mặt của Athens.

Để tự giúp bản thân trong dự án đã khảo sát cẩn thận này, ông mở rộng tâm trí tới càng nhiều ý tưởng càng tốt, thậm chí tới những ý tưởng của các đối thủ của ông. Ông hình dung mọi hậu quả khả dĩ của một chiến lược trước khi tận tâm thực hiện nó. Với một tinh thần điềm tĩnh và một đầu óc cởi mở, ông đưa ra những chính sách đã tạo nên một trong những kỷ nguyên hoàng kim thật sự trong lịch sử. Những gì đã xảy ra với Athens sau khi ông rời khỏi chính trường tự nó đã nói lên tất cả. Cuộc viễn chinh tới Sicily đại diện cho mọi thứ ông đã luôn phản đối - một quyết định bị thôi thúc một cách kín đáo bởi tham vọng xâm chiếm thêm đất đai, mù quáng trước mọi hậu quả tiềm tàng.

Thấu hiểu: Như mọi người, bạn nghĩ bạn sáng suốt, nhưng không phải vậy đâu. Sự sáng suốt không phải là một khả năng bẩm sinh mà là một khả năng bạn đạt được thông qua rèn luyện và thực hành. Tiếng nói của Athena đơn giản đại diện cho một khả năng cao hơn vốn hiện hữu bên trong bạn ngay lúc này, một tiềm năng có lẽ bạn đã cảm thấy trong những lúc bình tĩnh và tập trung, ý tưởng hoàn hảo đến với bạn sau quá trình tư duy đó. Hiện tại bạn không nối kết được với khả năng cao hơn này là vì tâm trí bạn bị đè nặng bởi những cảm xúc. Như Pericles trong Hội nghị, bạn nhiễm phải toàn bộ vở kịch mà những kẻ khác khuấy động lên; bạn liên tục phản ứng với những gì mọi người trao cho bạn, trải nghiệm những làn sóng kích động, bất an, và lo âu vốn làm cho ta khó tập trung tư tưởng. Sự chú ý của bạn bị lôi kéo theo hướng này hướng khác, và do không có chuẩn mực nào để dẫn dắt các quyết định của mình, bạn không bao giờ hoàn toàn đạt được những mục tiêu đã đề ra. Có thể thay đổi tình trạng này vào bất cứ lúc nào với một quyết định duy nhất - vun bồi cho Athena bên trong bạn. Khi đó sự sáng suốt là điều mà bạn sẽ đánh giá cao nhất và nó sẽ phục vụ như một người dẫn đường cho bạn.

Công việc đầu tiên của bạn là nhìn vào những cảm xúc vốn liên tục đầu độc những ý tưởng và quyết định của bạn. Học cách tự vấn bản thân: Vì sao có sự tức giận hay căm ghét này? Nhu cầu không ngớt muốn được chú ý bắt nguồn từ đâu? Dưới sự khảo sát cẩn thận như thế, những cảm xúc của bạn sẽ không còn tác động nhiều tới bạn. Bạn sẽ bắt đầu suy nghĩ cho chính mình thay vì phản ứng lại những gì mọi người mang đến cho bạn. Những cảm xúc có khuynh hướng thu hẹp tâm trí, khiến chúng ta tập trung vào một hoặc hai ý tưởng vốn thỏa mãn khát khao trước mắt của chúng ta đối với quyền lực hay sự chú ý của mọi người; những ý tưởng vốn thường là phản tác dụng. Giờ đây, với một tinh thần điềm tĩnh, bạn có thể cân nhắc đủ loại chọn lựa và giải pháp. Bạn sẽ suy nghĩ lâu hơn trước khi hành động và đánh giá lại các chiến lược của mình. Tiếng nói sẽ ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Khi mọi người vây quanh bạn với những cơn bi hài vô tận và những cảm xúc nhỏ mọn của họ, bạn sẽ phẫn nộ với sự gây xao lãng này và sẽ vận dụng đầu óc sáng suốt của mình để suy nghĩ sâu hơn họ. Như một vận động viên tiếp tục trở nên mạnh mẽ hơn thông qua rèn luyện, tâm trí của bạn sẽ trở nên linh hoạt và hồi phục tốt hơn. Với đầu óc sáng suốt và điềm tĩnh, bạn sẽ nhìn thấy những lời giải đáp và những giải pháp sáng tạo mà không ai khác có thể hình dung.

Như thể có một bản ngã thứ hai của ta đứng cạnh ta, một bản ngã thì hiểu biết và sáng suốt, nhưng bản ngã kia bị thôi thúc làm điều gì đó hoàn toàn điên rồ, và đôi khi rất buồn cười; và đột nhiên bạn nhận thấy rằng bạn đang muốn làm điều thú vị đó; chỉ có trời biết vì sao; nghĩa là bạn muốn, trái với ý chí của mình, có thể nói như vậy; dù bạn chiến đấu với nó bằng tất cả khả năng của mình, bạn vẫn muốn làm điều đó.

- Fyodor Dostoyevsky, “A Raw Youth” (Thời niên thiếu)

Những giải pháp đối với bản chất con người

Bất cứ lúc nào có gì đó không ổn xảy ra trong cuộc đời của chúng ta, tự nhiên chúng ta sẽ tìm kiếm một sự lý giải. Việc không tìm ra nguyên nhân vì sao những kế hoạch của chúng ta bị thất bại, hoặc vì sao chúng ta gặp phải sự ngăn trở bất ngờ đối với những ý tưởng của mình, sẽ khiến chúng ta rất bực dọc lo âu và gia tăng nỗi đau của chúng ta. Nhưng khi nhìn vào một nguyên nhân, tâm trí chúng ta có xu hướng xoay quanh những cách lý giải như nhau: Một ai đó hoặc nhóm nào đó đã ngầm quậy phá tôi, có lẽ vì không ưa tôi; những lực lượng đối kháng lớn mạnh ngoài kia, như chính quyền hoặc quy ước xã hội, đã ngăn trở tôi; tôi đã nhận được một lời khuyên tệ hại, hoặc thông tin đã bị ngăn cản không tới được tai tôi. Cuối cùng - nếu sự tồi tệ trở thành sự tồi tệ nhất - tất cả đều do vận rủi và những tình huống không may.

Nhìn chung những lý giải này nhấn mạnh vào sự bất lực của chúng ta. “Tôi có thể làm gì khác được? Làm sao tôi có thể biết trước những hành động xấu xa của X chống lại tôi?” Chúng cũng khá mơ hồ. Thông thường chúng ta không thể chỉ ra những hành động hiểm độc cụ thể của kẻ khác. Chúng ta chỉ có thể ngờ vực và tưởng tượng. Những lý giải này có xu hướng gia tăng các cảm xúc của chúng ta - tức giận, chán nản, thất vọng - mà khi đó chúng ta có thể chìm đắm vào chúng và cảm thấy tệ hại cho bản thân mình. Quan trọng hơn cả, phản ứng đầu tiên của chúng ta là nhìn ra bên ngoài để tìm kiếm nguyên nhân. Phải, chúng ta có thể có trách nhiệm đối với một số sự kiện đã xảy ra, nhưng trong phần lớn trường hợp, chính những kẻ khác và những lực lượng đối kháng đã ngáng chân chúng ta. Phản ứng này đã ăn sâu vào con người - động vật. Hồi thời cổ đại, người ta có thể đổ lỗi cho các thần linh hay ma quỷ. Con người hiện đại chúng ta chọn cách đặt cho các nguyên nhân này những cái tên khác.

Tuy nhiên, sự thật rất khác với điều này. Hẳn nhiên là có những cá nhân và những lực lượng to lớn ngoài kia, vốn liên tục tác động tới chúng ta, và có nhiều thứ chúng ta không thể kiểm soát trong thế giới. Nhưng nhìn chung điều khiến chúng ta đi chệch hướng lúc đầu, điều dẫn tới những quyết định tồi tệ và tính toán sai lầm, là sự thiếu sáng suốt thâm căn cố đế của chúng ta, mức độ mà ở đó tâm trí chúng ta bị điều khiển bởi cảm xúc. Chúng ta không thể nhìn thấy điều này. Đó là điểm mù của chúng ta, và hãy nhìn vào chứng cứ đầu tiên của điểm mù này, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 2008, vốn có thể xem là một bản tóm lược của tất cả các dạng khác nhau của sự thiếu sáng suốt của con người.

Sau đợt sụp đổ thị trường chứng khoán này, những lý giải thông thường nhất trên phương tiện truyền thông cho những gì đã xảy ra là: Sự mất cân bằng của cán cân thương mại và các yếu tố khác đã dẫn tới tín dụng lãi suất thấp (cheap credit) hồi đầu thập niên 2000, điều này dẫn tới sự lợi dụng đòn bẩy vốn thái quá; không thể nào xác định giá trị chính xác của những sản phẩm tài chính vô cùng phức tạp đang được mua bán, vì thế không ai có thể thật sự đo được các mức độ lợi nhuận và tổn thất; đã từng tồn tại một bè phái những tay trong giảo hoạt và thối nát, họ nhận được những ưu đãi để thao túng hệ thống nhằm đạt lợi nhuận nhanh chóng; những tổ chức cho vay tham lam đã đẩy các khoản thế chấp dưới chuẩn (subprime mortgages) cho các chủ sở hữu nhà không chút ngờ vực; có quá nhiều quy định của nhà nước; không có đủ sự giám sát của nhà nước; các mô hình điện toán và các hệ thống thương mại hoạt động ngoài khả năng kiểm soát.

Những lý giải này để lộ một sự phủ nhận đáng chú ý đối với một thực tế cơ bản. Để dẫn tới sự sụp đổ năm 2008, nhiều triệu người đã đưa ra những quyết định hằng ngày về việc đầu tư hoặc không đầu tư. Ở mỗi thời điểm của những giao dịch này, lẽ ra những người mua và người bán có thể rút lui khỏi những hình thức đầu tư có nguy cơ cao nhất nhưng họ đã quyết định không làm điều đó. Có rất nhiều người ngoài kia cảnh báo về bong bóng kinh tế. Chỉ mới vài năm trước, sự sụp đổ của quỹ đầu tư phòng hộ(28) khổng lồ Long-Term Capital Management(29) đã chỉ ra chính xác một cú sụp đổ lớn hơn có thể và sẽ xảy ra như thế nào. Giá như mọi người có ký ức lâu hơn, họ có thể nghĩ tới bong bóng kinh tế năm 1987, nếu đọc lịch sử, họ sẽ nghĩ tới bong bóng thị trường chứng khoán và vụ sụp đổ năm 1929. Hầu như bất cứ chủ sở hữu nhà tiềm năng nào cũng có thể hiểu những nguy cơ của các khoản thế chấp không đặt cọc(30) và những điều khoản cho vay với tỷ lệ lãi suất tăng nhanh.

Điều mà tất cả các phân tích làm ngơ là sự thiếu sáng suốt cơ bản vốn đã nhấn chìm hàng triệu người mua và người bán trong suốt quá trình này. Họ bị đầu độc bởi ham muốn kiếm tiền dễ dàng. Ham muốn này tác động mạnh tới ngay cả những nhà đầu tư có học thức cao nhất. Những nghiên cứu và những chuyên gia bị cuốn hút vào những ý tưởng ủng hộ mà mọi người sẵn sàng tin theo - chẳng hạn như các cụm từ “lần này thì khác” và “giá nhà không bao giờ hạ xuống”. Một làn sóng lạc quan tột độ quét qua vô số người. Sau đó là sự hoảng loạn, sụp đổ, và sự đối mặt thê thảm với hiện thực. Thay vì chấp nhận rằng sự đầu tư điên cuồng đã chế ngự mọi người, khiến những kẻ thông minh trở thành lũ ngốc thì người ta lại đổ tội cho các lực lượng bên ngoài, bất cứ thứ gì lệch khỏi nguồn gốc thật sự của sự điên dại đó. Đây không phải là điều gì đặc biệt trong đợt sụp đổ tài chính năm 2008. Kiểu lý giải tương tự cũng đưa ra sau những cuộc suy thoái năm 1987 và 1929, sự đầu tư điên cuồng vào việc mở đường xe lửa ở Anh vào thập niên 1840, và bong bóng South Sea(31) vào thập niên 1720, cũng tại nước Anh. Mọi người nói tới việc cải cách hệ thống; các đạo luật được thông qua để hạn chế đầu cơ. Và không giải pháp nào có hiệu quả.

Những bong bóng kinh tế xảy ra do sức hút cảm xúc ngày càng tăng của chúng đối với mọi người, vốn áp đảo bất cứ khả năng suy luận nào có trong tâm trí của một cá nhân. Chúng kích thích những xu hướng tự nhiên của chúng ta đối với lòng tham, tiền dễ kiếm, và những kết quả nhanh chóng. Rất khó để bạn không nhập cuộc khi trông thấy mọi người đang hái ra tiền. Không có sức mạnh pháp lý nào trên hành tinh này có thể kiểm soát được bản chất con người. Và vì chúng ta không đối mặt với nguồn gốc thật sự của vấn đề, những bong bóng và những vụ sụp đổ kinh tế cứ lặp đi lặp lại, và sẽ còn lặp đi lặp lại chừng nào còn có những kẻ dễ bị lừa và những kẻ không đọc sử. Sự tái diễn của những tấm gương này cũng chính là sự tái diễn cùng những vấn đề và sai lầm trong cuộc sống của chính chúng ta, tạo nên những khuôn mẫu tiêu cực. Khó mà học hỏi được từ kinh nghiệm khi chúng ta không nhìn vào bên trong, vào những nguyên nhân thật sự.

Thấu hiểu: Bước đầu tiên để trở nên sáng suốt là thấu hiểu sự thiếu sáng suốt cơ bản của chúng ta. Có hai yếu tố khiến cho sự thiếu sáng suốt này dễ thâm nhập vào bản ngã của chúng ta: Không ai thoát khỏi tác động không thể chống lại của cảm xúc đối với tâm trí, ngay cả những người thông thái nhất trong số chúng ta; và ở một mức độ nhất định, sự thiếu sáng suốt là một chức năng của cấu trúc não bộ của chúng ta và gắn liền với chính bản chất của chúng ta thông qua cách chúng ta xử lý cảm xúc. Tình trạng thiếu sáng suốt hầu như nằm ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta. Để hiểu điều này, chúng ta phải nhìn vào quá trình tiến hóa của chính bản thân các cảm xúc.

Trong suốt nhiều triệu năm, các cơ thể sống phụ thuộc vào việc hòa hợp tốt với các bản năng sinh tồn. Trong một phần nhỏ của giây, một động vật bò sát có thể cảm nhận được sự nguy hiểm trong môi trường và phản ứng bằng cách chạy vù khỏi chỗ đó. Không có sự phân cách giữa sự thôi thúc và hành động. Thế rồi, dần dần, đối với một số động vật, cảm giác này tiến triển thành một thứ lớn hơn và kéo dài hơn - một cảm giác sợ hãi. Thoạt tiên, sự sợ hãi này chỉ bao gồm một mức độ kích động cao với sự giải phóng các hóa chất cụ thể, báo động cho con vật về một nguy cơ khả dĩ. Với sự kích động này và sự chú ý xuất hiện cùng với nó, con vật có thể phản ứng theo nhiều cách thay vì chỉ một. Nó có thể trở nên nhạy cảm hơn với môi trường và hiểu biết nhiều hơn. Nó có một cơ hội sống sót tốt hơn vì các khả năng chọn lựa mở rộng hơn. Cảm giác sợ hãi này chỉ kéo dài vài giây hoặc thậm chí ngắn hơn, vì tốc độ là yếu tố cơ bản.

Với một số động vật xã hội, những kích động và cảm giác này có một vai trò sâu sắc và quan trọng hơn: Chúng trở thành một hình thức giao tiếp chủ yếu. Những tiếng gầm gừ và hiện tượng lông dựng đứng có thể biểu thị sự tức giận, nhằm xua đuổi một kẻ thù hoặc báo hiệu một nguy cơ; những tư thế hay mùi nhất định bộc lộ khát khao tình dục và sự sẵn sàng; những tư thế và điệu bộ nhất định báo hiệu mong muốn chơi đùa; những tiếng gọi nhất định của thú con biểu lộ sự lo lắng và mong muốn mẹ nó quay trở lại. Với động vật linh trưởng, những biểu hiện này trở nên tinh tế và phức tạp hơn. Khoa học đã chỉ ra rằng loài tinh tinh có thể cảm thấy ghen tị và mong muốn báo thù, trong số các cảm xúc khác. Sự tiến hóa này diễn ra trong suốt quá trình nhiều trăm triệu năm. Gần đây hơn, những khả năng nhận thức đã phát triển ở động vật và con người, lên tới đỉnh cao ở việc phát minh ra ngôn ngữ và tư duy trừu tượng.

Như nhiều nhà khoa học thần kinh đã khẳng định, sự tiến hóa này đã dẫn tới não bộ phát triển cao hơn của động vật có vú, bao gồm ba phần. Phần cũ nhất là phần bò sát của não, kiểm soát mọi phản ứng tự động điều khiển cơ thể. Đây là phần mang tính bản năng. Bên trên nó là bộ não cũ của động vật có vú hoặc có chi, điều khiển cảm giác và cảm xúc. Và trên cùng là lớp vỏ não mới sau quá trình tiến hóa, phần kiểm soát nhận thức, và ngôn ngữ, đối với con người.

Những cảm xúc phát sinh như sự kích ứng được hình thành để thu hút sự chú ý của chúng ta và khiến cho chúng ta chú ý tới một thứ gì đó ở xung quanh. Chúng bắt đầu từ các phản ứng hóa học và cảm giác mà sau đó chúng ta phải diễn dịch thành ngôn ngữ để cố thấu hiểu. Nhưng vì chúng được xử lý trong một phần khác của não chứ không phải phần điều khiển ngôn ngữ và tư duy, sự diễn dịch này thường lệch lạc và thiếu chính xác. Ví dụ, chúng ta cảm thấy tức giận cá nhân X, trong khi thật ra nguồn gốc thật sự của cảm xúc này là sự đố kỵ; bên dưới mức nhận biết có ý thức chúng ta cảm thấy thấp kém hơn trong mối quan hệ với X và muốn có thứ gì đó mà anh ta hoặc cô ta có. Nhưng đố kỵ không phải là một cảm giác mà chúng ta thoải mái chấp nhận, và thông thường chúng ta diễn dịch nó thành một thứ khác dễ chấp nhận hơn - tức giận, không ưa, ghét. Hoặc có một hôm, trong lúc chúng ta với tâm trạng bực bội và sốt ruột, bỗng cá nhân Y cản ngang đường của chúng ta không đúng lúc và chúng ta trút giận lên anh ta, không nhận ra rằng sự tức giận này bị thôi thúc từ một tâm trạng khác và không tương xứng với những hành động của Y. Hoặc cứ cho rằng chúng ta thật sự tức giận cá nhân Z. Nhưng sự tức giận đang xâm chiếm chúng ta là do một ai đó trong quá khứ vốn từng làm chúng ta tổn thương sâu sắc gây ra, có lẽ là cha hoặc mẹ. Chúng ta hướng sự tức giận vào Z vì anh ta khiến cho chúng ta nhớ tới người kia.

Nói cách khác, chúng ta không có phương tiện để tiếp cận về mặt ý thức với nguồn gốc của các cảm xúc và các tâm trạng do chúng gây ra. Khi cảm thấy chúng, tất cả những gì chúng ta có thể làm là cố diễn giải cảm xúc, dịch nó sang ngôn ngữ. Nhưng thông thường chúng ta diễn dịch sai nhiều hơn đúng. Chúng ta bám vào những diễn dịch đơn giản và phù hợp với mình. Hoặc chúng ta vẫn cứ lúng túng. Chẳng hạn chúng ta không biết vì sao mình lại cảm thấy phiền muộn. Khía cạnh vô thức này của cảm xúc cũng có nghĩa rằng chúng ta khó mà học hỏi được từ chúng, để chấm dứt hay ngăn ngừa hành vi có tính chất ép buộc.(32) Những đứa trẻ cảm thấy bị cha mẹ ruồng bỏ về sau sẽ có xu hướng tạo ra những khuôn mẫu của sự ruồng bỏ mà không nhìn thấy nguyên nhân. (Xem Những điểm kích hoạt từ thuở đầu đời ở phần sau).

Chức năng truyền tải của các cảm xúc, một nhân tố quan trọng đối với động vật xã hội, cũng trở nên khá nan giải đối với chúng ta. Chúng ta truyền tải sự tức giận khi đang cảm thấy một cảm xúc khác, hoặc đối với một ai đó khác, nhưng cá nhân kia không nhìn thấy điều này và do đó họ phản ứng như thể bản thân mình bị tấn công, vốn có thể tạo nên những diễn dịch sai có tính chất lây lan.

Các cảm xúc tiến triển vì một nguyên nhân khác với nhận thức. Có hai hình thức quan hệ với thế giới không được kết nối một cách liền lạc trong bộ não của chúng ta. Đối với động vật, do không chịu áp lực của nhu cầu diễn dịch các cảm giác thể chất thành ngôn ngữ trừu tượng, nên các cảm xúc hoạt động một cách trôi chảy, theo đúng chức năng của chúng. Đối với con người, sự phân cách giữa các cảm xúc và nhận thức của chúng ta là một nguồn của sự mâu thuẫn nội tâm thường xuyên, bao gồm một Cái tôi Cảm xúc thứ hai bên trong chúng ta vốn hoạt động bên ngoài ý chí của chúng ta. Động vật cảm thấy sợ hãi trong một thời gian ngắn, rồi điều này biến mất. Chúng ta sống trong nỗi sợ của mình, tăng cường chúng và kéo dài chúng qua khoảnh khắc nguy hiểm, thậm chí tới mức của cảm giác lo lắng thường xuyên.

Hẳn là nhiều người có xu hướng tưởng tượng rằng bằng cách nào đó chúng ta đã thuần hóa được Cái tôi Cảm xúc này thông qua sự tiến bộ về trí tuệ và công nghệ. Nói cho cùng, chúng ta không hung bạo, sôi nổi và mê tín như tổ tiên của chúng ta; nhưng đây là một ảo tưởng. Sự tiến bộ và công nghệ không đổi mới mạng lưới thần kinh của chúng ta; chúng chỉ đơn giản thay đổi những hình thức cảm xúc của chúng ta và dạng thiếu sáng suốt đi cùng với chúng. Ví dụ, những hình thức truyền thông mới đã nâng cao khả năng lâu đời của các chính khách và những kẻ khác trong việc lợi dụng các cảm xúc của chúng ta theo những cách tinh vi và phức tạp hơn. Những nhà quảng cáo dồn dập tấn công chúng ta với những thông điệp cực nhanh và có hiệu quả cao. Sự kết nối liên tục của chúng ta với truyền thông xã hội khiến chúng ta thiên về những hình thức mới của các ảnh hưởng cảm xúc có tính lây lan. Những hình thức mới này không phải là dạng truyền thông được thiết kế cho suy nghĩ điềm tĩnh. Với sự hiện diện thường xuyên của chúng, chúng ta ngày càng có ít khoảng trống tinh thần để lùi lại và suy nghĩ. Chúng ta bị bao vây bởi những cảm xúc và xúc động không cần thiết như những người dân Athens trong Hội nghị, vì bản chất con người không hề thay đổi.

Rõ ràng những từ sáng suốt và thiếu sáng suốt có thể chứa đựng nhiều ý nghĩa. Con người luôn xem những ai bất đồng với họ là “thiếu sáng suốt”. Điều chúng ta cần là một định nghĩa đơn giản có thể áp dụng như một cách xét đoán, càng chính xác càng tốt, sự khác biệt giữa hai từ này. Ví dụ sau có thể phục vụ như một cái phong vũ biểu: Chúng ta thường có những cảm xúc, và chúng liên tục đầu độc suy nghĩ của chúng ta, khiến chúng ta xoay về phía những ý nghĩ làm vừa lòng chúng ta và ve vuốt cái tôi của chúng ta. Không thể nào có chuyện những xu hướng và cảm giác của chúng ta không liên quan tới những gì chúng ta suy nghĩ. Những người sáng suốt biết điều này, và thông qua sự quan sát nội tâm và nỗ lực, có thể, ở một mức độ nhất định, loại trừ các cảm xúc khỏi suy nghĩ của mình và hóa giải ảnh hưởng của chúng. Những người thiếu sáng suốt không có ý thức đó. Họ lao vào hành động mà không cẩn trọng cân nhắc những kết quả và hậu quả.

Chúng ta có thể nhìn thấy sự khác biệt trong những quyết định và hành động mà mọi người thực hiện, và kết quả sau đó. Những người sáng suốt dần dần chứng minh rằng họ có thể kết thúc một dự án, nhận thức được những mục tiêu của họ, và hoạt động hiệu quả với một đội ngũ, tạo nên thứ gì đó lâu dài. Những người thiếu sáng suốt để lộ những khuôn mẫu tiêu cực trong cuộc sống của họ - những sai lầm cứ lặp đi lặp lại, những xung đột không cần thiết vốn theo sau họ ở bất cứ nơi nào họ tới, những ước mơ và kế hoạch không bao giờ trở thành hiện thực, sự tức giận và những khao khát thay đổi không bao giờ được biến thành hành động cụ thể. Họ dễ xúc động, dễ phản ứng và không nhận ra điều này. Mọi người đều có khả năng đưa ra những quyết định thiếu sáng suốt, một số trong đó bắt nguồn từ những hoàn cảnh nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta. Và thậm chí những dạng người dễ xúc động nhất cũng có thể nảy ra những ý tưởng tuyệt vời và có những thành công nhất thời thông qua sự liều lĩnh. Vì thế, điều quan trọng là phải từ từ suy xét xem một cá nhân có sáng suốt hay không. Họ có thể duy trì sự thành công và nghĩ ra nhiều chiến lược tốt hay không? Họ có thể điều chỉnh và học hỏi từ những thất bại hay không?

Chúng ta cũng có thể nhìn thấy sự khác biệt giữa một người sáng suốt và thiếu sáng suốt trong những tình huống cụ thể, khi cần phải tính tới những ảnh hưởng lâu dài và nhìn thấy những điều thật sự quan trọng. Ví dụ: Trong một quá trình ly hôn với các vấn đề chăm sóc con cái, những người sáng suốt sẽ tìm cách bỏ qua cảm xúc bực dọc và thành kiến của mình để xét xem đâu là những lợi ích toàn diện lâu dài của đứa con. Những người thiếu sáng suốt sẽ chỉ nghĩ tới một cuộc đấu tranh quyền lực với vợ/chồng, sẽ để cho lòng oán ghét và những mong muốn trả thù kín đáo dẫn dắt các quyết định của họ. Điều này sẽ dẫn tới những sai lầm và những kết quả không như mong muốn mà cá nhân thiếu sáng suốt sẽ đổ cho những kẻ khác. Điều này sẽ dẫn tới một trận chiến kéo dài và đứa con bị tổn thương.

Trong trường hợp cần thuê một trợ lý hoặc cộng sự, những người sáng suốt sẽ sẽ lấy năng lực của người kia làm thước đo, họ có thể làm công việc đó không? Một người thiếu sáng suốt sẽ dễ dàng bị mê hoặc bởi những người quyến rũ, những kẻ biết cách nuôi dưỡng sự bất an của họ, hoặc những kẻ đưa ra những thách thức hoặc đe dọa nhỏ, và sẽ thuê họ mà không nhận ra các nguyên nhân. Điều này sẽ dẫn tới những sai lầm và những hậu quả. Khi đưa ra những quyết định về nghề nghiệp, những người sáng suốt sẽ tìm những vị trí phù hợp với các mục tiêu lâu dài của mình. Dạng thiếu sáng suốt sẽ quyết định dựa trên việc họ có thể lập tức kiếm được bao nhiêu tiền, những thứ mà họ cảm thấy là mình xứng đáng có được trong cuộc sống (đôi khi rất nhỏ bé), họ có thể giảm bớt bao nhiêu nỗ lực trong công việc, hoặc vị trí đó mang tới cho họ bao nhiêu sự chú ý của người khác. Điều này sẽ dẫn tới những ngõ cụt trong sự nghiệp.

Trong mọi trường hợp, mức độ nhận thức tiêu biểu cho sự khác biệt. Những người sáng suốt có thể dễ dàng thừa nhận các xu hướng thiếu sáng suốt và nhu cầu cảnh giác của chính mình. Mặt khác, những kẻ thiếu sáng suốt trở nên dễ xúc động cực độ khi bị nghi ngờ về những nguồn gốc cảm xúc trong các quyết định của mình. Họ không thể quan sát nội tâm và học hỏi. Những sai lầm của họ khiến họ ngày càng trở nên phòng thủ.

Điều quan trọng là phải hiểu rằng sự sáng suốt không phải là phương tiện để vượt qua cảm xúc. Bản thân Pericles đánh giá cao hành động táo bạo và mạo hiểm. Ông yêu quý tinh thần của Athena và cảm hứng bà mang tới. Ông muốn người Athens yêu mến thành phố của họ và cảm thông với các công dân đồng hương của họ. Điều ông hình dung là một trạng thái cân bằng - một sự thấu hiểu rõ ràng vì sao chúng ta cảm nhận được cách chúng ta hành động, ý thức được những thôi thúc của mình để có thể suy nghĩ mà không bị thúc ép một cách kín đáo bởi những cảm xúc. Pericles muốn năng lượng xuất phát từ những thôi thúc và cảm xúc phục vụ cho cái tôi biết suy nghĩ của chúng ta. Đó là hình dung của ông về sự sáng suốt, và là lý tưởng của chúng ta.

May thay, việc đạt được sự sáng suốt không phức tạp lắm. Nó chỉ đòi hỏi chúng ta biết và hành động qua một tiến trình ba bước.

Đầu tiên, chúng ta phải trở nên có ý thức về điều mà chúng ta gọi là Sự thiếu sáng suốt cấp độ thấp. Đây là một hoạt động của những tâm trạng và cảm giác liên tiếp mà chúng ta trải nghiệm trong cuộc sống, bên dưới cấp độ ý thức. Khi lên kế hoạch hay ra quyết định, chúng ta không biết những tâm trạng và cảm giác khiến cho quá trình tư duy bị thiên lệch nhiều đến mức nào. Chúng tạo ra trong suy nghĩ của chúng ta những định kiến mạnh mẽ vốn ăn sâu trong chúng ta đến độ chúng ta nhìn thấy chứng cứ của chúng trong mọi nền văn hóa và mọi thời kỳ lịch sử. Những định kiến này, thông qua việc bóp méo hiện thực, dẫn tới những sai lầm và những quyết định không hiệu quả, gây khó cho cuộc sống của chúng ta. Khi ý thức về chúng, chúng ta có thể bắt đầu tạo đối trọng với các ảnh hưởng của chúng.

Thứ hai, chúng ta phải hiểu bản chất của điều mà chúng ta gọi là sự thiếu sáng suốt cấp độ cao. Tình trạng này xảy ra khi cảm xúc của chúng ta bừng bừng trỗi dậy, nói chung là do những áp lực nhất định. Khi chúng ta suy nghĩ về sự tức giận, kích động, căm ghét hay nghi ngờ của mình, nó gia tăng cường độ thành một trạng thái có tính chất phản ứng - mọi thứ chúng ta nhìn thấy hay nghe thấy được diễn dịch qua thấu kính của cảm xúc này. Chúng ta trở nên dễ xúc động hơn và có xu hướng ngả sang những phản ứng cảm xúc khác nhiều hơn. Sự nôn nóng và oán ghét có thể chồng lấn lên sự tức giận và nghi ngờ sâu sắc. Những trạng thái phản ứng này là thứ dẫn con người tới bạo lực, tới những ám ảnh cuồng loạn, tới lòng tham không thể kiểm soát được, hoặc tới những khao khát kiểm soát các cá nhân khác. Hình thức thiếu sáng suốt này là nguồn gốc của những vấn đề sâu sắc hơn - những khủng hoảng, những xung đột, và những quyết định tai hại. Việc thấu hiểu cách hoạt động của dạng thiếu sáng suốt này có thể cho phép chúng ta nhận ra trạng thái phản ứng như nó đang diễn ra và lùi lại trước khi chúng ta làm một điều khiến chúng ta phải hối tiếc.

Thứ ba, chúng ta cần thực thi những chiến lược và bài tập nhất định vốn củng cố bộ phận tư duy của não và trao cho nó nhiều sức mạnh hơn trong cuộc đấu tranh nội tâm với những cảm xúc của chúng ta.

Ba bước sau sẽ giúp bạn bắt đầu trên con đường hướng tới sự sáng suốt. Việc hợp nhất cả ba bước này trong nghiên cứu và thực hành của bạn về bản chất con người là một điều khôn ngoan.

Bước một: Nhận diện những định kiến

Những cảm xúc liên tục tác động tới các quá trình tư duy và những quyết định của chúng ta, bên dưới cấp độ ý thức của chúng ta. Và cảm xúc phổ biến nhất trong số này là mong muốn vui khoái và mong muốn tránh né sự đau đớn. Những ý nghĩ hầu như xoay quanh một cách không thể tránh được quanh mong muốn này; chúng ta đơn giản chùn lại trước việc xem xét những ý tưởng gây khó chịu hay đau khổ. Chúng ta tưởng tượng mình đang tìm kiếm sự thật, hay đang hành động một cách thực tế, khi thật ra chúng ta đang bám vào những ý tưởng vốn giúp chúng ta thoát khỏi sự căng thẳng và ve vuốt cái tôi của mình, khiến chúng ta cảm thấy mình cao hơn kẻ khác. Nguyên tắc sự vui khoái trong suy nghĩ này là nguồn cội của mọi định kiến trong trí óc chúng ta. Nếu bạn tin rằng theo cách nào đó bạn miễn nhiễm với bất kỳ định kiến nào trong số sau đây, nó đơn giản chỉ là một ví dụ của nguyên tắc vui khoái đang hoạt động.

Định kiến xác quyết

Tôi nhìn vào chứng cứ và đi tới quyết định của mình thông qua những quá trình ít nhiều có tính chất sáng suốt.

Để bám lấy một ý tưởng và tự thuyết phục rằng mình đã đạt tới nó một cách sáng suốt, chúng ta tìm kiếm chứng cứ ủng hộ cho quan điểm của mình. Còn gì khách quan và khoa học hơn thế nữa? Nhưng do nguyên tắc vui khoái và ảnh hưởng vô thức của nó, chúng ta cố xoay xở tìm ra chứng cứ xác quyết cho điều chúng ta muốn tin. Đây gọi là định kiến xác quyết.

Chúng ta có thể nhìn thấy định kiến này xuất hiện trong những kế hoạch của mọi người, nhất là những kẻ với những khoản đặt cược cao. Một kế hoạch được thiết kế để dẫn tới một mục tiêu mong muốn tích cực. Nếu mọi người cho rằng các hậu quả tiêu cực và tích cực có khả năng ngang nhau, hẳn họ thấy khó mà thực hiện bất kỳ hành động nào. Họ không tránh khỏi quay sang phía thông tin khẳng định cho những kết quả mong muốn tích cực, viễn cảnh tươi hồng, mà không hề nhận ra điều này. Chúng ta cũng nhìn thấy định kiến này xuất hiện khi mọi người tìm kiếm lời khuyên. Đây là cơn ác mộng đối với hầu hết những nhà tư vấn. Rốt cuộc, mọi người chỉ muốn nghe thấy các ý tưởng và sở thích của họ được khẳng định bởi ý kiến của một chuyên gia. Họ sẽ diễn dịch những gì bạn nói sau khi cân nhắc với điều họ muốn nghe; và nếu lời khuyên của bạn trái với mong muốn của họ, họ sẽ tìm được cách nào đó để gạt bỏ quan điểm của bạn, cái gọi là ý kiến chuyên môn của bạn. Càng có nhiều quyền lực, cá nhân đó càng lệ thuộc vào định kiến xác quyết.

Khi điều tra định kiến xác quyết trong thế giới, hãy nhìn vào các lý thuyết dường như quá hoàn hảo khó mà đúng được. Những số liệu thống kê và nghiên cứu được viện đến để chứng minh chúng; không quá khó để tìm ra những thứ này, khi bạn tin chắc vào sự đúng đắn của lý lẽ của mình. Trên mạng Internet, dễ tìm được những nghiên cứu ủng hộ cả hai phía của một lập luận. Nhìn chung, bạn không bao giờ nên chấp nhận giá trị của ý tưởng của mọi người chỉ vì họ đưa ra “chứng cứ”. Thay vì vậy, bạn hãy tự mình kiểm tra chứng cứ đó trong khi đã suy nghĩ kỹ càng, với càng nhiều hoài nghi càng tốt. Thôi thúc đầu tiên của bạn luôn là tìm ra chứng cứ bác bỏ những niềm tin đáng quý nhất của mình và của những người khác. Đó là khoa học chân chính.

Định kiến Tin chắc

Tôi tin chắc vào ý tưởng này. Nó phải đúng.

Chúng ta bám vào một ý tưởng vốn làm hài lòng chúng ta một cách kín đáo, nhưng sâu thẳm bên trong, hẳn chúng ta có một số nghi ngờ về tính chân thật của nó, và thế là chúng ta nỗ lực để tự thuyết phục mình - để nhiệt thành tin vào nó và để lớn tiếng phủ nhận bất cứ kẻ nào thách thức chúng ta. Chúng ta tự nhủ: Làm sao ý tưởng của mình lại không đúng trong khi nó mang tới cho mình một năng lượng lớn như thế để bảo vệ nó? Định kiến này bộc lộ rõ ràng hơn trong mối quan hệ giữa chúng ta và những người lãnh đạo - nếu họ phát biểu một ý kiến với những ngôn từ và điệu bộ sôi nổi, những ẩn dụ đầy màu sắc và những giai thoại thú vị, và một niềm tin sâu sắc, nó phải có nghĩa rằng họ đã cẩn thận kiểm tra để phát biểu nó với một sự chắc chắn như thế. Mặt khác, những người có các phát biểu lòng vòng hay giọng nói của họ có vẻ do dự sẽ để lộ sự yếu ớt và tự nghi ngờ. Có lẽ họ đang nói dối, hoặc chúng ta nghĩ như vậy. Định kiến này khiến chúng ta dễ bị tác động bởi những người bán hàng và những kẻ mị dân vốn thể hiện sự tin chắc như một cách để thuyết phục và lừa dối. Họ biết rằng mọi người khao khát được tiêu khiển, vì thế họ khoác lên những sự thật nửa vời của mình những hiệu ứng đầy kịch tính.

Định kiến Bề ngoài

Tôi hiểu những người tôi giao thiệp; tôi nhìn thấy họ đúng như bản chất của họ.

Chúng ta nhìn thấy mọi người không phải như bản chất của họ, mà như vẻ bề ngoài của họ. Và vẻ bề ngoài của họ thường gây ấn tượng sai lầm. Đầu tiên, mọi người đã tự rèn luyện trong các tình huống xã hội để thể hiện một vẻ ngoài phù hợp và được xét đoán một cách tích cực. Họ tỏ ra ủng hộ những chính nghĩa cao quý, luôn tự thể hiện là mình lao động chăm chỉ và tận tâm. Chúng ta tưởng những cái mặt nạ này là thật. Thứ hai, chúng ta có xu hướng ngả theo hiệu ứng hào quang - khi nhìn thấy những phẩm chất tiêu cực hay tích cực nhất định ở một cá nhân (vụng về hay khôn ngoan trong giao tiếp), chúng gợi ra những phẩm chất tích cực hay tiêu cực khác phù hợp với phẩm chất này. Nhìn chung, những kẻ dễ nhìn có vẻ đáng tin cậy hơn, nhất là những chính khách. Nếu một cá nhân thành đạt, chúng ta tưởng tượng rằng có lẽ anh ta cũng có đạo đức, tận tâm, và xứng đáng với vận may của anh ta. Định kiến này che mờ thực tế rằng nhiều người thành công đã đạt được điều đó thông qua những hành động kém đạo đức hơn, mà họ đã khôn ngoan che đậy khỏi con mắt người đời.

Định kiến Nhóm

Những ý tưởng của tôi là của chính tôi. Tôi không lắng nghe nhóm. Tôi không phải là người sống theo quan điểm của kẻ khác.

Về bản chất, chúng ta là những động vật xã hội. Cảm giác lẻ loi hay khác biệt với nhóm gây khó chịu và đáng sợ. Chúng ta cảm thấy cực kỳ dễ chịu khi nhận ra những người khác suy nghĩ giống như mình. Thật sự, chúng ta bị thôi thúc tiếp nhận những ý tưởng hay quan điểm là bởi vì chúng mang tới cho chúng ta sự nhẹ nhõm này. Chúng ta không nhận ra sức hút này và do đó tưởng tượng rằng chúng ta đã nghĩ ra những ý tưởng hoàn toàn của chính mình. Hãy nhìn những kẻ ủng hộ một đảng phái này hoặc đảng phái khác, một ý thức hệ - một tín điều nổi bật hay những điều được công nhận là đúng đắn, dù không có bất cứ một ai nói bất cứ điều gì hay sử dụng sức ép công khai nào. Nếu một người ủng hộ cánh hữu hay cánh tả, hầu như những ý kiến của họ về hàng chục vấn đề luôn theo cùng một hướng, như thể do phép lạ, thế nhưng có rất ít người thừa nhận ảnh hưởng này đối với những khuôn mẫu tư duy của họ.

Định kiến Đổ lỗi

Tôi học hỏi được từ kinh nghiệm và những sai lầm của mình.

Những sai lầm và thất bại tạo ra nhu cầu lý giải. Chúng ta muốn học bài học và không lặp lại kinh nghiệm đó. Nhưng trong thực tế, chúng ta không thích nhìn quá kỹ vào những gì chúng ta đã làm; sự quan sát nội tâm của chúng ta rất hạn chế. Phản ứng tự nhiên của chúng ta là đổ lỗi cho kẻ khác, hoàn cảnh, hay một phán đoán sơ sót nhất thời. Nguyên nhân của định kiến này là do việc nhìn vào những sai lầm của mình, mà nó thường là quá đau khổ. Nó buộc chúng ta phải tự vấn về những cảm giác ưu việt của mình. Nó chọc thẳng vào bản ngã của chúng ta. Chúng ta thực hiện điều đó một cách qua loa, vờ như ngẫm nghĩ nhiều lắm về những gì chúng ta đã làm. Nhưng theo thời gian, nguyên tắc vui khoái nổi lên và chúng ta quên mất cái phần nhỏ trong sai lầm mà chúng ta tự gán cho mình là gì. Mong muốn và cảm xúc sẽ một lần nữa khiến cho chúng ta mù quáng, và chúng ta sẽ lặp lại đúng sai lầm cũ và trải qua cùng một quá trình nhẹ nhàng tự trách bản thân, kế tiếp là sự quên lãng, cho tới khi chúng ta chết. Nếu mọi người thật sự học được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ thấy rất ít sai lầm trên cõi thế và những con đường sự nghiệp sẽ luôn thăng tiến.

Định kiến Hơn người

Tôi khác biệt. Tôi sáng suốt hơn những người khác, và cũng có đạo đức hơn.

Rất ít người nói ra điều này khi đối thoại với mọi người. Nó có vẻ ngạo mạn quá. Nhưng trong vô số cuộc thăm dò dư luận và nghiên cứu, khi được yêu cầu tự so sánh mình với những người khác, nhìn chung mọi người phát biểu nhiều cách khác nhau về vấn đề này. Nó tương tự như một ảo tưởng thị giác - dường như chúng ta không thể nhìn thấy những khuyết điểm và sự thiếu sáng suốt của mình mà chỉ nhìn thấy chúng ở kẻ khác. Chẳng hạn chúng ta dễ dàng tin rằng những người thuộc một đảng phái khác không hình thành quan điểm của họ dựa trên những nguyên tắc sáng suốt, mà chỉ những người thuộc đảng phái của mình mới thế. Ở mặt trận đạo đức, rất ít người trong số chúng ta chịu thừa nhận rằng chúng ta đã hành động dựa vào sự dối trá hay thủ đoạn hay đã tỏ ra khôn ngoan và có chiến lược trong quá trình thăng tiến sự nghiệp. Mọi thứ chúng ta đạt được, hay nghĩ là đạt được, đều xuất phát từ tài năng tự nhiên và lao động cần cù. Nhưng với những người khác, chúng ta nhanh chóng gán cho họ mọi kiểu chiến thuật nham hiểm. Điều này cho phép chúng ta biện minh cho bất kỳ điều gì chúng ta làm, bất chấp các kết quả.

Chúng ta cảm thấy bị thôi thúc mạnh mẽ để hình dung bản thân là sáng suốt, tử tế, và có đạo đức. Đây là những phẩm chất được đề cao trong văn hóa. Biểu lộ những dấu hiệu khác là có nguy cơ đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ. Nếu tất cả những điều này là đúng - nếu mọi người đều vượt trội hơn kẻ khác về sự sáng suốt và đạo đức - thế giới sẽ tràn ngập điều thiện và sự thanh bình. Tuy nhiên, chúng ta biết sự thật, và một số người, có lẽ tất cả chúng ta, đều chỉ tự đánh lừa mình. Sự sáng suốt và các phẩm chất đạo đức phải đạt được thông qua nhận thức và sự nỗ lực. Chúng không đến một cách tự nhiên, chúng đến thông qua một quá trình trưởng thành.

Bước hai: Cảnh giác đối với những yếu tố kích động.

Những cảm xúc cấp độ thấp liên tục tác động tới tư duy của chúng ta, và chúng bắt nguồn từ chính những thôi thúc của chúng ta - ví dụ, mong muốn đối với những ý tưởng khiến chúng ta hài lòng và dễ chịu. Tuy nhiên, cảm xúc cấp độ cao xuất hiện vào những thời điểm nhất định, đạt tới cao độ bùng nổ, và nói chung nó được khơi gợi bởi một yếu tố bên ngoài - một cá nhân khiến cho chúng ta rất tức giận, hoặc những tình huống cụ thể. Mức độ khuấy động cao hơn, và nó bắt chúng ta phải hoàn toàn chú ý. Chúng ta càng nghĩ tới cảm xúc này, nó càng trở nên mạnh mẽ, khiến chúng ta tập trung hơn vào nó, và cứ thế. Tâm trí chúng ta len lỏi vào cảm xúc đó, và mọi thứ nhắc cho chúng ta nhớ tới sự tức giận hay kích động của mình. Chúng ta trở nên dễ phản ứng. Vì chúng ta không thể chịu được sự căng thẳng mà nó mang tới, cảm xúc cấp độ cao thường lên tới cực điểm trong một hành động đột ngột với những hậu quả nguy hiểm. Giữa một cuộc tấn công như thế chúng ta cảm thấy bị xâm chiếm, như thể một cái tôi thứ hai nhạy cảm đã nắm quyền kiểm soát.

Tốt nhất là ý thức được những yếu tố này để bạn có thể ngăn tâm trí len lỏi chui vào cảm xúc và phòng ngừa hành động bộc phát mà bạn sẽ luôn cảm thấy hối tiếc vì nó. Bạn cũng nên ý thức về sự thiếu sáng suốt cấp độ cao ở những người khác, để tránh xa họ hoặc giúp họ quay lại với thực tại.

Những điểm kích hoạt từ thuở đầu đời

Vào thuở đầu đời, chúng ta ở trong tình trạng non nớt và dễ bị tổn thương nhất. Càng lùi trở về thời gian trước đó, quan hệ giữa chúng ta và cha mẹ càng có một ảnh hưởng lớn hơn. Có thể nói tương tự với bất kỳ trải nghiệm mạnh mẽ nào trong thuở đầu đời. Những điểm dễ tổn thương và những vết thương này sẽ hằn sâu trong tâm trí chúng ta. Đôi khi chúng ta cố trấn áp ký ức về những ảnh hưởng này, nếu chúng có tính chất tiêu cực - những nỗi sợ hãi hoặc nhục nhã trầm trọng. Tuy nhiên, đôi khi chúng cứ bám theo những cảm xúc tích cực, những trải nghiệm về tình yêu và sự chú ý mà chúng ta tiếp tục muốn hồi tưởng lại. Về sau, một cá nhân hay sự kiện sẽ kích hoạt một ký ức về trải nghiệm tích cực hay tiêu cực này, và cùng với nó là một sự giải phóng các hóa chất hoặc hormone công hiệu gắn liền với ký ức đó.

Ví dụ, hãy xét trường hợp một thanh niên có một bà mẹ xa cách và ái kỷ. Khi còn là trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ, anh ta trải nghiệm sự lãnh đạm của bà như một sự ruồng bỏ, và bị ruồng bỏ phải có nghĩa là theo cách nào đó anh ta không xứng đáng với tình yêu của bà. Hoặc tương tự, một đứa em mới sinh khiến mẹ anh ta ít chú ý tới anh ta hơn, và anh ta cũng xem việc này như một sự ruồng bỏ. Sau này, trong một mối quan hệ, một phụ nữ có thể ám chỉ bóng gió sự không tán thành một tính cách hay hành động của anh ta, tất cả đều là chuyện bình thường trong một mối quan hệ lành mạnh. Nhưng điều này sẽ chạm vào một điểm kích hoạt - cô ta đang chú ý tới những thiếu sót mà anh ta tưởng tượng sẽ kéo theo việc cô ta ruồng bỏ anh ta. Anh ta có một cảm xúc rất mạnh mẽ, một cảm giác sắp sửa bị phụ bạc. Anh ta không nhìn thấy nguồn gốc của nó; nó nằm ngoài sự kiểm soát của anh ta. Anh ta phản ứng thái quá, lên án, rút lui, tất cả dẫn tới chính điều anh ta e sợ - sự ruồng bỏ. Phản ứng của anh ta hướng tới một hồi ức nào đó trong tâm trí anh ta chứ không phải thực tại. Đây là đỉnh cao của sự thiếu sáng suốt.

Cách để nhận ra hiện tượng này ở bạn hay ở người khác là nhận ra hành vi có tính chất trẻ con một cách bất ngờ ở mức độ và sự dường như khác biệt của nó so với tính cách bình thường. Hành vi này có thể tập trung ở bất cứ cảm xúc chủ yếu nào. Nó có thể là nỗi e sợ đối với sự mất kiểm soát hay thất bại. Trong trường hợp này, chúng ta phản ứng bằng cách rút lui khỏi tình huống đó và khỏi sự có mặt của những người khác, như một đứa bé cuộn tròn người lại. Một trạng thái ốm yếu bất ngờ, do sự sợ hãi căng thẳng mang tới, sẽ thôi thúc chúng ta rời khỏi hiện trường. Nó có thể là tình yêu - sự tìm kiếm một cách tuyệt vọng để thiết lập lại một quan hệ cha mẹ - con cái hay anh chị em ruột gần gũi trong hiện tại, được khơi gợi bởi một ai đó, kẻ mơ hồ nhắc cho chúng ta nhớ tới thiên đường đã mất. Nó có thể là sự nghi ngờ cực độ, bắt nguồn từ một nhân vật có thẩm quyền vào thuở đầu đời, kẻ đã phản bội hay khiến cho chúng ta thất vọng, thường là người cha. Điều này thường khơi gợi một thái độ nổi loạn đột ngột.

Mối nguy lớn ở đây là khi hiểu sai hiện tại và phản ứng với một thứ gì đó trong quá khứ, chúng ta tạo ra xung đột, những thất vọng và nghi ngờ vốn chỉ khoét sâu thêm vết thương. Trong một số cách thức, chúng ta được lập trình để lặp lại trải nghiệm đầu đời trong hiện tại. Cách tự vệ duy nhất của chúng ta là sự nhận biết như nó đang diễn ra. Chúng ta có thể nhận ra một điểm kích hoạt thông qua kinh nghiệm về cảm xúc vốn ban sơ một cách bất thường, khó kiểm soát hơn mức bình thường. Chúng khơi gợi những giọt nước mắt, sự chán nản sâu sắc hay niềm hy vọng thái quá. Mọi người chịu tác động mạnh của những cảm xúc này thường sẽ có một giọng nói và ngôn ngữ cơ thể rất khác, như thể họ đang thật sự sống lại một khoảnh khắc đầu đời.

Giữa một cuộc tấn công như thế, chúng ta phải đấu tranh để tự thoát khỏi và suy ngẫm về nguồn khả dĩ - vết thương thuở đầu đời - và những khuôn mẫu mà nó đã giam hãm chúng ta bên trong. Hiểu biết sâu sắc này về chính mình và những điểm dễ tổn thương của bản thân là bước then chốt để trở nên sáng suốt.

Những thành công hay thất bại bất ngờ

Thành công hay thắng cuộc bất ngờ rất nguy hiểm. Theo thần kinh học, những hóa chất được giải phóng trong não vốn mang tới một đợt kích thích và năng lượng công hiệu dẫn tới mong muốn lặp lại trải nghiệm này. Nó có thể là sự khởi đầu của mọi dạng nghiện ngập và hành vi cuồng loạn. Cũng vậy, khi lợi lộc đến nhanh, chúng ta có xu hướng đánh mất tầm nhìn của trí khôn cơ bản rằng thành công thật sự, để thật sự lâu dài, phải đến thông qua lao động cần cù. Chúng ta không xét tới vai trò của sự may mắn trong những lợi lộc bất ngờ đó. Chúng ta cố nắm bắt lại cảm giác lâng lâng khi thắng được rất nhiều tiền hay nhận được rất nhiều sự chú ý. Chúng ta đạt được những cảm giác tuyệt vời. Chúng ta kiên quyết chống đối bất kỳ kẻ nào cố cảnh báo chúng ta - họ không hiểu, chúng ta tự nhủ. Vì điều này không thể kéo dài, chúng ta trải nghiệm một cú rơi không thể tránh khỏi, vốn chỉ gây thêm đau khổ, dẫn tới giai đoạn suy thoái của chu kỳ. Dù những tay cờ bạc có xu hướng vướng vào tình trạng này nhất, nó cũng có thể đúng đối với những doanh nhân trong những đợt bong bóng kinh tế và những người nhận được sự chú ý bất ngờ từ công chúng.

Những thất bại bất ngờ hoặc một chuỗi thất bại cũng tạo ra những phản ứng thiếu sáng suốt tương tự. Chúng ta tưởng tượng rằng mình bị vận rủi nguyền rủa và tình trạng này sẽ tiếp diễn vô hạn định. Chúng ta trở nên e sợ và do dự, vốn sẽ dẫn tới nhiều sai lầm hoặc thất bại hơn. Trong thể thao, điều này được biết như tình trạng nghẹt thở, khi những thất bại và vuột mất chiến thắng trước đây đè nặng lên tâm trí và làm nó bị khớp.

Giải pháp ở đây rất đơn giản: Bất cứ khi nào bạn trải nghiệm những thành công hay thất bại bất ngờ, đó chính là thời điểm để lùi lại và cân bằng chúng với một thái độ bi quan hay lạc quan cần thiết. Hãy cực kỳ cảnh giác đối với thành công và sự chú ý bất ngờ - chúng không được xây dựng trên bất cứ thứ gì tồn tại lâu bền và chúng có một sức hút mang tính gây nghiện. Và cú rơi luôn gây đau đớn.

Áp lực tăng lên

Nhìn chung, mọi người xung quanh bạn có vẻ tỉnh táo và kiểm soát được cuộc sống của họ. Nhưng cứ đặt bất kỳ ai trong số họ vào những hoàn cảnh căng thẳng, với áp lực tăng cao dần, bạn sẽ nhìn thấy một thực tế khác. Tấm mặt nạ bình thản của sự tự chủ rơi xuống. Họ đột nhiên tấn công kẻ khác trong cơn tức giận, để lộ một tính tình hoang tưởng, trở nên nhạy cảm thái quá và thường tỏ ra nhỏ mọn. Dưới sức ép của bất kỳ mối đe dọa nào, những phần nguyên thủy nhất của não bị khuấy động và kích hoạt, lấn áp khả năng suy luận của mọi người. Trên thực tế, sức ép và sự căng thẳng có thể để lộ những nhược điểm mà mọi người đã cẩn thận che đậy. Thường là một việc làm khôn ngoan khi quan sát mọi người vào những thời điểm như thế; đó chính xác là một cách để xét đoán cá tính thật sự của họ.

Bất cứ khi nào bạn nhận thấy áp lực và những mức độ căng thẳng tăng lên trong cuộc sống của mình, bạn phải cẩn thận theo dõi bản thân. Giám sát bất kỳ dấu hiệu nào của trạng thái dễ bị suy sụp và sự nhạy cảm, những mối hoài nghi bất ngờ, những nỗi e sợ không tương xứng với các hoàn cảnh. Quan sát với càng nhiều suy xét khách quan càng tốt, tìm ra thời gian và không gian để ở một mình. Bạn cần phải nhìn xa. Không bao giờ tưởng tượng rằng bạn là ai đó, kẻ có thể chống lại sự căng thẳng tăng lên mà không bị để lộ cảm xúc. Đó là điều không thể có. Nhưng thông qua sự tự ý thức và suy xét cẩn trọng bạn có thể ngăn ngừa bản thân ra những quyết định mà sau đó sẽ khiến cho bạn hối tiếc.

Những cá nhân kích động

Trong thế giới có những kẻ mà bản chất của họ có xu hướng kích động những cảm xúc mạnh ở hầu hết những ai họ gặp. Những cảm xúc này nằm trong phạm vi các cực của tình yêu, sự căm ghét, lòng tự tin và sự nghi ngờ. Có thể kể ra một số ví dụ trong lịch sử như Vua David trong Kinh Thánh, Alcibiades ở Athens cổ đại, Julius Caesar ở La Mã cổ đại, Georges Danton trong thời kỳ Cách mạng Pháp, và Bill Clinton. Những dạng này có một mức độ uy tín nhất định - họ có khả năng diễn tả một cách hùng hồn những cảm xúc của mình, vốn không thể tránh khỏi việc khuấy động những cảm xúc tương tự ở những người khác. Nhưng một số trong đó cũng có thể hoàn toàn ái kỷ; họ phát ra bên ngoài tấn kịch nội tâm và những rắc rối của họ, lôi cuốn những người khác vào tình trạng hỗn loạn mà họ tạo ra. Điều này dẫn tới những cảm giác thu hút mạnh mẽ ở một số người và kinh tởm ở một số khác.

Tốt nhất là nhận ra những kẻ kích động này thông qua cách họ tác động những người khác, chứ không chỉ bản thân bạn. Không ai có thể thờ ơ mãi với họ. Mọi người nhận ra mình không thể suy xét hay duy trì bất cứ khoảng cách nào khi họ có mặt ở đó. Họ khiến cho bạn liên tục suy nghĩ về họ khi họ không có mặt ở đó. Họ có một phẩm chất gây ám ảnh, và có thể dẫn bạn tới những hành động cực đoan như là một môn đồ hữu ích hay một kẻ thù thâm căn cố đế. Ở bất cứ đầu nào của phổ (spectrum) này - thu hút hay kinh tởm - bạn sẽ có xu hướng trở nên thiếu sáng suốt và bạn sẽ cực kỳ cần phải tránh xa họ. Một chiến lược tốt để vận dụng là nhìn xuyên qua lớp vỏ bọc mà họ thể hiện. Họ không thể tránh khỏi việc cố tạo ra một hình ảnh cực kỳ ấn tượng, một phẩm chất huyền thoại, đáng sợ; nhưng trên thực tế tất cả họ đều quá con người, đầy những bất an và yếu đuối mà tất cả chúng ta đều có. Hãy cố nhận ra những đặc điểm rất con người này và giải thiêng họ.

Hiệu ứng của nhóm

Đây là biến thể ở cấp độ cao của định kiến nhóm. Khi ở trong một nhóm đủ lớn, chúng ta trở nên khác đi. Hãy chú ý tới bản thân và những người khác ở một sự kiện thể thao, một buổi hòa nhạc, một cuộc tập hợp tôn giáo hay chính trị. Bạn không thể nào không cảm thấy bị xâm chiếm bởi những cảm xúc chung. Tim bạn đập nhanh hơn. Nước mắt vui hay buồn rơi một cách dễ dàng hơn. Việc ở trong một nhóm không khuấy động suy luận độc lập mà đúng hơn là một mong muốn mãnh liệt trở nên phụ thuộc vào nó. Điều này có thể xảy ra tương tự trong một môi trường làm việc, nhất là nếu người lãnh đạo khai thác cảm xúc của mọi người để kích thích những mong muốn có tính cạnh tranh, năng nổ, hoặc tạo ra một động lực “chúng ta-chống lại-họ”. Hiệu ứng của nhóm không nhất thiết đòi hỏi sự có mặt của những người khác. Nó có thể diễn ra một cách lây lan, khi một quan điểm nào đó lan truyền trên truyền thông xã hội và đầu độc chúng ta với mong muốn chia sẻ quan điểm đó - thông thường là về một bất đồng mạnh mẽ, chẳng hạn như sự giận dữ.

Có một khía cạnh vui vẻ, tích cực trong việc kích thích cảm xúc nhóm. Đó là cách chúng ta có thể được tập hợp lại để làm gì đó cho lợi ích chung. Nhưng nếu bạn nhận ra lời kêu gọi hướng tới những cảm xúc xấu xa hơn, như căm ghét kẻ khác, chủ nghĩa yêu nước mù quáng, thói hung hăng, hay những thế giới quan có tác động quá mạnh, bạn cần phải tự tiêm vaccine cho mình và nhìn thấu sức hút mạnh mẽ khi nó tác động tới bạn. Thông thường, tốt nhất là tránh môi trường nhóm nếu có thể để duy trì khả năng suy luận của bạn, hoặc để bước vào những khoảnh khắc như thế với sự hoài nghi tối đa.

Hãy nhận biết những kẻ mị dân, vốn khai thác ảnh hưởng của nhóm và kích động những cơn bộc phát sự thiếu sáng suốt. Họ không thể tránh khỏi việc sử dụng những công cụ nhất định. Trong một môi trường nhóm, họ bắt đầu bằng cách làm đám đông nóng lên, nói về những ý tưởng và giá trị mà mọi người chia sẻ, tạo ra một cảm giác đồng lòng nhất trí thú vị. Họ dựa vào những từ ngữ mơ hồ nhưng chuyên chở đầy phẩm chất gây xúc động như công lý, sự thật hoặc lòng yêu nước. Họ nói về những mục tiêu trừu tượng, cao quý thay vì giải quyết những vấn đề cụ thể với hành động cụ thể.

Những kẻ mị dân trong giới chính trị hoặc truyền thông cố khuấy động một cảm giác hoang mang, cấp thiết và giận dữ liên tục. Họ phải duy trì ở cảm xúc mức độ cao. Cách phòng vệ của bạn rất đơn giản: Xem xét những khả năng suy luận của mình, khả năng suy nghĩ cho chính bản thân, tài sản quý báu nhất của bạn. Không bằng lòng với bất kỳ dạng xâm phạm nào đối với đầu óc độc lập của bạn bởi những kẻ khác. Khi bạn cảm thấy bạn đang đứng trước một kẻ mị dân, hãy cảnh giác cao độ và phải có đầu óc phân tích.

MỘT LỜI CUỐI CÙNG VỀ SỰ THIẾU SÁNG SUỐT TRONG BẢN CHẤT CON NGƯỜI: Đừng tưởng rằng những dạng thiếu sáng suốt cực đoan hơn đã được khắc phục theo cách nào đó thông qua sự tiến bộ và khai sáng. Xuyên suốt lịch sử, chúng ta đã chứng kiến những chu kỳ tăng giảm liên tục của những cấp độ thiếu sáng suốt. Thời hoàng kim của Pericles, với những triết gia của nó và những khuấy động tinh thần khoa học đầu tiên của nó, được tiếp nối bởi một thời đại của sự mê tín, sự sùng bái và sự không khoan dung. Hiện tượng tương tự cũng diễn ra sau thời Phục hưng của Ý. Việc chu kỳ này buộc phải tái diễn trở đi trở lại là một phần của bản chất con người.

Sự thiếu sáng suốt chỉ đơn giản thay đổi vẻ ngoài và cung cách của nó. Có thể chúng ta không còn những cuộc săn phù thủy theo nghĩa đen, nhưng trong thế kỷ 20, cách đây không lâu lắm, chúng ta đã chứng kiến những phiên điều trần của McCathy(33) trong Thượng viện Hoa Kỳ, và những vụ khủng bố hàng loạt trong cách mạng Văn hóa Trung Quốc. Những sự sùng bái khác nhau tiếp tục nảy sinh, bao gồm những sự sùng bái cá nhân và sự tôn sùng những nhân vật nổi tiếng. Công nghệ hiện nay đem lại cảm hứng cho nhiệt tình tôn giáo. Mọi người có một nhu cầu rất lớn trong việc tin vào thứ gì đó và họ sẽ tìm được nó ở bất cứ chỗ nào. Những cuộc thăm dò dư luận đã tiết lộ rằng con số những người tin vào ma, linh hồn và thiên thần đang gia tăng trong thế kỷ 21.

Chừng nào con người còn tồn tại, sự thiếu sáng suốt sẽ tìm ra tiếng nói của nó và phương tiện để lan tỏa. Sự sáng suốt là một thứ đạt được bởi những cá nhân chứ không phải bởi những trào lưu đông đảo hay sự tiến bộ công nghệ. Cảm giác vượt khỏi và ở bên ngoài nó là một dấu hiệu chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết đang hoạt động.

Bước ba: Những chiến lược hướng tới việc thể hiện Cái tôi sáng suốt

Bất chấp những xu hướng thiếu sáng suốt rõ rệt của chúng ta, có hai yếu tố sẽ mang tới cho ta tất cả niềm hy vọng. Đầu tiên và trên hết là sự tồn tại xuyên suốt lịch sử và trong mọi nền văn hóa của những người sáng suốt ở cấp độ cao, dạng người đã tạo nên sự khả dĩ tiến bộ. Họ phụng sự như những lý tưởng để tất cả chúng ta hướng tới. Số này bao gồm Pericles, Vua Asoka của Ấn Độ cổ đại, Marcus Aurelius của La Mã cổ đại, Marguerite de Valois của Pháp thời trung cổ, Leonardo da Vinci, Charles Darwin, Abraham Lincohn, nhà văn Anton Chekhov, nhà nhân loại học Margaret Mead, và doanh nhân Warren Buffett, chỉ xin kể tên vài người như vậy. Tất cả những người thuộc dạng này có chung những phẩm chất nhất định - một sự đánh giá thực tế về bản thân họ và những nhược điểm của họ, một sự tận tâm đối với chân lý và thực tại, một thái độ khoan dung đối với mọi người, và khả năng đạt được những mục tiêu mà họ đã đặt ra.

Yếu tố thứ hai là ở một điểm nào đó trong cuộc sống, hầu hết tất cả chúng ta đều trải nghiệm những khoảnh khắc sáng suốt nhiều hơn. Điều này thường đến cùng với cái mà chúng ta gọi là tư duy của kẻ sáng tạo (makers mindset). Chúng ta có một dự án để thực hiện, có lẽ với một hạn chót. Cảm xúc duy nhất chúng ta có thể có là sự phấn khích và năng lượng. Những cảm xúc khác chỉ khiến cho chúng ta không thể tập trung. Vì phải đạt được những kết quả, chúng ta trở nên thực tế một cách khác thường. Chúng ta tập trung vào công việc - tâm trí chúng ta bình tĩnh, bản ngã của chúng ta không lan man. Nếu mọi người cố can thiệp hoặc tiêm nhiễm cảm xúc cho chúng ta, chúng ta không chấp nhận nó. Những khoảng thời gian này - sẽ lướt nhanh qua trong vài tuần hay vài giờ - để lộ bản ngã sáng suốt đang chờ xuất hiện. Nó chỉ đòi hỏi sự nhận thức và sự thực hành.

Những chiến lược sau được thiết kế để giúp bạn thể hiện một Pericles hoặc một Athena bên trong bạn:

Hiểu biết triệt để bản thân

Cái tôi Cảm xúc phát triển được là nhờ sự không hiểu biết. Khoảnh khắc bạn nhận thức được cách nó hoạt động và chế ngự bạn là khoảnh khắc bạn thoát khỏi sự khống chế của nó và có thể thuần phục nó. Do đó, bước đầu tiên của bạn tiến về phía sự sáng suốt luôn luôn ở bên trong. Bạn muốn nắm bắt Cái tôi Cảm xúc đó trong hành động. Vì mục đích này, bạn phải suy ngẫm về cách bạn hoạt động dưới sự căng thẳng. Những điểm yếu cụ thể nào xuất hiện trong những lúc như thế - mong muốn làm hài lòng, bắt nạt hay kiểm soát, những cấp độ sâu của sự nghi ngờ? Hãy nhìn vào những quyết định của bạn, nhất là những quyết định từng tỏ ra không hiệu quả - bạn có thể nhìn thấy một khuôn mẫu, một sự bất an nằm bên dưới vốn thúc ép chúng hay không? Kiểm tra những sức mạnh của bạn, điều khiến bạn khác biệt với những kẻ khác. Điều này sẽ giúp bạn quyết định về những mục tiêu ăn khớp với những lợi ích dài hạn của bạn và phù hợp với những kỹ năng của bạn. Bằng cách biết và đánh giá cao điều đã tạo cho bạn sự khác biệt, bạn cũng sẽ đủ sức chống lại sự lôi kéo của định kiến và hiệu ứng của nhóm.

Kiểm tra tận gốc rễ những cảm xúc của bạn

Bạn đang tức giận. Hãy để cho cảm giác đó hình thành từ bên trong, và suy nghĩ về nó. Nó có bị kích hoạt bởi một điều gì đó có vẻ tầm thường hay nhỏ mọn hay chăng? Đó là một dấu hiệu chắc chắn rằng một điều gì đó hay một ai đó khác đang ở phía sau nó. Có lẽ một cảm xúc khó chịu hơn đang hiện diện ở nguồn - chẳng hạn lòng đố kỵ hay sự hoang tưởng. Bạn phải nhìn thẳng vào cảm xúc này. Đào sâu bên dưới bất kỳ điểm kích hoạt nào để nhìn thấy chúng khởi phát từ đâu. Vì những mục đích này, sẽ là khôn ngoan khi sử dụng một cuốn sổ nhật ký trong đó bạn ghi lại những tự đánh giá bản thân với sự khách quan triệt để. Mối nguy hiểm lớn hơn của bạn ở đây là cái tôi của bạn và cách nó khiến cho bạn vô tình duy trì những ảo tưởng về bản thân. Những ảo tưởng này có thể có tính chất an ủi ở thời điểm hiện tại, nhưng về lâu dài chúng khiến cho bạn trở nên phòng thủ và không thể học hỏi hay tiến bộ. Tìm một vị trí trung lập từ đó bạn có thể quan sát những hành động của mình với một chút khách quan và thậm chí khôi hài. Chẳng bao lâu tất cả những điều này sẽ trở thành bản chất thứ hai, và khi Cái tôi Cảm xúc bất ngờ ngẩng đầu lên trong một tình huống nào đó, bạn sẽ nhìn thấy nó khi nó xảy ra và có thể lùi lại và tìm được vị trí trung lập đó.

Kéo dài thời gian trước khi phản ứng

Khả năng này đến thông qua thực hành và sự lặp lại. Khi một sự kiện hay tương tác nào đó đòi hỏi một phản ứng, bạn phải luyện cách lùi lại. Về mặt vật lý, điều này có thể mang nghĩa là bạn rút về một nơi bạn có thể ở một mình và không cảm thấy bất kỳ áp lực phải phản ứng nào. Hoặc có thể bạn viết một lá thư đầy tức tối nhưng không gửi nó đi mà nhét nó vào dưới gối một hoặc hai ngày. Bạn đừng gọi điện hoặc liên lạc với ai trong lúc đang có một cảm xúc bất ngờ nào đó, nhất là sự oán ghét. Nếu bạn nhận thấy mình đang vội vàng cam kết với mọi người để tuyển họ hoặc làm cho họ, hãy lùi lại chờ đợi một ngày. Lắng dịu cảm xúc đó lại. Bạn càng gác việc đó lại lâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, vì có thời gian mới đánh giá được. Hãy xem đây là việc tập luyện sự cưỡng kháng - thời gian cương lại phản ứng càng lâu, bạn càng có nhiều khoảng trống tinh thần để thật sự suy ngẫm, và tâm trí bạn càng trở nên mạnh mẽ.

Chấp nhận mọi người như thực tế

Những tương tác với mọi người là nguồn chủ yếu của sự rối loạn cảm xúc, nhưng không nhất thiết phải như thế. Vấn đề là chúng ta luôn phán xét mọi người, muốn họ là một thứ gì đó mà vốn dĩ họ không phải. Chúng ta muốn thay đổi họ. Chúng ta muốn họ suy nghĩ và hành động theo một cách thức nhất định, thông thường là cách chúng ta suy nghĩ và hành động. Và vì không thể có chuyện này, do mỗi người đều khác nhau, chúng ta tiếp tục chán nản và bực dọc. Thay vì vậy, hãy xem mọi người như những hiện tượng, có tính chất trung lập như những ngôi sao chổi hay cây cỏ. Họ chỉ đơn giản tồn tại. Họ xuất hiện trong sự đa dạng, khiến cuộc đời trở nên phong phú và thú vị. Hãy làm việc với thứ họ trao cho bạn thay vì chống lại hay cố thay đổi họ. Biến việc thấu hiểu mọi người thành một trò chơi vui vẻ, thành việc giải những câu đố rắc rối. Đó là tất cả các màn của tấn hài kịch đời người. Vâng, mọi người thiếu sáng suốt, nhưng bạn cũng thế. Hãy chấp nhận bản chất con người, càng triệt để càng tốt. Điều này sẽ làm cho bạn bình tĩnh lại và giúp bạn quan sát mọi người một cách vô tư hơn, thấu hiểu họ ở một cấp độ sâu hơn. Bạn sẽ thôi hướng những cảm xúc của bạn về phía họ. Tất cả những điều này sẽ mang tới cho bạn nhiều cân bằng và bình tĩnh hơn, nhiều khoảng trống tinh thần hơn để tư duy.

Đương nhiên, khó mà thực hiện điều này với những dạng người giống như cơn ác mộng vốn cản trở con đường của bạn - những kẻ tự yêu mình cuồng nhiệt, những kẻ gây hấn thụ động, và những kẻ chuyên kích động khác. Họ vẫn liên tục thử thách sự sáng suốt của bạn. Hãy nhìn vào nhà văn Nga Anton Chekhov, một trong những người cực kỳ sáng suốt từng sống trên đời, như một hình mẫu cho điều này. Gia đình ông đông người và nghèo túng, và cha ông, một người nghiện rượu, tàn nhẫn đánh đập tất cả các con, kể cả cậu bé Chekhov. Chekhov trở thành một bác sĩ và bắt đầu viết như một nghề tay trái. Ông vận dụng kiến thức y học của mình vào con người, mục tiêu của ông là thấu hiểu cái gì đã khiến cho chúng ta thiếu sáng suốt, khổ sở, và nguy hiểm như thế. Trong những truyện ngắn và vở kịch của mình, ông nhận thấy việc thâm nhập vào các nhân vật và thấu hiểu thậm chí những dạng tồi tệ nhất có tính chất trị liệu tuyệt vời. Theo cách này, ông có thể tha thứ cho bất kỳ người nào, ngay cả cha mình. Phương pháp của ông trong những trường hợp này là tưởng tượng rằng mỗi cá nhân, bất kể đồi bại ra sao, đều có một lý do cho con người hiện tại của họ, một logic dễ hiểu đối với họ. Theo cách thức riêng của mình, họ đang vật lộn để phát huy hết bản thân, nhưng thực hiện nó một cách thiếu sáng suốt. Bằng cách bước lùi lại và hình dung câu chuyện của họ từ bên trong, Chekhov giải thiêng những kẻ hung ác và thích gây sự; ông đưa họ về chiều kích con người. Họ không còn tạo ra sự oán ghét mà chỉ còn lòng thương hại. Bạn phải suy nghĩ nhiều hơn như một nhà văn trong khi tiếp cận mọi người bạn giao tiếp, ngay cả những dạng xấu xa nhất.

Tìm ra sự cân bằng tối ưu trong tư duy và cảm xúc

Chúng ta không thể loại bỏ các cảm xúc khỏi dòng suy nghĩ. Cả hai hoàn toàn đan quyện vào nhau. Nhưng chắc chắn có một yếu tố trong số chúng chiếm ưu thế; một số người bị điều khiển bởi cảm xúc rõ rệt hơn kẻ khác. Điều chúng ta tìm kiếm là một tỷ lệ đúng và sự cân bằng, vốn dẫn tới hành động hữu hiệu nhất. Người Hy Lạp cổ đại có một ẩn dụ thích hợp cho điều này: người cưỡi ngựa và con ngựa.

Con ngựa là bản chất nhiều cảm xúc của chúng ta, liên tục thôi thúc chúng ta di chuyển. Con ngựa này có một năng lượng và sức mạnh lớn lao, nhưng nếu không có người cưỡi, nó không biết đi về hướng nào; nó hoang dã, khó tránh khỏi dã thú ăn thịt, và liên tục đâm đầu vào rắc rối. Người cưỡi là bản ngã biết tư duy của chúng ta. Thông qua rèn luyện và thực hành, nó cầm cương và dẫn dắt con ngựa, biến năng lượng thú vật mạnh mẽ này thành một thứ có ích. Một bên thiếu bên kia thì chỉ vô dụng. Không có người cưỡi thì không có sự di chuyển theo chỉ đạo hay mục đích. Không có con ngựa thì không có sức mạnh và năng lượng. Trong hầu hết mọi người, con ngựa chiếm ưu thế, và người cưỡi yếu hơn. Ở một số người, người cưỡi rất mạnh mẽ, cầm cương rất chắc, và e ngại việc thi thoảng cho phép con ngựa phi nước đại. Con ngựa và người cưỡi phải cùng nhau làm việc. Điều này có nghĩa là chúng ta phải cân nhắc trước những hành động của mình, suy nghĩ càng nhiều càng tốt về một tình huống trước khi ra quyết định. Nhưng một khi đã quyết định làm gì, chúng ta nới lỏng dây cương, và bước vào hành động với sự táo bạo và một tinh thần mạo hiểm. Thay vì là nô lệ cho năng lượng này, chúng ta định hướng nó. Đó là bản chất của sự sáng suốt.

Như một ví dụ của lý tưởng này trong hành động, hãy cố duy trì một sự cân bằng hoàn hảo giữa sự hoài nghi (người cưỡi ngựa) và tính hiếu kỳ (con ngựa). Theo cách thức này, bạn hoài nghi về những nhiệt tình của chính mình và của người khác. Bạn không nên chấp nhận giá trị bề ngoài của những lý giải của mọi người và việc vận dụng “chứng cứ” của họ. Bạn nhìn vào kết quả của các hành động của họ, chứ không phải những gì họ nói về các động cơ của họ. Nhưng nếu bạn đi quá xa trong việc này, tâm trí bạn sẽ khép chặt trước những ý tưởng nhiệt tình, những suy đoán phấn khích, và bản thân sự hiếu kỳ. Bạn muốn duy trì sự linh hoạt của tinh thần mà bạn từng có khi còn trẻ, quan tâm tới mọi thứ, trong lúc vẫn giữ lại nhu cầu thực tế trong việc xác minh và kiểm tra cẩn thận cho chính mình về mọi ý tưởng và niềm tin. Cả hai có thể cùng tồn tại. Đó là một sự cân bằng mà mọi thiên tài đều có.

Yêu sự sáng suốt

Điều quan trọng là không xem con đường dẫn tới sự sáng suốt là thứ gì đó đau đớn và khắc khổ. Thật sự, nó mang tới những sức mạnh rất thú vị và mãn nguyện, sâu hơn nhiều so với những niềm vui cuồng nhiệt mà thế giới có xu hướng đem đến cho chúng ta. Bạn từng cảm thấy điều này trong chính cuộc sống của mình khi chìm đắm vào một kế hoạch; thời gian qua như bay, và trải nghiệm những cơn phấn khích thi thoảng bùng nổ khi bạn có những phát hiện hay tiến triển trong công việc. Cũng có những niềm vui khác. Việc có thể thuần hóa Cái tôi Cảm xúc dẫn tới một sự bình thản và thông suốt toàn diện. Trong trạng thái tinh thần này bạn ít bị xâm chiếm bởi những xung đột và suy xét lặt vặt. Những hành động của bạn hiệu quả hơn, và cũng dẫn tới ít rối loạn hơn. Bạn có nhiều khoảng trống tinh thần để sáng tạo, bạn cảm thấy tự chủ hơn.

Khi biết tất cả những điều này, bạn sẽ dễ thôi thúc bản thân để phát triển giá trị này hơn. Ở ý nghĩa này, bạn sẽ đi theo con đường của chính Pericles. Ông hình dung nữ thần Athena là hiện thân của tất cả các sức mạnh thiết thực của sự sáng suốt. Ông tôn thờ và kính yêu nữ thần này hơn tất cả các vị thần khác. Chúng ta có thể không còn tôn kính nữ thần này như một thần linh, nhưng chúng ta có thể đánh giá ở một cấp độ sâu hơn đối với những ai nâng cao sự sáng suốt trong thế giới của chúng ta, và có thể tìm cách tiếp thu khả năng của họ càng nhiều càng tốt.

“Hãy tin vào những cảm giác của bạn!” - Nhưng cảm giác không phải là thứ xuất hiện cuối cùng hay ngay từ đầu, đằng sau những cảm giác là những phán xét và đánh giá mà chúng ta thừa kế dưới hình thức… những xu hướng, những ác cảm… Cảm hứng sinh ra từ một cảm giác là đứa cháu của một phán xét - và thông thường là một phán xét sai! - và không phải là một đứa cháu của chính bạn trong bất kỳ sự kiện nào! Tin vào những cảm giác của mình nghĩa là vâng lời tổ tiên của mình hơn vâng lời các vị thần vốn hiện hữu bên trong chúng ta: lý trí và kinh nghiệm của chúng ta.

- Friedrich Nietzsche.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3